Khi quay lại căn chòi, điện thoại của tôi nhận được một tin nhắn từ Adrian với hai từ: Tin tốt. Tôi gọi lại và anh bắt máy ngay sau hồi chuông thứ nhất.
“Đã tìm được mấy thứ ở thư viện.”
“Mấy thứ ấy có phải là kiểu một tấm hình của Annie Barrett phải không?”
“Còn hơn thế. Một cuốn tuyển tập các bức vẽ của cô ấy.” Tôi nghe thấy tiếng của những người khác trong điện thoại, cả nam và nữ, đang cười đùa, có vẻ như tôi gọi cho Adrian khi anh đang ở một quán bar.
“Cậu có nghĩ ta nên gặp nhau không?”
“Có, nhưng mình muốn cậu tới đây. Nhà của bố mẹ mình. Họ tổ chức ăn tối và mình đã hứa là sẽ dùng bữa với bạn bè của họ. Nhưng nếu cậu ghé qua, mình sẽ thoát được.”
Tôi vẫn đang mặc đồ tập chạy, tôi chưa kịp tập bài giãn cơ nào, và sau khi chạy hơn 14 cây số, tôi đang đói và khát khô cổ họng—nhưng tôi nói khoảng nửa tiếng nữa tôi sẽ có mặt. Một ngày không giãn cơ cũng chẳng chết được.
Tôi tu ừng ực thêm một cốc nước nữa, tọng vội một cái sandwich, và đi tắm qua loa. Ba phút sau, tôi đã khoác lên người một trong những bộ đồ đẹp nhất của Caroline—một chiếc đầm midi màu xanh bạc hà với họa tiết hoa baby trắng. Sau đó, tôi vội vã đi tới Lâu đài hoa.
Adrian ra mở cửa chứ không phải bố mẹ anh, và tôi thở phào. Anh chàng mặc trên người bộ đồ quen thuộc mà người ta vẫn mặc ở các câu lạc bộ đồng quê—áo polo hồng và chiếc quần kha-ki có thắt lưng.
“Đúng lúc đấy,” anh nói. “Bọn mình vừa mới dọn món tráng miệng.” Sau đó, anh chàng ghé sát và thì thầm: “Mà này, bố mẹ mình muốn biết tại sao cậu lại quan tâm đến Annie Barrett thế. Thế nên mình bảo là cậu tìm được một vài bức vẽ phác họa trong căn chòi, giấu bên dưới sàn nhà. Mình nói rằng cậu đang tìm hiểu xem có phải là Annie đã vẽ những bức tranh đó không. Nói dối lấp liếm cho qua có vẻ vẫn dễ hơn là nói thật.”
“Tôi hiểu,” tôi nói, và tôi hiểu thật sự, nhiều hơn anh chàng tưởng.
Lâu đài hoa lớn hơn nhiều nhà Maxwell, nhưng ở bên trong cảm giác nó nhỏ hơn, ấm áp và thân thiết hơn. Tất cả các căn phòng đều được trang trí với đồ nội thất theo phong cách cổ điển với hình khối vuông vắn; các bức tường được tô điểm bằng những bức tranh chân dung gia đình và những tấm bản đồ của vùng Trung và Nam Mỹ, và có cảm giác gia đình của anh chàng sống trong căn nhà đã nhiều năm. Chúng tôi đi ngang qua một chiếc piano đứng và một cái tủ kính bày nhiều loại đồ gốm, và những ô cửa sổ trong nhà, mỗi ô lại được trồng các loại cây trong nhà xum xuê lá, xanh mát. Tôi muốn đứng lại và nấn ná thật lâu bên những thứ này, nhưng Adrian đã tiến vào trong phòng ăn ồn ã có khoảng hơn chục người tầm trung niên. Họ ngồi quanh bàn ăn, mặt bàn bày đầy ly rượu và đĩa dùng món tráng miệng. Từng cặp từng cặp trò chuyện với nhau rôm rả, và không ai để ý rằng chúng tôi đã tới cho đến khi Adrian vẫy tay thu hút sự chú ý của quan khách.
