Tôi bừng tỉnh trước mùi thơm nồng của bơ và quế. Adrian đã thay quần áo xong và đang đi đi lại lại trong bếp. Anh chàng tìm được táo xanh trong tủ đựng thực phẩm và giờ đang đứng trước bếp với cây vét bột, lật chiếc bánh rán hay gì đó. Tôi liếc nhìn đồng hồ và giờ là hơn 7 giờ sáng rồi.
“Anh đã dậy rồi sao?”
“Anh sẽ lái xe tới Akron. Để gặp Dolores Campbell. Nếu anh đi luôn từ giờ, Google cho biết anh sẽ tới được đó vào lúc 2 giờ.”
“Chỉ tốn thời gian thôi. Anh sẽ lái sáu trăm năm mươi cây số để gặp một người thậm chí còn không nhận ra hộ lý của chính mình.”
“Đó là manh mối cuối cùng của chúng ta. Hãy để anh mang những bức vẽ và cuốn sách mượn của thư viện. Anh sẽ cho bà ấy xem, thử xem chúng có kích thích được phản ứng nào của bà ấy không.”
“Không được đâu.”
“Có thể em đúng. Nhưng dù vậy anh vẫn sẽ cố thử xem xem.”
Anh chàng rất quyết tâm, thế nên tôi cảm thấy có trách nhiệm cần đồng hành với anh—nhưng tôi đã hứa sẽ dành buổi chiều chơi với Teddy. “Em cần phải ở lại đây. Họ đã lên kế hoạch tổ chức một bữa tiệc cho em.”
“Anh sẽ không sao đâu. Anh mới tải xong một cuốn sách nói mới. Người thừa kế của Jedi. Vừa đủ nghe suốt dọc đường tới Akron và quay về.” Anh chàng mang một cốc trà và một đĩa bánh vị táo với quế tới và bảo tôi ngồi trên giường nhấm nháp. “Giờ thì để xem em thấy vị món bánh này thế nào. Công thức của bố anh đấy.” Tôi ngồi dậy và cắn thử một miếng và đúng, thực sự là chúng rất xuất sắc—chua chua ngọt ngọt, ngậy bơ, rất ngon, thậm chí còn ngon hơn cả món bánh churros.
“Tuyệt vời lắm.”
Anh chàng rướn người và hôn lên má tôi. “Trên bếp vẫn còn đấy. Anh sẽ gọi cho em trên đường đi và báo cho em biết anh tìm được gì.”
Và tôi hơi buồn khi anh chàng phải đi. Tôi phải giết thời gian nguyên cả ngày trước khi bữa tiệc bên hồ bơi bắt đầu vào lúc 3 giờ chiều. Nhưng tôi có cảm giác sẽ không thể nào ngăn cản Adrian được, anh chàng sẽ đuổi theo mọi manh mối tới cùng trời cuối đất, miễn sao có thể giữ tôi không phải rời khỏi Spring Brook.
Tôi dành buổi sáng để thu dọn đồ đạc. Không mất quá lâu. Sáu tuần trước, tôi tới Spring Brook với một chiếc va li cũ và vài ba bộ quần áo. Bây giờ, nhờ sự hào phóng của Caroline, tôi đã có tủ quần áo với nhiều đồ hơn—nhưng lại chẳng có gì để đựng tất cả số quần áo mới. Thế là tôi gập những chiếc đầm trị giá năm trăm đô-la mà chị ấy cho thật cẩn thận rồi để chúng vào một cái túi rác loại bốn mươi cân—đó là thứ mà các bạn của tôi ở Safe Harbor hay gọi là hành trang của đời cai nghiện.
