Libby nhìn Phin chằm chằm.
Gã ta nhìn lại Libby. “Tôi từng sống ở đây,” gã nói, dù không ai yêu cầu gã phải giải thích gã ta là ai. Ngay sau đó, trước khi Libby kịp đáp lại, gã nói, “Cô rất xinh đấy.”
Libby nói, “Ồ.”
Rồi gã nhìn Miller và hỏi, “Anh là ai?”
“Xin chào.” Miller chìa tay ra bắt. “Tôi là Miller Roe.”
Phin nhìn anh đầy thắc mắc. “Tại sao tôi nghe tên anh thấy quen quen nhỉ?”
Miller thì thào một tiếng gì đó kỳ lạ và nhún vai.
“Anh là tay nhà báo, phải không?”
“Đúng vậy.”
“Anh viết bài báo đó như cứt vậy. Sai tùm lum hết cả.”
“Đúng vậy,” Miller nhắc lại, “giờ thì tôi cũng biết điều đó.”
“Tôi không thể tin được cô lại xinh như thế này,” gã nói, quay mặt lại phía Libby. “Cô trông giống hệt như…”
“Mẹ tôi?”
“Đúng vậy,” gã ta nói. “Giống như mẹ cô.”
Libby nghĩ về những tấm ảnh của mẹ cô với mái tóc nhuộm đen phong cách Priscilla Presley, và đôi mắt viền phấn côn đen huyền. Cô cảm thấy hãnh diện.
Rồi cô nói, “Ông làm gì ở đây?”
Phin đáp, “Đợi cô tới.”
“Nhưng hôm trước tôi đã ở đây. Tôi nghe thấy tiếng ông ở trên lầu. Vậy tại sao lúc đấy ông không đi xuống?”
Gã ta nhún vai. “Tôi có xuống. Chỉ là khi tôi xuống đến nơi thì cô đã đi mất rồi.”
“Ồ.”
“Vậy chúng ta có nên…” Phin chỉ tay về phía cầu thang.
Họ theo gã xuống cầu thang và đi vào trong bếp.
Phin ngồi ở một bên bàn; Libby và Miller ngồi phía còn lại. Libby quan sát khuôn mặt của gã. Gã ta chắc phải ngoài bốn mươi tuổi, nhưng trông gã trẻ hơn nhiều. Gã có đôi hàng mi dài khác thường.
“Vậy,” gã nói, hai cánh tay dang rộng, “cả căn nhà này là của cô.”
Libby gật đầu. “Nhưng đáng ra cũng phải là của cả anh trai và chị gái tôi nữa.”
“Ôi dào, mấy đứa ngốc nghếch. À mà, đáng ra tôi nên nói chúc mừng sinh nhật cô mới phải. Dù có hơi muộn một chút.”
“Cảm ơn ông,” cô nói. “Lần cuối ông ở đây là từ khi nào?”
“Cách đây vài thập kỷ.”
Giữa họ có một khoảng lặng dài, đầy e ngại. Rồi Phin cất tiếng, “Tôi nghĩ cô có một vài câu hỏi.”
Miller và Libby liếc mắt nhìn nhau. Libby gật đầu.
“Vậy thì,” Phin nói, “chúng ta có nên đi ra khỏi đây không? Tôi sống ở bên kia sông. Tôi có rượu đã ướp lạnh sẵn. Trên nhà tôi có sân thượng. Và cả mấy con mèo nhìn như cái đệm bông nữa.”
Họ lại liếc mắt nhìn nhau.
“Tôi không ăn thịt hai người đâu mà sợ,” Phin nói. “Và cả mèo nhà tôi cũng thế. Đi sang nhà tôi. Tôi sẽ kể cho hai người nghe tất cả mọi thứ.”
Hai mươi phút sau, Libby và Miller theo chân Phin ra khỏi chiếc thang máy bóng loáng, bước vào một hành lang được lát đá cẩm thạch.
Căn hộ của gã ta ở đầu bên kia.