“Mọi người, đây là Mallory,” anh nói. “Hè này, cô ấy đang làm người trông trẻ cho một gia đình trên phố Edgewood.”
Ở phía đầu bàn, Ignacio nâng ly, làm sánh rượu ra tay. “Và cô bé là một vận động viên khối Big Ten! Cô chính là vận động viên chạy đường dài của trường Penn State đấy!”
Những người có mặt phản ứng như thể tôi là Serena Williams vừa giật được chiếc cúp nóng hổi ở giải Wimbledon. Mẹ của Adrian, Sofia, đang đi quanh bàn với một chai Malbec, rót rượu cho mọi người, và bà đặt một tay lên vai tôi hàm ý xoa dịu. “Thứ lỗi cho bác ấy,” bà nói. “Bác ấy hơi achispado.”
“Ý mẹ là ngà ngà say,” Adrian dịch lại lời của mẹ, và sau đó anh chàng chỉ tay quanh phòng, giới thiệu tôi với mọi người. Có rất nhiều cái tên khiến tôi chẳng thể nhớ hết được—có đội trưởng đội cứu hỏa của Spring Brook, cùng với một cặp đôi đồng tính nữ làm quản lý một hiệu bánh trong thành phố, và một vài người hàng xóm sống trong khu.
“Theo bác biết cháu đến đây vì cuốn sách ở thư viện,” Sofia nói.
“Vâng, nhưng cháu không muốn làm phiền…”
“Thôi nào, bác đã quen những người này ba mươi năm nay rồi. Chúng ta chẳng còn gì để nói với nhau nữa đâu!” Nhóm bạn của bà bật cười, và Sofia cầm một tập hồ sơ để trên mặt bàn bếp. “Ta ra sân nói chuyện đi.”
Bà đẩy cửa kính trượt và tôi nối gót tiến ra khu vườn bề thế và có phần tham vọng của chủ nhà. Lúc này là giữa tháng Bảy và muôn hoa đang nở rộ: cẩm tú cầu xanh lam, cúc ngũ sắc đỏ tươi, hoa hiên vàng, và nhiều loài hoa lạ lẫm khác mà tôi chưa từng nhìn thấy bao giờ. Ngoài đó có ghế băng, có bậc đá, và những cổng vòm được hoa bìm bìm tím leo kín; có bể tắm cho chim, những lối đi nhỏ và những hàng hoa hướng dương cao hơn đầu tôi. Ở trung tâm của khu vườn là một vọng lâu làm bằng gỗ tuyết tùng, bên trong có kê bàn và ghế, trông ra hồ cá koi có một cái thác nhỏ nước chảy róc rách. Ước gì tôi có thời gian để chiêm ngưỡng tất cả những thứ ấy—tôi cảm tưởng như mình đang lạc giữa công viên Disneyland—nhưng tôi dám chắc đối với Adrian và Sofia nơi này chỉ là sân vườn nhà họ, chẳng có gì ghê gớm cả.
Chúng tôi tiến vào trong vọng lâu, và Adrian sử dụng một ứng dụng trên điện thoại của anh chàng để bật những bóng đèn trang trí được treo khắp trần nhà. Sau đó, cả ba chúng tôi ngồi xuống và Sofia bắt đầu vào việc.
“Tìm kiếm những thông tin này tương đối khó khăn. Thử thách đầu tiên đó là chuyện này đã xảy ra từ rất lâu, thế nên trên mạng không có thông tin nào cả. Thử thách thứ hai đó là Annie Barret qua đời ngay sau Thế chiến thứ hai, thế nên báo chí lúc đó vẫn dành đất cho những câu chuyện ở châu Âu.”
“Thế còn báo địa phương thì sao ạ?” Tôi hỏi. “Spring Brook có tờ kiểu như nhật báo nào không ạ?”
