Tôi quyết định rằng đứa trẻ sắp chào đời chính là nguyên nhân của tất cả nỗi đau mà chúng tôi đang phải gánh chịu. Tôi thấy mẹ tôi ngày một béo lên, còn tất cả chúng tôi thì ngày một gầy đi. Và tôi thấy David hay ra vẻ ta đây, đầu tóc chải chuốt, dáng đi khệnh khạng. Mẹ tôi tăng thêm được cân nào là bản mặt câng câng tự đắc của David lại dày thêm một lớp. Tôi cố nhớ những gì Phin đã nói với tôi hôm chúng tôi đi chợ Kensington, về chuyện David bị tống cổ ra khỏi ngôi nhà trước mà ông ta đã cố gắng thâm nhập và kiểm soát. Tôi cố tưởng tượng ra nỗi nhục nhã mà David phải hứng chịu khi ăn cắp và bị chủ nhà bắt quả tang. Tôi cố tự nhắc bản thân mình rằng người đàn ông vô gia cư, không một xu dính túi gõ cửa nhà tôi bốn năm trước ấy, cũng chính là người đàn ông vênh váo như con gà tây xù lông trong nhà tôi bây giờ.
Tôi không thể chịu nổi khi nghĩ đến cảnh đứa bé này sắp được sinh ra đời. Tôi biết David sẽ sử dụng nó để củng cố ngôi vị chúa tể của ông ta trong cái vũ trụ nhỏ bé và biến dạng của chúng tôi. Nếu đứa bé này biến mất, mẹ tôi có thể ngừng ăn, và chúng tôi sẽ lại được mang vi khuẩn vào nhà. Và, quan trọng hơn nữa, gia đình tôi sẽ không có lý do gì để phải giữ mối quan hệ với David Thomsen. Sẽ không có bất kỳ sợi dây nào gắn kết chúng tôi lại, chúng tôi không còn liên quan tới nhau.
Tôi biết điều tôi cần làm, và nghe thì bạn sẽ nghĩ tôi là người xấu. Nhưng lúc đó tôi mới chỉ là một đứa trẻ. Tôi không có cách nào khác. Tôi chỉ cố cứu tất cả mọi người.
Tôi không ngờ liều thuốc ấy lại rất dễ thực hiện. Tôi chỉ phải đảm bảo là tôi nấu cho mẹ ăn nhiều nhất có thể. Tôi pha trà thảo mộc và ép các loại nước rau củ quả cho bà ấy uống. Tôi đan xen các nguyên liệu được liệt kê trong chương “Phá thai bằng các phương pháp tự nhiên” từ quyển sách mà Justin để lại vào tất cả những món ăn mà tôi chuẩn bị cho bà ấy. Cả tấn mùi tây, quế, ngải cứu, hạt vừng, hoa cúc và dầu hoa anh thảo.
Một lần, khi tôi đưa cho bà ly nước ép trái cây, bà vuốt tay tôi và nói, “Con đúng là một cậu bé ngoan, Henry. Mẹ cảm thấy rất may mắn khi được con chăm sóc.” Mặt tôi đỏ ửng lên và tôi không trả lời, vì nếu nhìn ở góc độ nào đó, thì đúng là tôi đang chăm sóc cho bà ấy. Tôi đang cố đảm bảo rằng bà ấy sẽ mãi mãi không bao giờ bị David cùm chân lại nữa. Nhưng nhìn dưới góc độ khác, tôi đã không hề chăm sóc cho bà một chút nào.
Và rồi một ngày, khi mẹ tôi đã có bầu khoảng đến tháng thứ năm, lúc này đứa bé đã có đầy đủ hình dạng và trở nên chân thực hơn bao giờ hết, bắt đầu biết đạp, biết vặn vẹo, biết di chuyển, mẹ tôi đi xuống nhà, và tôi nghe thấy bà nói chuyện với Birdie trong bếp. “Em bé cả ngày hôm nay chưa đạp,” mẹ tôi nói. “Chẳng động đậy tí nào.”
Cả ngày hôm đấy, nỗi sợ hãi trong tôi cứ lớn dần lên, và tôi cảm thấy có một căn bệnh đen tối khủng khiếp đang ẩn sâu trong ruột gan mình, bởi tôi biết điều gì đang xảy tới.
