CHƯƠNG 7

Hôm sau là lễ Quốc khánh, một ngày nóng và oi, song tôi vẫn ép mình phải nhấc chân ra ngoài chạy mười ba cây số trong vòng bảy mươi mốt phút. Trên đường đi bộ về, tôi ngang qua ngôi nhà mà Teddy và tôi gọi là Lâu đài hoa. Nó cách nhà Maxwell ba khu nhà, một tòa lâu đài trắng thật đường bệ, với lối dẫn vào nhà hình chữ U, cùng sân vườn bừng nở các loại hoa đầy màu sắc: cúc, phong lữ, hoa hiên, và nhiều loại khác nữa. Tôi thấy có một loại hoa màu cam bám vào hàng rào mắt cáo ở sân trước, thế là tôi dọ bước lên lối dẫn để có thể nhìn rõ hơn. Những bông hoa trông thật lạ lẫm—chúng giống như những cái cọc tiêu giao thông bé xíu—và tôi dùng điện thoại chụp một vài bức ảnh. Nhưng rồi sau đó, cửa trước bật mở, một gã bệ vệ bước ra. Nhìn thoáng qua, tôi nhận thấy gã đang mặc một bộ com-lê và tôi có cảm giác gã ra xua tôi tránh xa khỏi ngôi nhà, kiểu như quát đuổi kẻ đường đột xâm phạm.

“Này!”

Tôi bước trở ra vỉa hè, chìa tay hờ tỏ ý xin lỗi, nhưng đã quá muộn. Gã kia đã ra khỏi cửa và đuổi theo tôi.

“Mallory!” Gã gọi lớn. “Cậu khỏe không?”

Và lúc đó, tôi mới nhận ra là chúng tôi đã từng gặp mặt. Tiết trời hơn ba mươi hai độ, nhưng Adrian trông vẫn hoàn toàn thoải mái với bộ com-lê màu xám nhạt, dáng vẻ giống mấy nhân vật trong phim Mười một tên cướp thế kỷ. Bên trong áo vest, anh chàng vận chiếc áo sơ mi trắng phẳng lì và thắt cà vạt màu xanh hoàng gia. Không bị mũ che, tôi nhận ra anh chàng sở hữu một mái tóc đen dày.

“Tôi xin lỗi,” tôi nói. “Tôi không nhận ra cậu.”

Anh chàng cúi nhìn bộ trang phục, như thể quên mất mình đang mặc gì trên người. “À, đúng rồi! Tối nay chúng tôi có việc. Ở câu lạc bộ đánh gôn. Bố tôi—ông ấy được nhận giải thưởng.”

“Cậu sống ở đây à?”

“Nhà của bố mẹ tôi. Tôi chỉ về vào dịp hè.”

Cửa trước mở, và bố mẹ của anh chàng bước ra—bà mẹ có dáng cao và trang nhã trong chiếc váy xanh hoàng gia, ông bố thì mặc một bộ tuxedo cổ điển với khuy măng-sét bằng bạc. “Đó là El Jefe à?”

“Ông ấy là ông chủ Lawn King. Chúng tôi chăm sóc một nửa số sân cỏ ở mạn Nam Jersey. Cứ đến hè, ông ấy sẽ có một đội ngũ tám mươi người, nhưng tôi thề với cậu, Mallory ạ, ông ấy chỉ quát tháo mỗi mình tôi.”

Hai ông bà đang tiến lại gần chiếc BMW đen bóng đỗ trên đường dẫn. Adrian vẫy tay gọi họ tiến lại chỗ chúng tôi; thực lòng tôi ước gì anh chàng đừng làm thế. Bạn biết những người tập chạy trong quảng cáo Tampax chứ, họ chạy xong mà da vẫn sáng bừng và tóc tai thì đẹp như chuẩn bị lên sàn diễn ấy? Sau mười ba cây số dưới tiết trời ba mươi hai độ, trông tôi chẳng giống họ một tí tẹo nào. Áo tôi ướt đẫm mồ hôi, tóc tai rối bù, bết bát, lại còn dính dấp xác mấy con côn trùng bé li ti trên trán nữa.