“Có tờ Herald,” bà nói và gật đầu. “Họ hoạt động từ năm 1910 tới năm 1991, nhưng các bản phim chụp lưu đã mất sạch do một vụ hỏa hoạn ở nhà kho. Tất cả mọi thứ đã tan theo khói.” Bà giơ tay làm động tác bụp! và tôi liếc nhìn thấy một hình xăm nhỏ xíu ở cẳng tay trái của bà: một cành hồng dài mảnh mai, tinh tế và thanh lịch, nhưng tôi vẫn thấy bất ngờ. “Bác đã thử tìm trong thư viện để kiếm bản in nhưng không có. Chẳng có gì trước năm 1963. Thế nên, bác cứ nghĩ là đi vào ngõ cụt rồi, nhưng một đồng nghiệp mách bác tìm ở giá tác giả địa phương. Bất cứ khi nào có ai đó trong thành phố xuất bản sách, chúng ta thường sẽ đặt mua một bản. Để tỏ ý lịch sự. Hầu hết là truyện thần bí và hồi ký, nhưng thi thoảng cũng có sách về lịch sử địa phương. Và bác đã tìm được ở đó.”
Bà lấy ra từ bên trong cặp hồ sơ một cuốn sách rất mỏng—độ dày chỉ hơn mấy tập quảng cáo một chút, thật sự là vậy, vài ba chục trang đóng trong bìa màu và ghim giấy dày đã gỉ sét. Dòng tiêu đề trông như được gõ bằng máy đánh chữ kiểu cổ.
“Nó không nằm trong hệ thống lưu trên máy tính” Sofia nói tiếp. “Bác nghĩ cuốn sách này không được lưu hành trong năm mươi năm trở lại đây.”
Tôi đưa cuốn sách lên sát trước mặt. Nó bốc thứ mùi ẩm mốc, hăng nồng xộc vào mũi tôi—giống như những trang giấy đang mục rữa. “Sao nó lại mỏng thế ạ?”
“Là anh họ của cô ấy tự xuất bản. Chỉ một số lượng nhỏ tặng bạn bè và người thân, và bác đoán đã có ai đó tặng một bản cho thư viện. Ở trang đầu của cuốn sách có lời đề từ của George Barrett.”
Bìa sách mang đến cảm giác cổ cũ và rất giòn, giống như vỏ trấu để khô, có thể vỡ vụn trong tay. Tôi cẩn thận mở nó ra và bắt đầu đọc lướt:
Vào tháng Ba năm 1946, cô em họ Anne Catherine Barrett của tôi rời châu Âu để bắt đầu một cuộc sống mới tại nước Mỹ này. Để biểu tỏ lòng nhân ái theo lời dạy của Chúa, vợ tôi Jean và tôi đã mời “Annie” tới sống cùng gia đình chúng tôi. Jean và tôi không có anh em ruột, và chúng tôi rất mong muốn có thêm một người bà con đã trưởng thành sống cùng trong gia đình—một người có thể giúp chúng tôi nuôi dạy ba cô con gái.
Khi tới Mỹ, Annie mới chỉ vừa mười chín tuổi. Cô rất xinh đẹp nhưng giống như nhiều cô gái trẻ khác, cô cũng rất hậu đậu. Jean và tôi đã vô số lần cố gắng giới thiệu Annie hòa nhập với cộng đồng Spring Brook, Tôi là một Ủy viên Hội đồng thành phố và tôi cũng phục vụ tại phòng Áo lễ của nhà thờ St. Mark. Vợ tôi hoạt động năng nổ trong Hội Phụ nữ địa phương. Những người bạn thân thiết nhất của chúng tôi nồng nhiệt chào đón cô em họ nhà tôi gia nhập cộng đồng với những lời mời chân thành và ân cần, nhưng Annie đã từ chối tất cả.
Cô gái ngốc nghếch và cô độc đã tự nhận mình là một họa sĩ. Cô dành thời gian nhàn rỗi ở lại trong căn chòi để vẽ, hoặc đi bộ chân trần trong cánh rừng phía sau nhà chúng tôi. Đôi khi tôi nhìn thấy cô bò ra đất, bằng cả tứ chi, như một con thú, để quan sát sâu bướm hay ngửi thử những đóa hoa.
Jean liệt kê một danh sách nhỏ những công việc hằng ngày Annie cần làm để đổi lại cho chi phí ăn ở và sinh hoạt. Phần lớn thời gian, những công việc này đều không được hoàn thành. Annie không hào hứng trở thành một phần của gia đình chúng tôi, một phần của cộng đồng nơi chúng tôi sinh sống, hay thậm chí là một phần của nước Mỹ tự do và dân chủ.
