Tối hôm đó, ngay khi Adrian đến, chúng tôi cùng nhau xem lại tất cả các bức vẽ. Có tổng cộng chín bức vẽ—ba bức được để lại ở trước cửa căn chòi, ba bức được gắn trên tủ lạnh, và ba bức hôm nay tôi thu được trong phòng ngủ của Teddy. Adrian đảo đi đảo lại những trang giấy, giống như anh chàng đang cố sắp xếp chúng theo một trật tự phù hợp, như thể có một thứ lớp lang nào đó có thể giúp tiết lộ câu chuyện. Nhưng tôi đã bận nghĩ suốt cả buổi chiều mà vẫn chưa thể hiểu được ý nghĩa của chúng.
Lúc ấy đã chạng vạng và mặt trời sắp lặn. Bầu không khí ở sân sau mờ mịt, xám xịt. Cánh rừng đầy những bầy đom đóm lập lòe. Phía bên kia sân trong nhà chính, qua cửa sổ bếp, tôi nhìn thấy Caroline đang xếp bát đĩa vào trong máy rửa; chị đang dọn dẹp sau bữa tối, còn Ted đang ở tầng trên vỗ về con ngủ.
Adrian và tôi ngồi cạnh nhau trên bậc cầu thang của căn chòi, nép sát vào nhau tới mức đầu gối của chúng tôi gần xúc chạm. Tôi kể cho anh chàng nghe về chuyện thử dùng máy theo dõi trẻ sơ sinh, về chuyện tôi đã chứng kiến Teddy vẽ mà không cần nhìn, không cần dùng tay thuận. Và nếu Adrian bảo rằng tôi bị điên, thì cũng hợp lý thôi—tôi biết câu chuyện của tôi nghe có vẻ điên rồ thật—thế nên tôi thấy rất nhẹ nhõm khi anh chàng lắng nghe những điều tôi kể một cách nghiêm túc. Anh ta ghé sát những bức vẽ lên trước mặt, không khỏi nhăn nhúm khó chịu. “Chúa ơi, mấy thứ này mùi kinh quá!”
“Đó là mùi trong phòng ngủ của Teddy. Không phải lúc nào cũng thế nhưng thi thoảng. Caroline nói thằng bé tè dầm.”
“Mình không nghĩ đây là mùi nước tiểu. Mùa hè năm ngoái, bọn mình phải đi làm ở hạt Burlington. Gần vựa thông Pine Barrens ấy. Có người thuê bọn mình dọn sạch một khu đất bỏ hoang. Khu đất đó rộng khoảng hai nghìn mét vuông để hoang vu, cỏ mọc cao hơn đầu, cả bọn đúng nghĩa là phải vác dao rựa đi phát quang. Và còn cả những thứ rác linh tinh chắc cậu sẽ không tin nổi—quần áo cũ, vỏ bia, con ki bowling, mấy loại rác rưởi không thể nào tin nổi. Nhưng thứ khủng khiếp nhất mà bọn mình phát hiện ra là một con hươu chết. Lúc ấy là vào giữa tháng Bảy. Cả bọn phải bọc nó vào túi và mang đi. Mình không kể chi tiết đâu Mallory, nhưng mà khiếp lắm. Và điều mà mình sẽ không bao giờ quên—chúng ta vẫn thường nghe nhắc đến điều này trong phim suốt, nhưng là sự thật—đó là cái mùi rất kinh khủng. Mùi y như mấy bức tranh này vậy.”
“Tôi nên làm gì đây?”
“Mình không biết.” Anh chàng cầm lấy xấp tranh vẽ và đặt chúng ra xa, kiểu như sẽ không an toàn nếu cận kề. “Cậu nghĩ Teddy có ổn không?”
“Tôi cũng không biết nữa. Lúc đó thật sự rất kì quặc. Da thằng bé nóng ran. Và khi tôi chạm vào người nó, cảm giác nó không phải là Teddy nữa. Cảm thấy như… nó là một ai khác.”
“Cậu đã kể cho bố mẹ thằng bé chưa?”
“Kể cho họ cái gì? ‘Em nghĩ con của anh chị bị hồn ma của Annie Barrett nhập’ sao? Tôi đã từng thử rồi. Họ nổi điên lên.”
“Nhưng giờ khác rồi mà. Cậu có bằng chứng. Tất cả những bức tranh mới này. Giống như cậu nói đấy: Teddy không thể vẽ những bức tranh này nếu không có người khác giúp.”