Sau đó, tôi mang giày thể thao và đi chạy một lần cuối quanh khu dân cư. Tôi cố không nghĩ tới chuyện mình sẽ nhớ Spring Brook tới mức nào—tất cả những cửa hàng và quán ăn nhỏ, những căn nhà được trang hoàng kĩ lưỡng, những bãi cỏ và khu vườn đẹp đẽ. Tôi đã từng tới căn hộ của bác Russell ở Norristown, dễ thấy cảnh quan quanh nhà bác kém xa nơi này. Bác sống ở tầng mười của một tòa nhà cao tầng bên cạnh một khu cao ốc văn phòng và kho xử lý đơn hàng của Amazon. Vây xung quanh khu tổ hợp đó là đường cao tốc, hàng cây số đường nhựa với bê tông nóng bốc khói. Không hề đẹp đẽ một chút nào, nhưng hiển nhiên đó là nơi xứng đáng dành cho tôi.
Bữa tiệc bên hồ bơi, theo tôi nghĩ, là một nghĩa cử lịch sự dành cho tôi. Caroline treo mấy lá cờ đuôi nheo bay lật phật quanh hiên nhà phía sau, và chị cùng với Teddy treo một tấm băng rôn tự làm có ghi cảm ơn Mallory. Ted và Caroline giả vờ rất giỏi rằng không phải tôi bị đuổi việc. Cả ba chúng tôi hành xử giống như kiểu là tôi tự nguyện rời đi, để làm cho không khí buổi chiều đó bớt khó xử. Caroline ở trong bếp, chuẩn bị đồ ăn, trong khi tôi bơi ở hồ cùng Ted và Teddy. Ba chúng tôi tham gia một loạt cuộc đua ngớ ngẩn mà Teddy luôn luôn giành chiến thắng. Tôi tự hỏi ra miệng rằng không biết Caroline có cần giúp gì không—chị có muốn xuống bơi một chút không—và rồi sau đó nhận ra tôi chưa từng thực sự nhìn thấy chị xuống nước.
“Nước hồ làm mẹ bị ngứa,” Teddy giải thích.
“Do Clo đấy.” Ted nói. “Tôi đã cố điều chỉnh độ pH nhưng không hiệu quả. Da của cô ấy cực kì nhạy cảm.”
Tới 4 giờ, tôi vẫn chưa nghe tin tức gì từ Adrian. Tôi đang định nhắn tin cho anh chàng, nhưng sau đó Caroline từ trên hiên gọi ra bảo rằng bữa tối đã chuẩn bị xong. Chị đã bày lên bàn một bình nước đá và nước chanh tươi cùng rất nhiều đồ ăn tốt cho sức khỏe—có tôm xiên que nướng và sa-lát cam hải sản cùng một bát bí ngô, rau bó xôi và bắp ngô hấp. Rõ ràng là chị đã dành rất nhiều tâm sức cho tất cả các món, và tôi cảm nhận được chị thấy có lỗi khi không còn trọng dụng tôi nữa. Tôi bắt đầu tự hỏi không biết chị có cân nhắc lại về tương lai của tôi, liệu có khi nào vẫn còn cơ hội chị sẽ để tôi ở lại. Teddy kể chuyện với một giọng sôi nổi về chuyến đi chơi biển và ở khu giải trí. Cậu kể cho tôi nghe tất tật về nhà trò chơi và về trò ô tô đụng và về chuyện con cua ở biển đã cắp vào những ngón chân bé xíu của cậu như thế nào. Bố mẹ của cậu cũng phụ họa thêm với những câu chuyện của họ. Cảm tưởng như tất cả chúng tôi đang có một cuộc nói chuyện trong gia đình rất vui vẻ, giống như mọi thứ đã quay trở lại như bình thường.
Để tráng miệng. Caroline mang ra những chiếc bánh xốp có nhân sô-cô-la ấm dính có phủ kem vani ở trên mặt. Chúng được nướng đúng độ và khi ăn miếng đầu tiên, tôi đã há hốc vì kinh ngạc theo đúng nghĩa đen.
Tất cả mọi người bật cười trước phản ứng của tôi.
“Em xin lỗi,” tôi nói. “Nhưng đây là cái bánh ngon nhất mà em từng được ăn.”
“Ồ, thật tuyệt quá,” Caroline nói. “Chị rất vui khi chúng ta có thể kết thúc mùa hè một cách vui vẻ.”
Và đó là lúc tôi nhận ra không có gì thay đổi cả.