Tôi có rất nhiều điểm bất đồng với Annie về những lựa chọn của em ấy. Có nhiều lần tôi đã cảnh báo với Annie rằng em ấy đang có những hành vi thiếu trách nhiệm, thậm chí là trái lẽ thường, rằng em ấy sẽ phải lãnh hậu quả vì những quyết định không đúng đắn của mình. Tôi không hề thấy vui vẻ khi biết rằng những chuyện xảy ra đã chứng minh là tôi nói đúng.
Vào ngày 9 tháng Mười hai năm 1948, em họ của tôi bị tấn công và bắt đi khỏi căn chòi nhỏ dành cho khách ở phía sau cơ ngơi của chúng tôi. Khi tôi viết những dòng này sau gần một năm, cảnh sát địa phương kết luận Annie đã chết, mà tôi quan ngại rằng thi thể của em ấy đã bị chôn vùi đâu đó trong khoảnh rừng rộng hơn một cây số vuông phía sau nhà tôi.
Sau thảm kịch này, rất nhiều láng giềng của chúng tôi tại Spring Brook đã gửi đến chúng tôi lòng tiếc thương và cầu nguyện. Tôi soạn nên cuốn sách này như một kỷ vật để bày tỏ lòng cảm kích của mình đối với những quan tâm hỗ trợ của họ. Mặc dù giữa chúng tôi có những suy nghĩ khác biệt, tôi luôn luôn tin rằng cô em họ của mình rất giàu trí sáng tạo, và cuốn sách này là một vật kỉ niệm dành cho những thành tựu nhỏ của em ấy. Kèm theo trong cuốn sách này là tất cả những bức vẽ đã hoàn thành mà Anne Catherine Barrett để lại tại thời điểm em ấy qua đời. Với một số bức, tôi đã mạn phép đề tên và thời gian ra đời của các tác phẩm. Hãy để những bức vẽ này là một vật chứng cho một cuộc đời buồn và bi thương đã phải kết thúc đầy ngắn ngủi.
George Barrett
Tháng Mười một năm 1949
Spring Brook, New Jersey
Tôi bắt đầu lật những trang giấy. Nội dung bên trong cuốn sách là các bức ảnh đen trắng đã nhòe nhoẹt chụp lại những bức vẽ của Annie trên vải canvas. Những bức tranh có tên Hoa thủy tiên và Hoa tulip là những hình chữ nhật lượn sóng, trông chẳng giống hình thù của những bông hoa chút nào. Và một bức được đặt tên là Cáo thì có những đường chéo cắt ngang khung vải. Cả cuốn sách chẳng có một chút nào được gọi là mang tính hiện thực—toàn là những hình thù trừu tượng với những vẩy sơn, đốm sơn, trông như chúng được tạo ra từ cái máy vẽ tranh li tâm vẫn thấy ở hội chợ do nhà thờ tổ chức.
Tôi thấy thất vọng vô cùng. “Những bức tranh này chẳng giống chút nào với mấy bức vẽ trong căn chòi của cháu gì hết.”
“Nhưng hội họa là một chuyện, vẽ đơn thuần lại là chuyện khác,” Sofia nói. “Một số họa sĩ sử dụng các phong cách khác nhau cho những hoàn cảnh khác nhau. Hoặc cũng có thể là vì họ thích pha trộn. Một trong những họa sĩ yêu thích của bác, Gerhard Richter, toàn bộ sự nghiệp của ông xoay quanh hoặc rất trừu tượng hoặc rất hiện thực. Có thể Annie thích cả hai.”
“Nhưng nếu đúng là như thế, cuốn sách chẳng giải đáp được gì cả.”
