CHƯƠNG 1

Nhớ lại vài năm trước, lúc sắp rơi vào tình cảnh không một đồng xu dính túi, tôi đã tình nguyện tham gia vào một chương trình nghiên cứu của Đại học Pennsylvania. Sau một hồi hỏi thăm đường, tôi tìm đến trung tâm y tế của trường nằm ở phía Tây Philadelphia. Đó là một khu hội trường lớn đông đặc chị em phụ nữ ở độ tuổi từ 18 đến 35. Chỗ này không có đủ ghế ngồi mà tôi lại còn nằm trong số những người đến muộn nên đành phải ngồi run rẩy dưới sàn. Ở đây người ta phục vụ cà phê và bánh rán vòng vị sô-cô-la miễn phí, một chiếc ti vi lớn đang phát chương trình Hãy chọn giá đúng, nhưng hầu hết mọi người đều cắm mặt vào điện thoại. Bầu không khí giống hệt như ở trung tâm đăng kiểm xe, chỉ khác ở chỗ tất cả đều được trả công theo giờ nên trông ai cũng mang vẻ phấn khởi dẫu dài cổ chờ đợi cả ngày.

Một bác sĩ khoác áo bờ-lu trắng xuất hiện và giới thiệu bản thân. Bà ấy xưng tên là Susan hay Stacey hay Samantha gì đó và là một thành viên trong Chương trình nghiên cứu lâm sàng. Dông dài các quyền từ chối và lời cảnh báo như thường lệ xong, bà không quên nhắc nhở chúng tôi rằng mọi chi phí đền bù sẽ được chi trả dưới dạng thẻ quà tặng của Amazon, chứ không phải bằng séc hay tiền mặt. Một vài người buông tiếng càu nhàu nhưng tôi chẳng bận tâm; tôi có một anh bạn sẵn lòng mua lại thẻ quà tặng ấy mà chẳng để ý đến giá cả, thế nên tôi thấy không thành vấn đề.

Vài phút một lần, Susan (tôi nghĩ tên bà ấy là Susan) sẽ gọi tên từng người trong danh sách ghim vào tập tài liệu, gọi đến ai người đó sẽ rời khỏi hội trường. Không một ai quay lại. Chẳng mấy chốc, ghế trống ngày một nhiều lên nhưng tôi vẫn cứ ngồi lại dưới sàn nhà, bởi lẽ tôi đoán chắc một khi nhấc người dậy thì tôi sẽ không tránh khỏi nôn thốc nôn tháo. Cả người tôi đau nhức, từng cơn ớn lạnh dâng lên. Thế nhưng nghe phong thanh rằng họ sẽ không khám sàng lọc mọi người—tức là sẽ không có người làm xét nghiệm nước tiểu hay đo nhịp tim hay thực hiện bất cứ xét nghiệm nào—nên tôi tống ngay một viên giảm đau vào miệng và ngậm cho đến khi lớp bọc màu vàng như sáp ong tan dần ra. Sau đó, tôi nhổ nó vào lòng bàn tay, vê nát bằng ngón tay và lấy khoảng một phần ba. Một lượng đủ khiến tôi tỉnh táo tức thì. Phần còn lại được gói trong một miếng nhôm nhỏ xíu để dành lần sau. Sau đó, tôi không còn run nữa, cảm giác ngồi chờ dưới sàn nhà không còn quá khủng khiếp.

Cuối cùng, khoảng hai tiếng sau, nữ bác sĩ nọ cũng gọi tên “Quinn? Mallory Quinn?”, thế là tôi vừa chen chân qua những hàng ghế để gặp bà ấy, vừa kéo lê chiếc áo khoác mặc đông nề nặng ở phía sau. Chẳng biết bà có nhận ra tôi đang phê thuốc không, nhưng bà không hề nói một câu. Bà chỉ hỏi tôi bao nhiêu tuổi (tôi mười chín) và ngày sinh của tôi (ngày 3 tháng Ba), rồi đối chiếu mấy câu trả lời của tôi khớp với thông tin có trong danh sách. Tôi đoán bà ấy đã xác định trạng thái của tôi đủ tỉnh táo, sau hồi bà ấy dẫn tôi qua cơ man hành lang cho đến khi bước tới một căn phòng nhỏ không có cửa sổ.

Trong phòng có năm gã trẻ tuổi đang ngồi trên ghế gấp được xếp thành hàng ngang; tất cả đều đang cúi mặt nhìn xuống sàn nên tôi không thể nhìn rõ mặt họ. Có lẽ họ là sinh viên trường y hoặc nhân viên y tế—ai nấy cũng đều mặc quần áo màu xanh nhạt thường thấy ở bệnh viện, nếp gấp vẫn còn rõ mồn một, cứ như vừa mới lấy từ trên giá xuống.