Tôi đề nghị giúp dọn rửa chén bát nhưng Ted và Caroline nhất định giành phần đó. Họ nhắc tôi rằng tôi là khách mời danh dự. Họ giục tôi đi chơi với Teddy. Thế là cậu bé cùng tôi quay lại hồ bơi và chơi lại một vòng các trò chơi yêu thích thêm một lần cuối. Chúng tôi diễn các vai trong phim Một mình trên hoang đảo rồi Titanic rồi Phù thủy xứ Oz. Và sau đó, suốt một quãng khá lâu hai chị em nằm bên cạnh nhau trên một chiếc bè phao và để trôi tự do.
“Norristown có xa lắm không?”
“Không xa lắm. Chưa đến một giờ đi xe.”
“Thế là chị vẫn có thể ghé thăm và tổ chức tiệc ở hồ bơi nhi?”
“Chị mong là vậy,” tôi bảo. “Nhưng chị không chắc nữa.”
Thật lòng mà nói ư? Tôi e là tôi sẽ không bao giờ gặp lại cậu bé nữa. Ted và Caroline sẽ chẳng khó khăn gì mà tìm được một người trông trẻ mới, và tất nhiên cô ấy sẽ xinh đẹp, thông minh và quyến rũ, rồi Teddy sẽ được chơi đủ mọi trò vui với cô ấy. Tôi sẽ được nhớ tới như một dòng chú dẫn khác thường trong lịch sử gia đình họ—người trông trẻ chỉ làm việc trong bảy tuần.
Và đây là đoạn mà tôi cảm thấy thực sự đau lòng. Có lẽ nhiều năm sau này, khi Teddy đưa cô bạn gái quen ở trường đại học về nhà ăn tối trong Lễ Tạ ơn, tên của tôi sẽ là một trò đùa để tán gẫu trên bàn ăn. Tôi sẽ được nhớ tới là ả trông trẻ điên khùng vẽ bậy lên khắp tường nhà, ả điên tin người bạn tưởng tượng của Teddy là có thật.
Cậu bé và tôi nằm ngửa trên cái bè phao và ngắm nhìn hoàng hôn đẹp mê mẩn. Tất cả những đám mây được nhuộm sắc hồng và tím; bầu trời trông giống như một bức vẽ thường thấy trong bảo tàng. “Nhưng chắc chắn chúng ta có thể làm bạn qua thư,” chị hứa. “Em có thể gửi những bức vẽ cho chị và chị sẽ viết thư cho em.”
“Em đồng ý.”
Cậu chỉ tay về phía một chiếc máy bay đang vút qua đường chân trời, để lại những dải khói trắng dài thẳng tắp. “Người ta có đi máy bay tới Norristown không ạ?”
“Không đâu anh bạn, ở đó không có sân bay.”
Cậu lộ rõ vẻ thất vọng trên mặt.
“Một ngày nào đó, em sẽ đi máy bay” cậu bảo. “Bố em nói những chiếc máy bay lớn có thể đi được tám trăm cây số mỗi giờ.”
Tôi cười lớn và nhắc Teddy nhớ rằng cậu từng đi máy bay rồi. “Khi em quay về nhà từ Barcelona ấy.”
Cậu lắc đầu. “Nhà em lái xe từ Barcelona về.”
“Không đâu, nhà em lái xe tới sân bay. Nhưng sau đó em lên máy bay. Không ai lái xe từ Barcelona về New Jersey cả.”
“Có nhà em mà. Đi mất cả đêm.”
“Nó nằm ở châu lục khác. Giữa hai châu lục là cả đại dương bao la.”
“Họ xây một đường hầm xuyên biển mà,” cậu nói. “Với những bức tường siêu dày để bảo vệ chị khỏi quái vật biển.”
“Thôi nào, đừng ngốc thế.”
“Chị hỏi bố mà xem, chị Mallory! Đúng là thế mà!”
Và sau đó từ trên thành hồ bơi, tôi nghe thấy tiếng điện thoại đổ chuông. Tôi đã đặt chuông to hết cỡ để không lỡ cuộc gọi của Adrian. “Chị sẽ quay lại ngay,” tôi nói với Teddy. Tôi nhảy khỏi bè và bơi tới thành hồ, nhưng tôi bơi không đủ nhanh. Khi cầm được điện thoại, cuộc gọi đã chuyển sang hòm thư thoại.