“À, nhưng chờ đã,” Sofia nói. “Vẫn còn một thứ nữa bác muốn cho cháu xem. Hôm qua, bác đã gọi điện tới tòa án, bởi vì ở đó họ lưu một số di chúc cũ. Đây là những hồ sơ công khai, ai cũng có thể xem được. Và cháu sẽ rất ngạc nhiên với những thứ mọi người muốn chia sẻ sau khi họ qua đời.” Bà mở tập hồ sơ và lấy ra một vài bản sao mờ nhòe. “Bác không kì vọng Annie Barrett sẽ để lại di chúc—cô ấy qua đời lúc còn quá trẻ—nhưng bác đã tìm được di chúc và chúc thư cuối cùng của George Barrett. Ông ấy qua đời vào năm 1974 và để lại toàn bộ tài sản cho vợ, bà Jean. Và câu chuyện trở nên rất thú vị ở đây. Jean chuyển tới Florida để an hưởng tuổi già và sống ở đây cho tới tận năm 1991. Và khi bà qua đời, bà để lại phần lớn tài sản cho các con gái. Nhưng bà ấy cũng để lại năm mươi nghìn đô-la cho một người cháu gái, Dolores Jean Campell ở Akron, Ohio. Thế cháu có biết tại sao bác cảm thấy ngạc nhiên không?”
Và ngay lập tức tôi hiểu tại sao cuốn sách lại có giá trị. “Bởi vì Jean và George không có anh em ruột nào hết. George đã đề cập điều này trong lời đề từ.”
“Đúng vậy! Thế thì cô cháu gái bí ẩn này là ai và cô ấy từ đâu mà ra? Ta đã tự hỏi: Phải chăng Jean coi cô gái này là cháu gái, nhưng thật ra cô ấy lại là con của một người em họ? Phải chăng cô ấy là kết quả của hành vi ‘thiếu trách nhiệm’ và ‘trái lẽ thường’ mà Annie đã gây ra? Ta bắt đầu tự hỏi: phải chăng câu chuyện mà George đã kể vẫn còn nhiều điều phía sau nữa. Có thể Jean cảm thấy có nghĩa vụ nào đó phải chăm sóc cho cô bé đó.”
Tôi nhẩm tính trong đầu. “Nếu Dolores sinh năm 1948, có lẽ bà ấy chưa quá lụ khụ. Có thể bà ấy vẫn còn sống.”
“Chính xác là còn.” Sofia đẩy một miếng giấy nhỏ, vuông vức sang phía tôi. Trên đó có cái tên “Dolores Jean Campbell” và một dãy số điện thoại gồm mười con số. “Đó là mã vùng của Akron, Ohio. Bà ấy đang sống tại một viện dưỡng lão có tên là Rest Haven.”
“Bác đã nói chuyện với bà ấy rồi à?”
“Và giành mất sự phấn khích của cháu khi gọi đến số điện thoại này sao? Không đâu, Mallory ạ. Nhưng bác rất tò mò ai sẽ là người bắt máy. Bác rất muốn biết cháu sẽ tìm hiểu được gì!?”
“Cảm ơn bác. Thật không thể tin bác tìm ra được.”
Ở phía trong nhà, có tiếng ly rơi vỡ, tiếp sau đó là tiếng cười đùa rôm rả. Sofia liếc nhìn anh con trai. “Mẹ nghĩ bố con lại đang nói chuyện tầm phào rồi. Mẹ phải vào trong trước khi ông ấy làm ta xấu hổ đây.” Bà đứng dậy. “Nhưng hãy nói lại bác nghe tại sao cháu lại có hứng thú với mấy chuyện này vậy?”
“Mallory tìm thấy một vài bức vẽ trong căn chòi,” Adrian nói. “Giấu bên dưới sàn nhà. Chúng ta đã nói chuyện này rồi mà mẹ.”
Sofia cười lớn. “Con trai, từ lúc bốn tuổi con đã nói dối dở như hạch rồi, và giờ thậm chí còn tệ hơn. Sáng hôm nay, con bảo rằng Mallory tìm thấy những bức vẽ trong tủ quần áo mà.”
“Thì dưới sàn của tủ quần áo mà,” Adrian vẫn khăng khăng.