“Được rồi, cô Mallory, chúng tôi mời cô đứng ở trước phòng, đối diện với các anh ở đây. Đứng đúng vào chỗ đánh dấu X, chuẩn chỗ đó rồi. Giờ tôi xin phép giải thích cho cô hiểu cách chúng tôi làm thí nghiệm trước khi bịt mắt cô lại nhé.” Tôi nhận ra bà ấy đang cầm một cái bịt mắt màu đen—loại dùng vải Cô-tông mềm mà mẹ tôi vẫn thường sử dụng mỗi khi đi ngủ.

Bà ấy giải thích rằng năm người ở đây đều đang nhìn xuống nền nhà nhưng trong khoảng vài phút tới, họ sẽ ngước lên nhìn cơ thể của tôi. Nhiệm vụ của tôi là giơ tay lên nếu tôi cảm nhận được “ánh nhìn nam giới” đang lướt trên người mình. Bà ấy cũng bảo tôi giữ nguyên tay như vậy đến chừng nào còn cảm nhận được ánh nhìn ấy, và hạ dần tay xuống khi cảm giác đó biến mất.

“Chúng ta sẽ tiến hành trong khoảng năm phút, nhưng sau khi hoàn thành, có thể tôi sẽ muốn cô thực hiện lại cuộc thí nghiệm. Cô có thắc mắc gì trước khi chúng ta bắt đầu không?”

Tôi bật cười. “À vâng, các vị đã đọc Năm mươi sắc thái của Grey bao giờ chưa? Bởi tôi chắc chắn cảnh này đích thị là chương thứ mười hai.”

Trước nỗ lực tỏ ra hài hước của tôi, Susan lịch sự mỉm cười, còn lại không một ai để tâm. Họ đều đang táy máy kẹp tài liệu của mình và điều chỉnh lại đồng hồ bấm giờ sao cho đồng nhất. Không khí trong căn phòng này có vẻ như đông đặc lại. Susan đeo dây bịt lên mắt tôi, rồi điều chỉnh dây đeo sao cho không quá chặt. “Được rồi, cô Mallory, đeo thế đã được chưa?”

“Được rồi.”

“Cô đã sẵn sàng bắt đầu chưa?”

“Sẵn sàng.”

“Vậy thì chúng ta sẽ bắt đầu khi tôi đếm đến ba nhé. Các quý ông, hãy bấm đồng hồ chuẩn bị. Nào, một, hai, ba.”

Một cảm giác thật kì lạ, bất động trong vòng năm phút, bị bịt mắt trong một căn phòng im lặng như tờ, được biết trước những người đó có thể sẽ nhìn lấy ngực mình hoặc mông má hay bất cứ chỗ nào trên cơ thể. Không có một âm thanh hay dấu hiệu nào giúp tôi phán đoán được sự việc đang diễn ra.

Nhưng tôi thực sự cảm nhận được ánh mắt của họ. Tôi giơ tay lên và hạ tay xuống vài lần, năm phút trôi qua mà cứ ngỡ cả tiếng đồng hồ. Sau khi chúng tôi kết thúc thí nghiệm, Susan yêu cầu tôi làm lại, và chúng tôi thực hiện lại một lần nữa. Sau đó, bà lại yêu cầu tôi làm lại đến lần thứ ba! Cuối cùng, bà ấy cũng tháo cái bịt mặt xuống, tất cả mọi người ở đây đứng dậy và bắt đầu vỗ tay như thể tôi vừa đoạt giải của Viện Hàn lâm.

Susan giải thích rằng họ đã thực hiện thí nghiệm này suốt một tuần với hàng trăm phụ nữ—song tôi là người đầu tiên có số điểm gần tuyệt đối, có khả năng tố giác “ánh nhìn” ba lần với độ chính xác là 97 phần trăm.

Bà bảo năm gã kia hãy nghỉ ngơi một lúc rồi dẫn tôi vào văn phòng của bà và bắt đầu vài câu hỏi. Ví như làm sao tôi biết được những người kia đang nhìn mình chằm chằm? Làm sao tôi lý giải nổi—tôi chỉ cảm nhận thôi. Nó giống cảm giác dao động trong phạm vi chú ý của tôi—giống giác quan của loài nhện. Tôi đoán chắc rằng vào một thời điểm thích hợp, bạn cũng từng có cảm giác như vậy, bạn sẽ hiểu chính xác điều tôi đang đề cập.