Tôi nhìn thấy Adrian đã nhắn cho tôi một bức ảnh. Một bà cụ da đen mặc một chiếc áo khoác len mỏng màu đỏ đang ngồi trên xe lăn. Ánh mắt của bà trông vô hồn, nhưng bộ tóc lại được cắt tỉa gọn gàng. Có vẻ bà cụ được chăm sóc chu đáo, tận tình.
Sau đó đến bức ảnh thứ hai—vẫn bà cụ ấy bên cạnh một người đàn ông da đen ngoài năm mươi tuổi. Người đàn ông vòng tay đỡ lấy bà cụ và hướng sự chú ý của bà vào máy ảnh, dỗ bà nhìn vào ống kính.
Adrian gọi lại.
“Em nhận được ảnh anh gửi chưa?”
“Những người này là ai vậy?”
“Đó là Dolores Jean Campbell và con trai bà ấy, chú Curtis. Là con gái và cháu ngoại của Annie Barrett. Hai tiếng vừa rồi, anh ở đây nói chuyện với họ. Chú Curtis tới đây vào mỗi Chủ nhật để thăm mẹ. Và chúng ta đã nhầm hết cả rồi.”
Thật không thể tin nổi!
“Annie Barret là người da đen sao?”
“Không, nhưng chắc chắn bà ấy không phải là người Hungary. Bà ấy sinh ra ở Anh.”
“Bà ấy là người Anh sao?”
“Cháu ngoại của bà ấy đang đứng ngay bên cạnh anh đây. Anh sẽ để chú Curtis nghe máy, để chú ấy kể trực tiếp cho em, được chứ?”
Teddy từ giữa hồ nhìn tôi chăm chăm, buồn bực, mong chờ tôi quay lại chơi tiếp. Tôi thì thầm bảo nó “năm phút” và thế là cậu bé bám lấy bè và bắt đầu dùng đôi chân nhỏ xíu đạp nước, tự bơi lòng vòng.
“Chào Mallory, chú là Curtis đây. Có thật là cháu đang sống trong căn chòi của bà Annie không?”
“Vâng-vâng, cháu nghĩ vậy ạ.”
“Ở Spring Brook, New Jersey. Phía sau khu rừng Hayden’s Glen đúng không? Anh bạn Adrian của cháu đã cho chú xem vài bức ảnh. Nhưng cháu không phải lo đâu, bà của chú không ám cháu đâu.”
Tôi cảm thấy rất bối rối. “Sao chú biết ạ?”
“Chuyện là như thế này. Bà chuyển từ Anh tới Spring Brook sau Thế chiến thứ hai, được chưa nào? Sống cùng với anh họ của bà là George. Họ sống ở rìa đông khu rừng Hayden’s Glen, hồi đó nơi này toàn là dân da trắng giàu có. Thế còn ông ngoại Willie của chú, ông sống ở rìa tây của Hayden’s Glen. Trong một khu dân cư có tên là Corrigan. Địa phận của người da màu. Ông làm nghề bơm xăng ở một cây xăng Texaco, và sau giờ làm ông sẽ ra sông đánh bắt cho bữa tối. Ông ngoại rất thích đi câu. Ông ăn cá hồi và cá rô mỗi ngày nếu có cá cắn câu. Một ngày, ông nhìn thấy cô gái da trắng xinh đẹp nọ đang đi chân trần. Mang theo sổ vẽ. Cô gái chào ông, nhưng ông ngoại nói ông sợ lắm, chẳng dám nhìn cô gái ấy. Bởi vì hồi đó là năm 1948 mà, cháu chắc cũng biết chứ? Nếu cháu là một người đàn ông da đen và một cô gái da trắng mỉm cười với cháu thì phải làm sao? Cháu phải ngoảnh mặt đi. Nhưng bà Annie đến từ Cresscombe, bên Anh. Một thành phố ven biển có đầy những người nhập cư từ vùng biển Caribe. Bà không sợ người da đen. Bà chào ông ngoại mỗi chiều gặp nhau. Thời gian sau đó, họ trở nên thân thiết với nhau, và rất nhanh tình cảm của họ đã vượt qua mức thân thiết. Rất nhanh ông ngoại lén băng rừng vào lúc nửa đêm để gặp mặt bà ngoại tại căn chòi của cháu. Cháu có theo được những gì chú kể không?”