Sofia nhìn tôi với ánh mắt như muốn nói: Cháu tin nổi chàng trai này không? “Nếu hai đứa không muốn kể cũng không sao. Nhưng ta khuyên thế này, hai đứa nên cẩn thận. Khi hai đứa bắt đầu thò mũi vào những bí mật gia đình, rất có thể sẽ có người muốn tóm sống hai đứa.”
Tôi muốn gọi cho Dolores ngay lập tức, nhưng lúc này đã muộn, gần 10 giờ rồi. Adrian bảo rằng sáng hôm sau hẵng gọi, tôi sẽ có được kết quả tốt hơn. “Có khi giờ này bà ấy ngủ rồi.”
Tôi biết là anh chàng nói đúng, chỉ là tôi đang mất kiên nhẫn. Tôi cần thông tin, cần ngay tức thì. Tôi kể cho anh chàng nghe về lần đối chất gần nhất với vợ chồng Maxwell. “Tôi cho họ xem các bức vẽ của Anya. Tôi giải thích cho họ những bức tranh cứ liên tục xuất hiện trong căn chòi của tôi ra sao. Nhưng họ không tin tôi, Adrian ạ. Thì đúng, tất nhiên là họ sẽ không tin tôi rồi! Ai mà tin cho nổi. Tôi biết câu chuyện này nghe rất điên rồ. Caroline phản ứng kiểu như có khi chính tôi là kẻ đã vẽ những bức tranh đó, như kiểu tôi đang dựng nên toàn bộ câu chuyện để gây chú ý.”
“Chúng ta sẽ chứng minh là cậu đang nói thật,” Adrian nói. “Nhưng trước hết, chúng ta nên vào nhà và lấy ít bánh churros đi.”
“Sao vậy?”
“Là vì món bánh này ngon tuyệt, và chúng sẽ giúp cậu quên đi hết bộn bề lo lắng. Tin mình đi!”
Chúng tôi quay trở lại nhà chính và nhận ra bữa tiệc đã bước sang giai đoạn cao trào hơn. Dàn loa đang phát một chuỗi bài hát trong top 40. Tất cả mọi người đã di chuyển sang phòng khách, và Ignacio có vẻ như lâng lâng hơn bao giờ hết. Ông đang biểu diễn điệu Pasodoble, một điệu nhảy mà ông khẳng định đã thành thục từ thời thanh niên, và ngạc nhiên thay, Sofia lại là bạn nhảy của ông, bà giũ váy và nhảy theo bước dẫn của chồng. Các quan khách vỗ tay và reo hò, còn Adrian chỉ lắc đầu, ngượng ngùng và cau có. “Lần nào họ mời khách tới cũng thế này,” anh chàng nói. “Bố mình toàn làm trò ngớ ngẩn thôi.”
Chúng tôi lấy hai lon nước có ga trong tủ lạnh. Sau đó, Adrian lấy một đĩa đầy bánh churros, rưới lên sốt sô-cô-la và đưa tôi ra ngoài, dạo thăm khu vườn. Anh chàng thổ lộ rằng chính tay ông bố đã tạo dựng nên khu vườn này trong suốt ba mươi năm, rằng đây là Versailles của riêng ông.
“Versailles là gì?”
“Là cung điện. Ở bên Pháp ấy.”
Anh chàng có vẻ ngạc nhiên khi tôi chưa từng nghe đến nơi đó, nhưng tôi biết nói gì đây. Dân Nam Philly chúng tôi hiếm khi nhắc đến Hoàng gia Pháp. Ấy thế nhưng, tôi không muốn mình trông như kẻ ngốc, thế là tôi lại tạo ra thêm những lời nói dối mới.
“À, cung điện Versailles,” tôi nói và cười lớn. “Tôi nghe không ra.”
Chúng tôi lững thững đi trên những lối mòn. Adrian giới thiệu tất cả những bí mật trong khu vườn: một gia đình chim hồng tước làm tổ trên cây anh đào. Một góc nhỏ để cầu nguyện có bệ thờ Đức mẹ đồng trinh Maria. Và một cái ghế gỗ dài trên bờ ao cá koi, bên cạnh thác nước. Chúng tôi dừng lại và chia một ít bánh churros với mấy con cá. Phải có chừng bảy, tám con ngoi lên mặt nước há miệng đớp mồi.