Đèn trong nhà tự động bật lên khi gã ta dẫn họ bước vào sảnh phía trước phòng khách ốp cửa kính, bên kia là sân thượng nhìn ra sông.
Thứ gì trong nhà trông cũng mờ mờ nhạt nhạt. Một tấm da cừu trắng khổng lồ được choàng lên lưng chiếc ghế xô-pha dài màu kem. Một bình hoa lộng lẫy cắm toàn hoa hồng và hoa ly, trông chẳng khác gì phòng trưng bày của thương hiệu Northbone Kitchens.
Phin dùng chiếc điều khiển nhỏ mở cửa sân thượng và mời họ ngồi xuống cặp ghế xô-pha cạnh chiếc bàn thấp. Trong lúc gã đi lấy rượu, Libby và Miller lại nhìn nhau.
“Căn này có khi phải đến vài triệu bảng Anh đấy nhỉ,” Miller nói.
“Ít nhất là như thế,” Libby đáp. Cô đứng dậy và nhìn sang bên kia sông. “Nhìn kìa!” cô nói. “Ngôi nhà ở kia kìa. Chúng ta đang ở ngay phía đối diện.”
Miller ra đứng cùng cô. “Chà,” anh đáp gọn lỏn, “tôi nghĩ ta có thể cho rằng đây không phải một sự trùng hợp ngẫu nhiên.”
“Anh có nghĩ ông ta theo dõi chúng ta không?”
“Có, tôi tin là gã đã theo dõi chúng ta. Còn lý do nào khác để chọn một căn hộ nhìn ra hướng này cơ chứ?”
“Anh nghĩ gì về ông ta?” Cô thì thầm.
Miller nhún vai. “Tôi nghĩ gã hơi…”
“Kỳ lạ?”
“Phải, hơi kỳ lạ. Và hơi…”
Nhưng rồi Phin quay trở lại, một tay cầm thùng đá đựng chai rượu vang và ba cái ly thủy tinh, tay kia ôm một con mèo trên ngực. Gã ta đặt thùng đá xuống bàn nhưng giữ con mèo ở trên tay. “Đây là Mindy,” gã nói, tay cầm chân con mèo vẫy vẫy chào. “Mindy, đây là Libby và Miller.”
Con mèo phớt lờ họ và cố lách ra khỏi tay Phin. “Ồ,” gã ta nói với con mèo đang cố trượt ra đằng sau, “được thôi. Đồ quỷ cái, để xem tao có thèm quan tâm không nhé.”
Rồi gã quay về phía họ và nói, “Nó là con tôi thích nhất. Tôi luôn yêu những người không ưa gì tôi. Đó là lý do tại sao đến giờ tôi vẫn độc thân.”
Gã mở chai rượu ra và rót rượu vào từng cái ly một.
“Hãy nâng cốc,” gã nói, “để chúc mừng ngày đoàn tụ.”
Họ cụng ly và theo sau đó là sự im lặng có phần nặng nề.
“Cảnh từ đây nhìn ra đẹp thật,” Miller nói, “Anh sống ở đây được bao lâu rồi?”
“Không lâu lắm. Mà thật ra, họ cũng chỉ mới xây xong mấy căn hộ này năm ngoái.”
“Vị trí này đúng là quá tuyệt vời, phải không, ngay đối diện với đường Cheyne.”
Phin gật đầu. “Tôi muốn ở gần,” gã quay sang nói với Libby, “để chờ cô quay trở về.”
Một con mèo Ba Tư nữa xuất hiện trên sân thượng. Con này béo phì, mắt thì lồi ra. “À,” Phin nói, “đây rồi. Quý-ngài-thích-chú-ý. Chắc nó biết tôi có khách đây mà.” Gã bế con mèo khổng lồ lên và đặt nó vào lòng. “Đây là Dick. Tôi đặt tên nó như vậy vì đó là cách duy nhất tôi có thể đảm bảo là tôi cũng có được một cái cho riêng mình.”