“Cháu nghĩ là được ạ.” Tôi liếc nhìn ra hồ để kiểm tra Teddy. Cậu vẫn đang bám vào cái bè phao bơi vòng vòng, tôi cảm thấy có lỗi vì đã bỏ mặc cậu vào ngày cuối cùng, nhưng tôi cần phải nghe nốt câu chuyện. “Đã có chuyện gì ạ?”
“Thế rồi một ngày, bà Annie đi tìm anh họ George và nói rằng bà đã có thai. Chỉ là hồi đó bà không dùng từ như vậy. Có thể bà nói rằng bà ‘có đứa bé’. Bà nói với ông George rằng ông Willie là cha đứa bé, rằng bà sẽ bỏ trốn để kết hôn với ông. Họ sẽ đi về phía tây, chuyển tới Ohio và sống tại trang trại gia đình của ông Willie, ở đó sẽ chẳng có ai bận tâm đến họ. Và bà Annie rất ngang bướng, nên ông George biết rằng ông không thể ngăn cản được.”
“Vậy rồi đã có chuyện gì ạ?”
“Thì ông George nổi điên lên, hiển nhiên rồi. Ông cho rằng đứa con của bà sẽ là một thứ đáng ghê tởm. Ông nói rằng Chúa sẽ không chấp nhận cuộc hôn nhân của hai người họ. Ông nói ông sẽ coi như bà Annie đã chết, và gia đình sẽ coi như bà không còn tồn tại trên đời. Và bà bảo được thôi, dù sao bà cũng chưa bao giờ thực sự quan tâm tới họ. Sau đó, bà thu dọn đồ đạc và biến mất. Hành động này đẩy ông George vào một tình cảnh tiến thoái lưỡng nan khiến ông không khỏi mất thể diện. Ông là trụ cột của cộng đồng đó. Ông là thầy trợ tế ở nhà thờ. Ông không thể nói với mọi người rằng cô em của ông đã bỏ trốn với một tên da màu. Ông thà chết còn hơn để sự thật lộ ra ngoài. Thế là ông đã dựng lên câu chuyện. Ông tới cửa hàng bán thịt và mua hai xô tiết lợn. Hồi đó chưa có khoa học pháp y mà, máu nào thì cũng là máu. Ông hắt lên khắp căn chòi, đẩy đổ đồ đạc, làm cho giống như có ai đó cướp phá căn chòi. Sau đó, ông báo cảnh sát. Cả thành phố truy tìm người mất tích, và họ còn bủa cả lưới xuống sông nhưng chẳng tìm được thi thể nào cả vì làm gì có thi thể nào đâu. Bà ngoại gọi đó là Cuộc đào thoát vĩ đại. Sáu mươi năm sau đó, bà sống ở một nông trại gần Akron. Bà sinh ra mẹ chú, Dolores, vào năm 1949, và cậu Tyler vào năm 1950. Khi bà qua đời, bà đã có bốn đứa cháu và ba đứa chắt. Bà sống tới tám mươi mốt tuổi.”
Curtis kể câu chuyện với giọng tự tin và đáng tin cậy, nhưng tôi vẫn không thể tin nổi. “Vậy mà chưa từng có ai biết sự thật sao ạ? Mọi người ở Spring Brook vẫn nghĩ là bà ấy bị sát hại. Bà ấy là bà kẹ của nơi này. Bọn trẻ con bảo rằng bà ấy ám khu rừng.”