Tất nhiên là chẳng có ai gọi bác sĩ và cũng chẳng có chuyến xe cứu thương nào đến Khoa Cấp cứu cả. Hẳn là trong vô số kỹ năng mà David sở hữu, ông ta còn có tất cả chuyên môn cần thiết của một bác sĩ phụ khoa. Ông ta phụ trách mọi thứ, cử người đi lấy khăn, nước và những lọ thuốc vô tác dụng.
Phải mất đến năm ngày đứa bé mới được lôi ra sau khi chết trong bụng mẹ.
Mẹ tôi kêu khóc hàng tiếng đồng hồ. Bà ở trong phòng với David, Birdie và đứa bé, tiếng gào thét vang vọng cả ngôi nhà. Bốn đứa trẻ chúng tôi ngồi túm tụm lại với nhau trên tầng gác mái, không ai có đủ khả năng để xử lý những gì đang diễn ra. Và rồi cuối cùng, tối muộn hôm đó, mẹ tôi mang đứa bé xuống nhà, thi thể nó được quấn trong một chiếc khăn choàng màu đen. David đào cho đứa bé một nấm mồ ở cuối vườn và đứa bé được chôn cất trong bóng tối, dưới ánh nến thắp sáng xung quanh.
Tối hôm đó tôi đi tìm cha tôi. Tôi ngồi đối diện ông và nói, “Cha có biết là đứa bé đã chết rồi không?”
Ông quay lại nhìn tôi chằm chằm. Tôi biết là ông sẽ không trả lời vì giờ ông không nói được nữa rồi. Nhưng tôi nghĩ biết đâu sẽ có điều gì đấy hiện lên trong mắt ông, để nói cho tôi biết ông nghĩ gì về những sự kiện đã xảy ra trong ngày. Nhưng tôi chỉ nhìn thấy trong mắt ông nỗi sợ hãi và buồn bã.
“Nó là con trai,” tôi nói. “Bọn họ gọi nó là Elijah. Giờ họ đang chôn nó rồi, ở cuối vườn ấy.”
Ông vẫn nhìn tôi chằm chằm.
“Có lẽ như thế cũng tốt, phải không cha? Cha có nghĩ vậy không?”
Tôi đang cố tìm sự cứu rỗi cho chính những tội lỗi mà mình đã gây nên. Tôi quyết định coi sự im lặng của ông chính là lời đồng thuận.
“Ý con là, chắc gì ra đời đứa bé ấy đã sống nổi, cha thấy đúng không? Nếu không được chăm sóc y tế kịp thời? Hoặc tệ hơn, nhỡ đâu chính mẹ cũng không giữ nổi mạng. Vậy nên, cha thấy đấy, có khi như thế này lại tốt hơn.” Tôi liếc nhìn hình ảnh phản chiếu của mình trong tấm kính tối màu trên cửa sổ đằng sau cha tôi. Nhìn tôi trẻ con và ngu ngốc. “Nó bé tí.”
Nói đến đây giọng tôi vỡ ra. Đứa bé ấy nhỏ xíu, như một con búp bê kỳ lạ. Trái tim tôi đau nhói khi tôi nhìn thấy nó. Em trai tôi.
“Dù sao thì, đó là những gì đang diễn ra. Và giờ, con đoán mọi thứ có thể trở lại bình thường.”
Nhưng đó mới là vấn đề. Bởi vì chẳng có cái gì là bình thường ở đây cả. Cuộc sống của cha tôi không bình thường. Sự tồn tại của chúng tôi cũng không bình thường. Đứa bé đã ra đi, nhưng tôi vẫn chẳng có đôi giày nào cả. Đứa bé đã ra đi, nhưng cả ngày cha tôi vẫn ngồi trên ghế và nhìn chằm chằm vào một bức tường. Đứa bé đã ra đi, nhưng chúng tôi vẫn không được tới trường, không có kỳ nghỉ, không bạn bè, không giao du với thế giới bên ngoài.
Đứa bé đã đi, nhưng David Thomsen vẫn ở đây.