“Mallory, đây là mẹ tôi, Sofia, và bố tôi, Ignacio.” Tôi chùi khô tay vào quần đùi trước khi bắt tay với họ. “Mallory trông trẻ cho gia đình Maxwell. Gia đình họ mới chuyển đến sống trên đường Edgewood. Họ có một cậu con trai nhỏ tên là Teddy.”

Sofia nhìn tôi với vẻ đầy nghi ngờ. Bà ăn mặc chỉn chu với mái tóc được chải chuốt kĩ càng, đến mức tôi nghĩ lâu rồi bà chẳng mó tay vào chuyện gì. Nhưng Ignacio lại chào tôi bằng một nụ cười thân thiện. “Chắc hẳn cháu là một người rất nhiệt huyết với môn thể thao này, trời oi thế này mà vẫn xỏ giày chạy đấy!”

“Mallory là vận động viên chạy đường dài ở trường Penn State.” Adrian giải thích. “Cô ấy là thành viên của đội chạy băng đồng.”

Và tôi co rúm lại trước lời nói tâng bốc đó, bởi tôi đã quên mất những thứ đã là quá khứ rồi. Nếu chỉ có mình tôi với Adrian, tôi đã thành khẩn tự thú—nhưng giờ tôi chẳng thể nói gì được, khi mà cả ông bố lẫn bà mẹ đang nhìn tôi chằm chằm.

“Bác dám chắc cháu nhanh nhảu hơn con trai bác,” Ignacio nói. “Nó mất cả ngày để làm xong cỏ cho hai cái sân!” Rồi ông bật cười ha hả trước lời cợt giễu của mình, còn Adrian không khỏi bồn chồn vì ngượng.

“Trò đùa của người làm sân vườn ấy mà. Bố tôi cứ nghĩ ông ấy là diễn viên hài độc thoại.”

Ignacio cười giòn. “Nó buồn cười vì lắm khi bắn ra mấy câu khó đỡ!”

Sofia chăm chú quan sát diện mạo của tôi và tôi tin chắc là bà ấy đã nhìn thấu tôi rồi. “Cháu học năm mấy vậy?”

“Năm cuối ạ. Gần tốt nghiệp rồi ạ.”

“Mình cũng thế!” Adrian nói. “Mình học trường Rutgers, New Brunswick, ngành Kĩ sư. Cậu học ngành gì vậy?”

Tôi không biết đáp lại thế nào. Tất cả kế hoạch học đại học của tôi chỉ tập trung vào huấn luyện, hướng đạo và gây quỹ chống bất bình đẳng giáo dục. Tôi chưa từng nghĩ xa đến mức cân nhắc xem sẽ thực sự học cái gì. Kinh doanh à? Luật ư? Hay là Sinh học? Chẳng lựa chọn nào nghe có vẻ đáng tin—nhưng tôi đang bắt họ phải chờ quá lâu để nghe câu trả lời, và cả ba đang chú mục vào tôi, trong khi tôi cần phải nói gì đó, gì cũng được.

“Dạy học ạ,” tôi nói với họ.

Sofia trông có vẻ nghi ngờ. “Ý cháu là giáo dục à?”

Bà ấy phát âm từ gi-áo d-ục thật chậm—dường như bà ngờ rằng tôi mới nghe lần đầu.

“Đúng rồi ạ. Dạy trẻ con ạ.”

“Giáo dục tiểu học sao?”

“Chính xác ạ.”

Adrian vui ra mặt. “Mẹ mình dạy lớp 4 đấy! Bà cũng theo nghề giáo!”

“Thật vậy sao!” Và thật may là vừa chạy xong nên mặt tôi khêu hồng hai bên má, bởi lẽ tôi dám chắc là nó đang nóng phừng phừng.

“Đó là nghề cao quý nhất,” Ignacio nói. “Cháu đã chọn một nghề rất tuyệt vời đấy, Mallory ạ.”

Đến lúc này tôi chỉ muốn được đổi chủ đề, muốn được nói gì đó—gì cũng được—miễn không phải nói dối. “Hoa nhà bác trồng đẹp thật,” tôi bảo. “Cháu chạy qua nhà bác mỗi ngày để ngắm chúng.”