“Đây thực sự là một nơi hay ho đấy.”
Adrian nhún vai. “Mình sẽ vui hơn nếu có bể bơi. Giống như ở nhà Maxwell.”
“Không, thế này thích hơn. Cậu may mắn lắm đấy.”
Tôi cảm nhận được tay anh chàng đặt lên eo tôi, và khi tôi quay lại nhìn, anh đặt lên môi tôi một nụ hôn. Môi anh chàng có vị ngọt, giống vị của quế và sô-cô-la; hẳn là tôi muốn kéo anh lại gần hơn, tôi muốn hôn anh nữa.
Nhưng trước tiên, tôi cần phải kể anh ta nghe sự thật.
Tôi đặt một bàn tay lên ngực anh.
“Chờ chút.”
Anh dừng lại.
Anh nhìn vào mắt tôi, chờ đợi.
Và tôi rất xin lỗi nhưng tôi không biết phải kể cho anh ta thế nào. Khung cảnh xung quanh thật quá hoàn hảo: Tất cả những bóng đèn nhỏ tỏa ánh sáng nhè nhẹ, lấp lánh, tiếng thác nước nghe như tiếng nhạc, và hương thơm của các loài hoa khiến ta ngây ngất—và đây lại là một khoảnh khắc ngọt ngào nữa mà tôi không nỡ phá hủy.
Bởi vì rõ ràng tôi đã vượt trên cả mức không còn gì để quay đầu. Nói dối Adrian đã tệ lắm rồi. Nhưng giờ đây, tôi đã nói dối cả bố mẹ anh và thậm chí là các quan khách của họ. Một khi những người này biết được sự thật, họ sẽ không bao giờ chấp nhận tôi. Mối quan hệ của tôi với Adrian cũng sẽ tan đàn xẻ nghé. Hai chúng tôi giống như những bong bóng xà phòng trong một trò chơi của Teddy—diệu kì, mong manh, nhẹ tênh—và biết trước số phận sẽ tan vỡ.
Anh chàng nhận ra có gì đó không ổn và lùi ra sau.
“Xin lỗi. Mình nghĩ đã hiểu sai khoảnh khắc vừa rồi. Nhưng xin hãy cho mình rút lại nhé, chúng ta có thể coi như việc vừa nãy chưa từng xảy ra, được không nào?” Anh chàng đứng dậy, trông sượng ngượng. “Nhà mình có bàn bóng bàn trong ga-ra. Cậu có muốn chơi không?”
Tôi cầm lấy tay anh và kéo anh ngồi lại xuống ghế. Lần này, tôi hôn anh. Tôi đặt tay lên lồng ngực anh và ngả vào anh, làm như thế anh sẽ không hiểu sai cảm nhận của tôi.
“Không” tôi nói với anh. “Em không muốn rời khỏi đây.”
Nhưng sau cùng, tôi vẫn phải rời đi.
Bữa tiệc kết thúc vào khoảng 10 giờ rưỡi. Từ chỗ băng ghế, dưới vòm cây của khu vườn, chúng tôi nghe thấy tiếng cửa xe ô tô đóng rầm rầm cùng với tiếng nổ động cơ, và khách khứa rời đi từ đường dẫn lớn hình vòng cung.
Adrian và tôi ở lại trong khu vườn cho tới quá nửa đêm. Cuối cùng, khi tất cả ánh đèn trong nhà đã tắt, và có vẻ như bố mẹ anh đã đi ngủ, tôi nhận thấy có lẽ tôi cũng nên về thôi.
Adrian bảo sẽ đưa tôi về. Tôi cho là không cần thiết, chỉ cách vài khu nhà thôi, nhưng anh chàng nhất định muốn đi.
“Đây không phải là Nam Philly đâu, Mallory. Những con phố ở Spring Brook khá là hỗn độn sau khi trời tối.”
“Em có súng điện trong chùm chìa khóa rồi.”
“Chẳng có nghĩa lí gì với một bà mẹ say xỉn ngồi sau vô lăng cả đâu. Đưa em về, anh sẽ yên tâm hơn.”