“Ngoài ra còn có âm thanh.”

Hai mắt bà ấy trợn tròn. “Thật sao? Cô nghe được âm thanh gì sao?”

“Thi thoảng. Một âm cao chói tai. Giống như tiếng con muỗi vo ve sát cạnh.”

Bà ấy với lấy chiếc máy tính xách tay nhanh đến nỗi suýt nữa đánh rơi nó. Bà ấy gõ vài dòng ghi chú rồi hỏi tôi có sẵn sàng quay trở lại sau một tuần để làm thêm thí nghiệm không. Tiền công hai mươi đô-la một giờ là câu trả lời của tôi, chỉ cần bà ấy muốn thì tôi sẽ quay lại. Tôi đưa số điện thoại cầm tay của mình, bà ấy hứa sẽ gọi cho tôi để sắp xếp lịch—nhưng vào cái đêm đó, tôi đã đổi chiếc iPhone của mình, vậy là bà ấy không còn cách nào tìm ra được tôi và kể từ đó, tôi không còn nghe thấy thông tin gì từ bà ấy nữa.

Hiện tại, tôi không còn nghiện nữa, song tôi từng phạm phải vô vàn sai lầm khiến tôi thấy hối hận—trong đó việc bán chiếc iPhone là điều tôi thấy đỡ hối hận nhất. Thế nhưng đôi lúc tôi lại nhớ đến cuộc thí nghiệm hôm ấy và bắt đầu băn khoăn. Tôi đã thử tìm kiếm vị bác sĩ đó trên mạng nhưng không nhớ nổi tên bà ấy. Một buổi sáng nọ, tôi bắt chiếc xe buýt đến trung tâm y tế của trường đại học và cố gắng tìm đến cái hội trường kia, nhưng khuôn viên trường học giờ đã khác xưa nhiều: Có vài tòa nhà mới mọc lên, mọi thứ đều xô bồ. Tôi đã thử tìm kiếm các cụm từ như “sự phát hiện ánh nhìn” hoặc “sự cảm nhận ánh nhìn” trên Google nhưng mọi kết quả đều cho thấy đó không phải là hiện tượng có thực—cũng không có bằng chứng nào chứng minh con người “có mắt sau gáy” cả.

Thế là tôi đành chấp nhận trước sự thật rằng thí nghiệm đó không có thực, rằng đó chỉ là một trong vô số những mẩu ký ức sai lệch của tôi trong khi đang lạm dụng thuốc giảm đau oxycodone, ma túy và các chất kích thích khác. Bác Russell—người bảo trợ của tôi—có nói rằng ký ức sai lệch là chuyện bình thường hay xảy ra với những bệnh nhân nghiện. Bác ấy cũng nói rằng não bộ của một người nghiện sẽ chỉ “ghi nhớ” những ảo tưởng hạnh phúc để tránh đắm chìm trong hiện thực—gồm có những điều xấu hổ mà chúng ta đã làm khi phê thuốc, những cách ta đã gây tổn thương sâu sắc với những người tốt bụng yêu thương ta.

“Nghĩ kĩ mọi chi tiết trong câu chuyện của cháu mà xem.” bác Russell nói tiếp. “Cháu đến khuôn viên một trường đại học trong khối Ivy League danh giá. Phê thuốc mà không ai quan tâm. Sau đó, cháu bước vào một căn phòng toàn bác sĩ trẻ. Vài giây sau đó, họ bắt đầu nhìn chằm chằm cơ thể cháu trong mười lăm phút và òa lên phấn khích! Bác nói thật đấy, Quinn! Cháu đâu cần phải là bác sĩ tâm lý Sigmund Freud mới hiểu rõ điều này!”

Quả thật bác ấy nói đúng. Một trong những việc khó khăn nhất trong quá trình phục hồi sau cai nghiện là dần dần chấp nhận sự thể bạn không còn tin não bộ của mình nữa. Thực tế bộ não đã trở thành kẻ thù đáng sợ nhất của chính bạn. Nó sẽ đưa đường dẫn lối đến những lựa chọn tệ hại, giày xéo tư duy và tri giác con người, bẻ cong những ký ức ngọt ngào nhất thành những ảo tưởng bất khả.

Còn đây là một vài sự thật tuyệt đối:

Tên tôi là Mallory Quinn và tôi hai mươi mốt tuổi.

Tôi đang trong quá trình hồi phục được mười tám tháng, và tôi có thể thành thật nói rằng tôi không còn mong muốn uống rượu bia hay sử dụng chất kích thích.