“Chú đoán là khu Spring Brook vẫn chưa thay đổi nhiều kể từ hồi năm 1940. Hồi ấy đó là một nơi giàu có, giờ chú cá là cháu vẫn gọi nó là một nơi ‘sung túc’. Hai từ nhưng đều chỉ cùng một thứ. Nhưng nếu cháu lái xe sang khu Corrigan, cháu sẽ phát hiện ra rất nhiều người biết sự thật.”
Tôi chợt nhớ đến cuộc trò chuyện với thanh tra Briggs. “Cháu nghĩ cháu đã gặp một người như vậy, chỉ là cháu không tin chị ta lắm.”
“Ừm, hi vọng những gì chú kể đã giúp cháu trút được gánh nặng” Curtis nói. “Vợ chú đang đợi trong xe, nên chú sẽ chuyển lại máy cho bạn cháu nhé.”
Tôi cảm ơn chú Curtis đã dành thời gian cho cuộc trò chuyện và chú trả điện thoại lại cho Adrian. “Thật khó tin, phải không?”
“Chúng ta đã nhầm hết cả rồi sao?”
“Annie Barret không hề bị sát hại. Bà ấy không phải là hồn ma như ta nghĩ, Mallory ạ. Tất cả những bức tranh đó chắc hẳn là do một ai đó khác vẽ.”
“Teddy?” Tôi ngẩng đầu lên và nhìn thấy Caroline Maxwell đang đứng ở mép hồ bơi, gọi con trai. “Muộn rồi đấy. Con yêu. Đến giờ đi tắm thôi nào.”
“Thêm năm phút nữa được không ạ?” Cậu nói.
Tôi vẫy tay với Caroline, ra hiệu tôi sẽ trông cậu bé. “Em phải tắt máy đây,” tôi nói với Adrian. “Khi nào về tới nơi, anh có muốn ghé qua không? Vì hôm nay dầu sao chắc cũng là đêm cuối của em?”
“Nếu em không ngại thức muộn. GPS báo phải nửa đêm anh mới về đến nơi.”
“Em sẽ chờ. Đi cẩn thận nhé.”
Đầu óc tôi quay cuồng. Cảm tưởng như tôi vừa mới va đầu thẳng vào một bức tường gạch. Tôi nhận ra mấy tuần vừa qua mình đã đuổi theo một ngõ cụt—và giờ tôi cần suy nghĩ lại tất cả mọi điều tôi biết về Anya.
Nhưng trước hết, tôi cần đưa Teddy ra khỏi hồ bơi đã.
“Đi nào, Gấu yêu. Đi tắm thôi nào.”
Chúng tôi cầm lấy khăn tắm và băng qua sân, đi tới buồng tắm lộ thiên. Bên ngoài buồng tắm, có một cái ghế gỗ nhỏ xíu, và Caroline đã để bộ pijama xe cứu hỏa cùng quần áo lót sạch đó. Tôi với tay vào trong để mở nước, chỉnh lại vòi cho tới khi nước đủ ấm. Sau đó, Teddy vào trong và cài cửa, còn tôi đứng ngoài cầm khăn tắm cho cậu. Đồ bơi của cậu rơi bẹp xuống nền xi măng, và sau đó cậu dùng đôi chân đá nó ra ngoài cho tôi. Bằng hai tay, tôi vặn xoắn mảnh đồ may từ vải polyester, vắt kiệt nước. Sau đó, tôi liếc nhìn qua sân, về phía căn nhà của Mitzi. Đèn trong bếp đang mở, và thanh tra Briggs đã quay lại hiện trường. Chị ta đang đi xung quanh sân sau cùng với một cây que sắt, chọc vào đất, đo đạc. Tôi vẫy tay chào, và chị ta tiến lại.
“Mallory Quinn,” chị ta nói. “Nghe nói ngày mai em sẽ rời Spring Brook.”
“Ở đây, em không hợp lắm.”
“Caroline cũng nói vậy. Nhưng tôi hơi bất ngờ vì em không hề nhắc tới.”
“Vì có liên quan đâu ạ.”
Chị ta có vẻ chờ tôi nói tiếp, nhưng tôi chẳng biết chị mong chờ điều gì ở tôi nữa. Tôi đâu có cảm thấy tự hào khi bị đuổi việc đâu. Thế là tôi cố đổi chủ đề.