“Vậy thì đây sẽ là câu hỏi trị giá một triệu đô,” Ignacio nói. “Cháu thích loại nào?”

Adrian giải thích rằng đây là một trò chơi mà bố mẹ thường đố vui với khách. “Ý là loài hoa mà cậu yêu thích sẽ nói lên điều gì đó về tính cách của mình. Giống như cung hoàng đạo ấy.”

“Tất cả đều rất đẹp ạ,” tôi nói với họ.

Sofia không để cho tôi thoát. “Cháu phải chọn một loại chứ. Loại mà cháu thích nhất ấy.”

Thế là tôi chỉ vào loại hoa màu cam vừa nhìn thấy, loại hoa mọc trên lưới mắt cáo. “Cháu không biết tên, nhưng chúng làm cháu nhớ tới những cái cọc tiêu giao thông màu cam.”

“Hoa chùm ớt,” Adrian nói.

Ignacio có vẻ hào hứng. “Chưa từng có ai chọn hoa chùm ớt cả! Đó là một loài hoa đẹp, rất dễ sống và ít phải chăm sóc. Chỉ cần có chút nắng và tưới đủ nước—không cần chăm bón nhiều—nó sẽ tự chăm sóc cho mình. Rất độc lập.”

“Nhưng cũng chẳng khác gì cả,” Sofia tiếp lời. “Hơi khó kiểm soát.”

“Cái đó gọi là sức sống!” Ignacio nói. “Chẳng tốt sao?”

Adrian hướng về phía tôi với vẻ mặt hơi quạu—anh chàng đọc thấy vẻ chịu đựng ở tôi—và rồi bà mẹ nhắc rằng họ đã muộn giờ lắm rồi, rằng họ phải lên đường thôi. Thế là bốn người chúng tôi vội vã tạm biệt, cười đãi bôi rằng rất vui được quen biết nhau, sau đó tôi tiếp tục đi bộ về nhà.

Lát sau, chiếc BMW đen bóng chạy ngang qua; Ignacio bấm còi, Sofia vẫn chăm chăm nhìn thẳng phía trước. Adrian vẫy tay với tôi từ cửa sổ ghế sau, tôi chợt thoáng mường tượng hình ảnh thiếu thời của anh chàng—được đi đó đây cùng bố mẹ, yên vị trên hàng ghế phía sau, được cưỡi xe đạp trên những vỉa hè rợp bóng mát, được vui đùa ở khu phố có những hàng cây thẳng tắp hai bên giống như một thứ đặc quyền từ lúc sinh ra. Tôi có cảm giác tuổi thơ của Adrian thật êm đềm, cảm giác anh chàng được sống một cuộc đời hoàn toàn không có gì phải nuối tiếc.

Bằng một cách nào đó tôi đã sống hai mươi mốt năm trên đời mà chưa từng có một người bạn trai thực sự. Ý tôi là, chuyện qua lại với nam giới thì tôi đã từng—khi bạn là một người phụ nữ nghiện ngập với vẻ ngoài tương đối giống bao người lành mạnh bình thường, hiển nhiên sẽ luôn có cách để bạn kiếm được thêm thuốc bay lắc—song, tôi chưa từng có một mối quan hệ nào gần giống với gần gũi nam nữ thông thường.

Nhưng nếu cuộc đời của tôi là một phiên bản giống như trong các bộ phim chiếu trên kênh Hallmark—nếu trong một cuộc đời khác tôi được lớn lên ở Spring Brook bên những bậc phụ huynh vị tha, có của ăn của để, học rộng hiểu nhiều như Ted và Caroline—bạn trai lý tưởng của tôi sẽ là một người như Adrian chẳng hạn. Anh ấy dễ thương, anh ấy vui tính, anh ấy làm việc chăm chỉ. Vừa đi tôi vừa bắt đầu tính toán trong đầu, cố gắng tính xem khi nào thì hai tuần sẽ trôi qua, và anh chàng sẽ lại làm cỏ cho sân vườn nhà Maxwell.