“Nhưng tôi không thể chứng minh là Anya đã giúp cậu bé. Tôi không thể chứng minh cô ấy đã lẻn vào căn chòi của tôi và để chúng lại trên tủ lạnh. Nghe điên rồ lắm.”
“Nhưng nó đâu có nghĩa chuyện đó không phải sự thật.”
“Cậu không hiểu bố mẹ thằng bé bằng tôi đâu. Họ sẽ không tin tôi đâu. Tôi cần phải tiếp tục tìm kiếm thêm, tôi cần bằng chứng thật sự cơ.”
Chúng tôi uống nước có ga và chia nhau một bát lớn bỏng ngô nổ bằng lò vi sóng—chút đồ ăn nhẹ ngon lành nhất mà tôi có thể chuẩn bị trong thời gian ngắn. Tôi cảm thấy tiếp khách như thế không thỏa đáng lắm, nhưng Adrian không có vẻ chấp nhặt. Anh chàng báo cho tôi biết tình hình ở Thư viện công của Spring Brook. Mẹ anh chàng đã bắt đầu lọc các hồ sơ lưu trữ, nhưng bác ấy vẫn chưa tìm được gì. “Mẹ mình bảo hồ sơ được lưu lộn xộn lắm. Khế ước, báo chí cũ, chẳng ai sắp xếp chúng cả. Mẹ mình còn bảo sẽ cần thêm một tuần nữa.”
“Tôi không thể chờ thêm một tuần nữa đâu, Adrian ạ. Thứ này—linh hồn hay hồn ma, hay bất kì thứ gì đó—nó đang ra vào căn chòi của tôi. Có những đêm, tôi cảm thấy cô ta đang dõi theo tôi.”
“Ý cậu là sao?”
Tình thật tôi chưa từng tìm được đúng từ để mô tả cảm giác đó—các giác quan đều mang một cảm giác bồn chồn đến kì lạ, đôi khi sẽ đi kèm tiếng rên rỉ chói tai. Tôi cảm thấy muốn nhắc tới cuộc thí nghiệm ở Đại học Pennsylvania, muốn hỏi Adrian xem anh chàng đã bao giờ nghe nói đến những cụm từ nôm na như “phát hiện ánh nhìn” chưa. Nhưng tôi không muốn nhắc đến bất cứ điều gì có thể hướng cuộc nói chuyện sang cái quá khứ bất hảo ấy. Tôi đã nói dối anh chàng quá nhiều; tôi vẫn đang cố tìm ra cách tốt nhất để thành thật với anh.
“Mình có ý này,” Adrian nói. “Bố mẹ mình có một căn phòng nhỏ ở tầng trên ga-ra. Hiện tại chẳng có ai ở đó. Cậu có thể sang ở với gia đình mình vài hôm. Làm việc ở đây, nhưng tìm một chỗ nào đó an toàn để ngủ lại cho tới khi chúng ta tìm hiểu được có chuyện quái gì đang diễn ra.
Tôi cố tưởng tượng ra cảnh mình phải giải thích tình hình cho gia đình Maxwell—nói với cậu bé năm tuổi rằng tôi sẽ chuyển đi, bởi tôi quá sợ khi phải sống trong sân sau nhà họ.
“Tôi không chuyển đi đâu. Tôi được thuê để chăm sóc Teddy, và tôi sẽ ở lại đây để chăm sóc cậu bé.”
“Vậy hãy để mình ngủ lại.”
“Cậu đùa đấy à.”
“Mình sẽ ngủ trên sàn nhà. Không đùa cợt gì đâu, chỉ là để đảm bảo an toàn.” Tôi nhìn anh chàng, trời đã gần tối hẳn, nhưng tôi dám chắc là hai má anh chàng đang ửng đỏ. “Nếu hồn ma của Annie Barett lẻn vào trong căn chòi này, bà ấy sẽ vấp phải mình, và đánh thức mình dậy, và chúng ta sẽ nói chuyện với bà ấy.”
“Cậu đang trêu tôi đấy à?”
“Không, Mallory ạ, mình đang nghĩ cách giúp đỡ thôi.”
“Tôi không được phép để khách ngủ lại. Đó là một trong những nội quy của gia đình.”
Adrian thì thầm. “Mình dậy vào 5 giờ rưỡi mỗi sáng. Mình có thể lẻn rời đi trước khi mặt trời mọc. Trước khi nhà Maxwell thức giấc. Họ sẽ không biết đâu.”
Thực tâm tôi rất muốn đồng ý. Tôi sẵn lòng được huyên thuyên mãi với Adrian cho tới tận đêm khuya. Thực lòng tôi không muốn anh chàng ra về.