Cả khu chìm trong tĩnh lặng. Các con phố không một bóng người, các hộ đều đã tối đèn. Và ngay khi chúng tôi rời khỏi khu vườn, tôi cảm thấy như phút nhiệm màu của thế giới thần tiên đã biến mất. Khi nhà của gia đình Maxwell dần hiện ra trong tầm mắt, tôi lại nhớ tới tất cả những chuyện cũ ám trong đầu mình, tôi lại nhớ tới con người thật sự của mình. Và một lần nữa tôi cảm thấy bắt buộc phải nói ra sự thật. Có lẽ tôi vẫn không thể lấy đủ can đảm để kể cho anh chàng nghe tất cả—chưa phải tối nay, chưa phải lúc. Nhưng tôi muốn nói với anh ta ít nhất một lời nói thật.
“Đã lâu lắm rồi, em không có bạn trai.”
Anh nhún vai. “Có sao đâu.”
“Em chỉ muốn nói là, chúng ta không nên vội vàng bất cứ việc gì cả. Chờ cho tới khi chúng ta hiểu nhau kĩ hơn. Hãy thật chậm rãi thôi.”
“Tối mai, em sẽ làm gì?”
“Em nói nghiêm túc đấy, Adrian. Có thể anh sẽ biết đôi điều về em mà anh không thích.”
Anh chàng nắm lấy tay tôi và siết chặt. “Anh muốn biết mọi điều về em. Anh muốn đổi chuyên ngành của mình thành Mallory Quinn và học được càng nhiều càng tốt.”
Ôi trời, anh không biết sẽ học được cái gì đâu, tôi tự nhủ thầm. Anh không biết đâu, thật sự đấy.
Anh hỏi tôi đã bao giờ ăn ở quán Bridget Foy’s chưa, đó là quán ăn ưa thích nhất của anh ở Philadelphia. Tôi nói đã sáu tuần nay tôi chưa quay lại Philly và hiện tôi cũng chưa có ý muốn quay lại. “Vậy Princeton thì sao? Thành phố Princeton, không phải trường đại học. Ở đó, họ có một quán tapas thực sự rất ngon. Em thích tapas chứ? Anh đặt bàn nhé?”
Nói đến đây là chúng tôi đã băng qua sân vườn nhà Maxwell và cả hai đang đứng bên ngoài căn chòi của tôi.
Tất nhiên là tôi đồng ý. Tôi nói mình sẽ xong việc vào lúc 5 giờ rưỡi chiều.
Và sau đó, chúng tôi lại hôn nhau, và nếu nhắm mắt lại, thật dễ để vờ như chúng tôi đã quay lại khu vườn trong lâu đài, rằng tôi là Mallory Quinn, Siêu sao chạy băng đồng với một tương lai hứa hẹn và chẳng có mối lo nào trên đời. Tôi tựa người vào bên hông căn chòi. Adrian đặt một tay lên làn tóc tôi và tay còn lại vuốt lên chân tôi, luồn vào bên dưới lớp váy. Tôi không biết tôi sẽ thú nhận với anh thế nào, tôi thực sự không biết.
“Như thế này không phải là chậm đâu,” tôi nói. “Anh phải về nhà đi thôi.”
Anh chàng buông tay khỏi cơ thể tôi, bước lùi ra sau, và hít một hơi sâu. “Ngày mai, anh sẽ quay lại.”
“5 giờ rưỡi nhé,” tôi nói.
“Hẹn gặp em sau. Chúc ngủ ngon, Mallory.”
Tôi đứng trên hè, dõi nhìn anh chàng băng qua sân, mất hút trong màn đêm. Tôi quyết định sẽ kể cho anh chàng nghe tất cả vào bữa tối mai ở Princeton. Như vậy kể cả nếu có buồn bực, anh chàng sẽ không thể bỏ tôi lại, mà buộc phải lái xe đưa tôi về nhà. Và trong lúc này, có thể tôi sẽ thuyết phục được anh chàng cho tôi thêm một cơ hội thứ hai.
Sau đó, tôi khóa cửa căn chòi, bật đèn và phát hiện ra Ted Maxwell đang nằm trên giường của tôi.