Libby phá lên cười và nhấp một ngụm rượu. Trong một thế giới khác, đây có thể là một đêm đàn đúm tuyệt vời: hai người đàn ông đẹp trai, trời hè ấm áp, trên sân thượng của tòa nhà sang trọng nhìn ra sông Thames, ly vang trắng mát lạnh. Nhưng ở trong thế giới này, mọi thứ đều méo mó, và Libby cảm thấy bị đe dọa, dù đó chỉ là những cảm nhận mơ hồ. Ngay cả mấy con mèo cũng thế.
“Vậy,” Miller nói, “nếu anh định kể cho chúng tôi nghe tất cả những gì đã xảy ra trên đường Cheyne, thì đây sẽ là phát ngôn không chính thức? Hay tôi lại đóng vai trò phóng viên?”
“Anh cứ làm những gì anh muốn.”
“Tôi ghi âm lại được không?” Miller rút điện thoại của mình từ trong túi quần ra.
“Được thôi,” Phin nói, ngón tay cào cào bộ lông dày trên lưng con mèo. “Tại sao không chứ? Tôi chẳng còn gì để mất cả. Anh cứ tự nhiên.”
Miller loay hoay với chiếc điện thoại của mình một lúc. Libby để ý thấy tay anh hơi run, cho dù mặt anh rõ là phấn khích. Cô nhấp thêm ngụm rượu nữa để trấn an tinh thần. Rồi Miller đặt điện thoại lên bàn và hỏi, “Anh nói mọi thứ trong bài báo tôi viết đều sai bét. Vậy chúng ta có thể bắt đầu ở đấy được không?”
“Chắc chắn rồi.” Con mèo béo nhảy ra khỏi đùi Phin, và gã lơ đãng lấy tay phủi lông dính trên quần.
“Vâng, khi tôi thu thập thông tin để viết báo, tôi tìm thấy một người đàn ông tên là David Thomsen. Thomsen với chữ E.”
“Vâng,” Phin nói. “Cha tôi.”
Libby thấy vẻ nhẹ nhõm đắc thắng ngập tràn trên gương mặt Miller. Anh ta thở phào và nói, “Và mẹ ông là Sally?”
“Đúng, Sally là mẹ tôi.”
“Và Clemency…?”
“Vâng, đó là em gái tôi.”
“Còn thi thể thứ ba…”
“Chính là cha tôi.” Phin gật đầu. “Đúng chính xác. Thật đáng tiếc là anh lại chẳng tìm hiểu tất cả những thông tin này trước khi viết bài.”
“Ồ, tôi cũng có làm đấy chứ. Nhưng tôi không thể tìm thấy bất kỳ ai. Tôi đã cố truy lùng suốt mấy tháng trời, nhưng không thấy một dấu vết nào cả. Vậy, điều gì đã xảy ra với gia đình anh?”
“Ừm, tôi biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Nhưng tôi e là tôi không biết chuyện gì đã xảy ra với mẹ tôi hay Clemency.”
“Ba người không giữ liên lạc với nhau à?”
“Không hề. Tôi đã không gặp họ từ khi tôi còn là thiếu niên. Theo như tôi biết thì mẹ tôi sống ở Cornwall và tôi đoán em gái tôi cũng vậy.” Gã ta nhún vai và nhấc ly rượu của mình lên. “Penreath,” gã nói.
Miller nhìn gã bằng ánh mắt khó hiểu.
“Tôi khá chắc là họ sống ở Penreath.”
“Ồ ra vậy,” Miller nói. “Tuyệt. Cảm ơn anh.”
“Rất sẵn lòng,” gã đáp. Rồi gã xoa xoa hai bàn tay vào nhau và nói, “Hỏi tôi điều gì khác đi! Hỏi tôi điều gì đã xảy ra trong cái đêm mà cả ba người cùng chết.”
Miller cười nhạt và nói. “Được. Vậy, điều gì đã xảy ra? Trong cái đêm mà cả ba người cùng chết?”
Phin tinh quái đưa mắt nhìn cả hai bọn họ, rồi rướn người về phía trước, ghé sát miệng vào micrô trên điện thoại của Miller và nói, “Chà, trước hết, đó không phải một vụ tự tử. Đó là vụ án mạng.”