Nhưng điều đang ngăn cản tôi đó là sự thật. Adrian vẫn nghĩ anh ấy đang giúp đỡ Mallory Quinn, một vận động viên chạy việt dã được nhận học bổng và là một sinh viên đại học.
Anh chàng không hề nhận ra tôi là Mallory Quinn, một kẻ từng nghiện ngập và có một cuộc đời đáng vứt đi. Anh chàng đâu có biết rằng em gái tôi đã chết và mẹ tôi thì không muốn nói chuyện với tôi, rằng tôi đã đánh mất hai người có ý nghĩa nhất với mình trên cuộc đời này. Và tôi không thể nào thổ lộ với anh chàng được. Thậm chí tôi còn không thể thừa nhận những điều này với chính bản thân mình.
“Đi mà, Mallory. Đồng ý đi mà. Mình thấy lo cho cậu.”
“Cậu chẳng biết gì về tôi cả.”
“Vậy hãy nói cho mình biết. Kể cho mình biết đi. Mình nên biết gì nào?”
Nhưng tôi không thể thổ lộ vào lúc này, không thể kể lể vào lúc tôi cần anh chàng giúp đỡ hơn bao giờ hết. Tôi cần phải che giấu quá khứ của mình thêm một vài ngày nữa. Và sau đó, tôi thề là tôi sẽ kể cho anh nghe tất cả.
Anh chàng nhẹ nhàng đặt tay lên đầu gối của tôi.
“Mình thích cậu, Mallory ạ. Hãy để mình giúp đỡ cậu.”
Tôi nhận ra anh chàng đang lấy can đảm nhấc chân đến. Đã lâu lắm rồi mới có người định hôn tôi. Và tôi muốn anh hôn tôi lắm chứ, nhưng cùng lúc đó tôi lại muốn anh đừng làm thế, thế là tôi chỉ ngồi bó gối một chỗ, còn anh chầm chậm xoay người về phía tôi.
Và rồi sau đó ở phía bên kia sân nhà, tại nhà chính, cánh cửa kính được đẩy mở, và Caroline Maxwell bước ra ngoài, mang theo sách và một chai rượu cùng một cái ly chân cao.
Adrian lùi ra sau và hắng giọng.
“Ừm, cũng muộn rồi.”
Tôi đứng dậy. “Ừ.”
Chúng tôi băng qua sân và vòng qua hông nhà chính, theo con đường lát đá đi ra lối dẫn vào nhà Maxwell, lối đi đủ lớn cho hai xe chạy. “Đề nghị của mình vẫn còn hiệu lực nếu cậu đổi ý nhé,” Adrian nói. “Mặc dù mình nghĩ cậu không cần phải lo lắng.”
“Sao lại không?”
“Thì, cái thứ này—linh hồn hay hồn ma gì đó, bất luận là gì—cậu đã bao giờ nhìn thấy bà ấy chưa?”
“Chưa.”
“Cậu đã bao giờ nghe thấy tiếng của bà ấy chưa? Những tiếng than khóc hay tiếng động kì lạ ấy? Những tiếng thì thầm vào lúc nửa đêm chẳng hạn?”
“Chưa bao giờ.”
“Và bà ấy đã bao giờ đảo lộn đồ dùng của cậu chưa? Kéo rơi những bức tranh khỏi tường, hay đập cửa hay bật đèn chẳng hạn?”
“Không, chưa bao giờ xảy ra những chuyện như vậy.”
“Chính xác. Bà ấy có rất nhiều cách để dọa cậu. Và bà ấy hoặc không thể làm hoặc không làm. Mình nghĩ bà ấy đang cố tìm cách để giao tiếp. Mình nghĩ sẽ có thêm nhiều bức vẽ nữa, và khi có đủ tất cả, chúng ta sẽ hiểu bà ấy đang định nói điều gì.”
Anh ta nói vậy nghe có hợp lý không nhỉ? Tôi không biết nữa. Nhưng tôi cảm kích sự bình tĩnh và tự tin trong giọng nói của anh ta. Chàng trai này dường như có thể hóa giải được mọi khúc mắc của tôi.
“Cảm ơn Adrian. Cảm ơn cậu đã tin tôi.”
Khi tôi đang trên đường quay lại căn chòi, Caroline gọi tôi từ ngoài hiên. “Chị thấy em có bạn mới à. Mong là chị đã không dọa cậu ấy chạy mất.”