“Em vừa mới nói chuyện điện thoại với cháu ngoại của Annie Barrett. Một người đàn ông tên là Curtis Campell. Chú ấy sống ở Akron, Ohio. Xác nhận chắc cú là bà ngoại Annie của chú ấy sống thọ đến tám mươi mốt tuổi.”
Briggs cười tươi. “Tôi đã nói với em câu chuyện đó là bịa đặt rồi mà. Ông của tôi lớn lên cùng Willie. Họ từng câu cá với nhau.”
Teddy ngắt lời chúng tôi, gọi to từ trong phòng tắm. “Chị Mallory ơi?.”
“Chị đây, anh bạn.”
Giọng cậu bé có vẻ hoảng loạn. “Có một con bọ trên bánh xà phòng.”
“Bọ như thế nào?”
“To lắm. Có cả nghìn cái chân.”
“Tạt chút nước vào nó đi.”
“Em không làm được, em cần chị làm hộ.”
Cậu bé tháo chốt cửa và sau đó lùi vào tít một góc xa, tránh đường cho tôi đi vào. Tôi với tay cầm bánh xà phòng Dove, cứ nghĩ sẽ nhìn thấy một con bọ bạc ngoe nguẩy nào đó, nhưng chẳng có gì cả.
“Bọ đâu?”
Teddy lắc đầu. Bỗng tôi nhận ra chuyện con bọ chỉ là một mánh khóe, một cái cớ để tôi phải mở cửa. Cậu thì thầm, “Mình sẽ bị bắt phải không?”
“Ai cơ?”
“Cô cảnh sát ấy. Cô ấy nổi quạu vì chúng mình à?”
Tôi nhìn Teddy chằm chằm, vô cùng lúng túng. Không hiểu cậu bé muốn nói gì nữa. “Không, anh bạn, không có gì đâu. Không ai bị bắt cả. Em tắm cho xong đi, được chứ?”
Tôi đóng cửa lại rồi quay lưng đi, cậu bé lại cài chặt cửa.
Thanh tra Briggs vẫn đang chờ.
“Ổn cả chứ?”
“Thằng bé không sao.”
“Ý tôi hỏi là em đấy, Mallory. Mặt em trông như vừa mới nhìn thấy ma vậy.”
Tôi ngồi sụp xuống ghế để thư thái sắp xếp lại những ý nghĩ trong đầu. Tôi nói với chị là đầu óc tôi vẫn đang quay cuồng từ sau cuộc điện thoại. “Em đã tin sái cổ rằng Annie Barret bị sát hại. Không thể ngờ được mọi người đã đồn thổi câu chuyện này suốt bảy mươi năm qua.”
“Ừm, sự thật không được đón nhận ở Spring Brook. Nếu thành phố này khoan dung hơn một chút, có lẽ Willie và Annie đã chung sống với nhau ở đây. Có thể George đã không cảm thấy cần phải dàn dựng nên hiện trường một vụ án.” Briggs bật cười. “Em biết không, vẫn có những người ở phòng cảnh sát của tôi tin rằng vụ giết người đó là có thật đấy? Tôi kể cho họ nghe sự thật, và thái độ của họ nhìn tôi như kiểu tôi đang cố tình dựng chuyện, một nữ cảnh sát da đen đang cố kiếm lòng thương hại của họ nhờ vào màu da.” Chị ta nhún vai. “Mà thôi kệ đi, tôi không muốn em mất thời gian thêm nữa. Tôi chỉ có một câu hỏi nhanh thế này. Chúng tôi tìm được điện thoại di động của Mitzi trong bếp. Máy hết pin nhưng chúng tôi đã tìm được bộ sạc và làm nó hoạt động trở lại. Có vẻ như bà ấy đang nhắn dở một tin cho em. Tôi đọc thì không hiểu lắm, nhưng biết đâu nó lại có ý nghĩa gì đó với em.” Chị ta cúi nhìn cuốn sổ tay, nheo mắt nhìn qua tròng kính. “Tin nhắn viết thế này: Chúng ta cần nói chuyện. Lúc trước, ta đã nhầm. Anga không phải là một cái tên, nó”—Briggs ngừng lại và nhìn tôi. “Bà ấy viết được đến đó. Những câu từ này có ý nghĩa gì với em không?”