Spring Brook luôn rộn bóng trẻ con nô đùa, nhưng tôi vẫn chẳng may mắn tìm cho Teddy được bất kì đứa nào chơi cùng. Ở cuối khu nhà của chúng tôi có một cái sân chơi lớn với đầy đủ xích đu, đu quay, và những đứa trẻ lên năm lúc nào cũng la hét, gào rú đinh tai nhức óc- song, Teddy chẳng muốn chơi với chúng.

Một buổi sáng thứ Hai, hai chúng tôi nhận ra mình đang ngồi ở ghế công viên, xem một lũ trẻ con “lái ô tô” bằng cách thả những chiếc xe đồ chơi Hot Wheels từ cầu trượt xuống. Tôi giục Teddy hãy chạy sang đó và chơi cùng chúng, và cậu bé nói, “Em có xe Hot Wheels đâu.”

“Thì nói tụi nó cho chơi cùng.”

“Em không thích chơi cùng đâu.”

Cậu ngồi thõng bên cạnh tôi, buồn bực.

“Thôi mà, Teddy.”

“Em sẽ chơi với chị, không chơi với bọn nó đâu.”

“Em cần có bạn cùng lứa tuổi. Hai tháng nữa là em đi học rồi.”

Nhưng chẳng gì lay chuyển được nó. Buổi sáng đó, chúng tôi về nhà chơi LEGO, và sau đó cậu bé ăn trưa rồi lên lầu, bắt đầu Thời gian yên tĩnh. Tôi biết nhân lúc rảnh tay tôi cần tranh thủ dọn bếp, nhưng tôi không còn sức nữa. Tối trước đó tôi cứ ngủ chập chờn—pháo hoa mừng lễ Quốc khánh bắn khá muộn—và việc tranh luận với Teddy khiến tôi phải nếm mùi thất bại.

Tôi quyết định ngả lưng xuống ghế sô pha nghỉ ngơi chốc lát, và rồi Teddy đứng bên cạnh, lay tôi dậy.

“Giờ mình đi bơi được không chị?

Tôi ngồi dậy và nhận ra hướng sáng trong phòng đã thay đổi. Đã gần ba giờ chiều. “Ừ, tất nhiên là được, đi mặc đồ bơi đi.”

Cậu bé đưa cho tôi một bức vẽ và chạy ra khỏi phòng. Vẫn là cánh rừng tối tăm, cây cối um tùm như ở bức vẽ trước—chỉ có điều lần này, người đàn ông đang hắt đất xuống một cái hố lớn, và thi thể của Anya nằm rúm ró dưới đáy hố.

Teddy quay lại phòng nghỉ, đã mặc xong đồ bơi. “Chị xong chưa?”

“Chờ đã Teddy. Cái gì đây?”

“Cái gì là cái gì ạ?”

“Người này là ai? Ở trong cái hố?”

“Là Anya.”

“Còn người đàn ông này là ai vậy?”

“Em không biết.”

“Ông ta đang chôn cô ấy sao?”

“Ở trong rừng ạ.”

“Sao lại thế?”

“Tại vì ông ấy lấy cắp con gái của Anya,” Teddy nói. “À mà em ăn dưa hấu trước khi bơi được không?”

“Tất nhiên là được, Teddy, nhưng tại sao?”

Đã quá muộn. Cậu bé đã tung tăng nhảy vào bếp và kéo mở tủ lạnh. Tôi đuổi theo, thấy cậu đang kiễng chân, với lấy miếng dưa hấu ở ngăn trên cùng. Tôi giúp cậu lấy xuống mang ra thớt, rồi dùng dao cắt ra một miếng nhỏ. Teddy không chờ để ra đĩa, cậu bé chộp lấy và bắt đầu ăn.

“Gấu yêu, nghe chị nói này, Anya còn nói gì với em nữa? Về bức tranh ấy?”

Miệng cậu bé nhai nhóp nhép, nước dưa đỏ chảy ròng xuống cằm. “Người đàn ông đó đào hố chôn để không ai tìm được chị ấy,” cậu bé vừa nói vừa nhún vai. “Nhưng em đoán chị ấy đã thoát ra được.”