Tôi băng qua sân để không phải nói lớn tiếng. “Cậu ấy là một trong số người làm sân vườn cho nhà chị đấy. Cậu ấy là tân binh của Ông hoàng sân cỏ.”
Ồ, chị biết chứ, mấy tuần trước chị đã gặp Adrian rồi. Ngay trước khi em chuyển đến. Teddy rất ngưỡng mộ xe máy kéo của cậu ấy.” Chị nhấp một hớp rượu vang. “Cậu ấy rất dễ thương, Mallory ạ. Đôi mắt đó!”
“Bọn em chỉ là bạn thôi.”
Chị nhún vai. “Không phải việc của chị. Nhưng nhìn từ đây, có vẻ hai đứa ngồi rất sát nhau đấy.”
Tôi cảm thấy mặt mình đang đỏ ửng. “Có lẽ là hơi sát thôi ạ?”
Chị gập cuốn sách lại và để nó sang bên, rủ tôi ngồi xuống. “Chúng ta còn biết gì về cậu ấy nào?”
Tôi giải thích rằng anh chàng sống cách đây ba khu nhà, rằng anh làm việc cho công ty của bố mình, rằng anh đang học ngành Kỹ sư Đại học Rutgers ở New Brunswick. “Cậu ấy thích đọc sách. Em từng gặp cậu ấy ở hiệu sách. Và có vẻ cậu ấy quen tất cả mọi người ở Spring Brook.”
“Thế còn những dấu hiệu cần cảnh giác thì sao? Cậu ấy có điểm xấu gì?”
“Em không chắc nữa, em vẫn chưa phát hiện ra điểm gì. Cậu ấy kiểu như là một con mọt phim và truyện Chiến tranh giữa các vì sao thì có tính không? Ý em là sẽ không bất ngờ nếu như cậu ấy ăn vận giống mấy nhân vật và đi các buổi họp fan.”
Caroline bật cười. “Nếu như đó là điểm xấu nhất của cậu ấy, thế thì chị sẽ mặc đồ công chúa Leia và chỉ trích cậu ấy xối xả. Khi nào thì em sẽ gặp lại cậu ấy?”
“Em không biết nữa.”
“Có khi em nên tiến tới trước đi. Mời cậu ấy tới nhà. Em có thể dùng bể bơi, tổ chức một bữa trưa picnic cùng nhau đi. Chị dám chắc Teddy sẽ rất thích đi bơi cùng cậu ấy.”
“Cảm ơn chị,” tôi nói. “Có khi em sẽ làm vậy.”
Chúng tôi thoải mái ngồi im lặng với nhau trong vài phút, tận hưởng sự tĩnh lặng của màn đêm, và rồi sau đó Caroline với tay cầm cuốn sách—một cuốn sách bìa mềm đã cũ có những nếp gấp đánh dấu trang và đầy chú giải bên trong. Bìa của cuốn sách là hình ảnh Eva khỏa thân đứng trong Vườn Địa đàng, vươn tay với trái táo, còn con rắn đang ẩn nấp ở gần đó.
“Đó là Kinh thánh ạ?”
“Không, là tập thơ. Thiên đường đã mất. Hồi học đại học chị từng rất thích cuốn này, nhưng giờ chị không thể đọc nổi một trang. Chị không còn đủ kiên nhẫn nữa. Giống như việc làm mẹ đã hủy hoại khả năng tập trung của chị.”
“Em có cuốn Harry Potter phần một trong nhà đấy. Em lấy khỏi tủ sách để đọc cho Teddy nghe, nhưng chị có thể mượn nếu muốn.”
Caroline mỉm cười, giống như tôi vừa nói một điều gì đó có vẻ ngớ ngẩn. “Chị nghĩ chị sẽ đi ngủ thôi. Đã muộn rồi. Chúc em ngủ ngon, Mallory.”
Chị đi vào trong nhà và tôi đi một vòng dài băng qua sân trở về căn chòi. Một lần nữa, tôi lại nghe thấy tiếng bước chân đi qua đi lại bìa rừng Hayden’s Glen—lại là hươu hoặc mấy đứa thiếu niên say xỉn hoặc người chết, ai mà biết là cái gì—nhưng âm thanh ấy không còn khiến tôi sợ hãi nữa.
Bởi vì tôi đã kết luận là Adrian nói chí phải.
Tôi không việc gì phải sợ Anya.
Bà ấy không phải đang cố tìm cách làm hại tôi.
Bà ấy không phải đang dọa tôi.
Bà ấy đang tìm cách nói với tôi điều gì đó.
Và tôi nghĩ đã đến lúc bỏ qua người trung gian được rồi.