“Không ạ.”
“Thế còn Anya là sao? Có khi nào là gõ nhầm không?”
Tôi hất đầu về phía buồng tắm. “Anya là tên người bạn vô hình của Teddy.”
“Người bạn vô hình là sao?”
“Thằng bé năm tuổi. Nó rất giàu trí tưởng tượng.”
“Em biết chị ấy không có thật,” tiếng cậu vọng ra. “Em biết chị ấy chỉ là giả vờ thôi.”
Briggs nheo mắt, khó hiểu trước tin nhắn kì quái. Sau đó, chị ta lật lại vài trang trước đó trong cuốn sổ tay.
“Ngày hôm qua, tôi nói chuyện với Caroline Maxwell, và cô ấy nói rằng cô ấy nghe thấy tiếng Mitzi tranh vãi với ai đó vào tối thứ Năm. Cô ấy nhìn thấy Mitzi rời khỏi nhà, mặc đầm ngủ vào khoảng 10 giờ rưỡi tối, Em có vô tình nghe thấy gì không?”
“Không ạ, nhưng em không ở đây. Em đã ở nhà của Adrian. Cách đây ba khu. Bố mẹ anh ấy tổ chức một bữa tiệc.” Vào 10 giờ rưỡi tối thứ Năm, tôi đang ngồi trong khu vườn của Lâu đài hoa, lãng phí thời gian với cuốn Tuyển tập các tác phẩm của Anne C. Barrett. “Bác sĩ pháp y có biết Mitzi chết thế nào không ạ?”
Briggs nói nhỏ để Teddy không nghe được. “Thật không may dường như cái chết có liên quan đến ma túy. Tổn thương phổi cấp tính do dùng thuốc quá liều. Đâu đó trong khoảng đêm thứ Năm rạng sáng thứ Sáu. Nhưng đừng có rêu rao lên Facebook đấy nhé. Tạm giữ bí mật trong vài ngày đã.”
“Là do heroin phải không?”
Chị ta ngạc nhiên. “Sao em biết?”
“Em đoán thôi. Em nhìn thấy một số thứ trong nhà bà ấy. Nắp kim tiêm rải khắp trong phòng khách.”
“Ừm, em đoán đúng rồi đấy” Briggs nói. “Em có thể không biết chuyện người già dùng thuốc quá mạnh, nhưng các bệnh viện ở Philly thì gặp những người như vậy mỗi tuần. Chuyện đó phổ biến hơn em nghĩ. Có thể người tới gặp bà ấy là một tay buôn thuốc. Có thể họ nảy sinh tranh cãi. Chúng tôi vẫn đang thu thập thêm dữ liệu.” Chị ta đưa cho tôi thêm một tấm danh thiếp nữa, nhưng tôi nói tôi vẫn còn giữ tấm trước đó. “Nếu em nghĩ ra thêm được gì, hãy gọi cho tôi, được chứ?”
Sau khi Briggs rời đi, Teddy mở cửa buồng tắm, tóc tai láng bóng và người đã khoác bộ pijama hình xe cứu hỏa. Tôi ôm cậu bé và bảo rằng tôi sẽ gặp lại cậu khi trời sáng, để chào tạm biệt. Sau đó, tôi dẫn cậu đi về phía hiên và đưa cậu vào nhà.
Tôi cố gắng giữ bình tĩnh cho tới khi quay về trong căn chòi và khóa chặt cửa. Sau đó, tôi gieo người xuống giường, vùi mặt vào gối. Trong vòng ba mươi phút vừa qua, có quá nhiều tiết lộ chấn động, tôi chưa thể xử lý tất cả ngay được. Nó vượt quá sức chịu đựng của tôi. Những mảnh ghép dường như rời rạc hơn bao giờ hết.
Nhưng có một điều tôi khẳng định rất chắc chắn:
Vợ chồng Maxwell đã lừa dối tôi.