Tôi đã hoàn tất Chương trình mười hai bước phục hồi sau cai nghiện và tôi đã đầu hàng cuộc đời mình trước Thượng đế và Đấng cứu thế Jesus Christ. Có thể tôi không xuất hiện ở trong các ngóc ngách đường phố và cầm Kinh thánh nhưng tôi đều cầu nguyện mỗi ngày, cầu xin Ngài sẽ giúp tôi luôn tỉnh táo, và cho đến bây giờ điều ấy vẫn đang có tác dụng.

Tôi sống ở mạn đông bắc của Philadelphia tại Safe Harbor, một mái nhà được thành phố tài trợ dành cho phụ nữ đang trong giai đoạn hồi phục. Chúng tôi gọi nó là “nhà phục hồi” thay vì “nhà cai nghiện” bởi vì chúng tôi đều được chứng minh chúng tôi có sự tỉnh táo và nhiều tự do cá nhân hơn. Chúng tôi tự mua hàng hóa, tự nấu ăn và không còn thấy có nhiều các quy định khó chịu nữa.

Từ thứ Hai đến thứ Sáu, tôi sẽ hỗ trợ giáo viên ở Học viện Chăm sóc Trẻ em Aunt Becky, đó là một dãy nhà đầy chuột với sáu mươi học sinh lứa từ hai đến năm tuổi. Tôi đã dành một phần cuộc đời có ích để thay tã, để chén sạch bánh quy giòn Goldfish, và cày các đĩa phim Phố Vừng. Sau giờ làm, tôi sẽ tập chạy rồi tham gia một cuộc gặp mặt, hoặc tôi sẽ lưu lại Safe Harbor cùng với mấy người bạn khác xem phim trên kênh Hallmark như là Đắm chìm trong tình yêu hoặc là Mãi mãi trong tim. Cứ cười đi nếu bạn muốn, nhưng tôi đảm bảo rằng bạn sẽ không bao giờ bật kênh Hallmark lên và thấy gái làng chơi đang hít khìn khịt mớ bột trắng đâu. Tôi đâu muốn những hình ảnh đó xâm nhập trí não mình.

Bác Russell đồng ý bảo trợ tôi bởi tôi đã từng là vận động viên điền kinh, còn bác ấy có một bề dày kinh nghiệm làm huấn luyện vận động viên chạy nước rút. Bác Russell còn là huấn luyện viên cộng sự của đội tuyển Mỹ tại Thế vận hội Mùa hè 1988. Sau đó, bác đã dẫn dắt nhiều đội khác ở Arkansas và Stanford đến đường đua NCAA và tranh chức vô địch. Thế nhưng bác đã lái xe cán qua người hàng xóm trong trạng thái phê ma túy đá. Bác Russell ngồi tù năm năm vì tội vô ý làm chết người, sau này trở thành mục sư được phong chức. Hiện tại, bác đang bảo trợ cho năm, sáu người, hầu hết bọn họ đều là những vận động viên đã cai nghiện giống như tôi.

Bác Russell đã truyền cảm hứng để tôi bắt đầu tập luyện trở lại (bác ấy gọi đó là “chạy để phục hồi”); tuần nào cũng vậy, bác sẽ lên bài tập riêng cho tôi, xen kẽ luân phiên những buổi chạy đường dài và chạy nước rút dọc bờ sông Schuylkill kèm với tập tạ và những buổi tập thể lực tại Hiệp hội Thanh niên Thiên chúa giáo. Bác Russell là một người đàn ông sáu mươi tám tuổi, có cái hông nhân tạo nhưng vẫn có thể đẩy tạ nặng hơn chín mươi cân, và vẫn đều đặn tham gia hướng dẫn tôi vào mỗi cuối tuần, định hướng và động viên tôi. Bác ấy luôn nhắc nhở tôi rằng vận động viên nữ không đạt đến độ chín muồi cho đến tuổi ba lăm, vậy nên những ngày tháng huy hoàng nhất của tôi vẫn còn ở trước mắt.

Bác ấy cũng khuyến khích tôi lập kế hoạch cho tương lai—xây dựng một khởi đầu mới trong môi trường mới, tránh xa khỏi đám bạn bè cũ và thói quen cũ. Đây cũng là lý do bác ấy đã sắp xếp cho tôi một buổi phỏng vấn công việc với Ted và Caroline Maxwell—bạn của em gái bác—vừa chuyển đến Spring Brook, New Jersey. Hai vợ chồng họ đang tìm bảo mẫu để chăm sóc đứa con trai năm tuổi, tên là Teddy.

“Họ vừa mới từ Barcelona trở về. Bố thằng bé làm việc trong lĩnh vực máy tính. Hay kinh doanh gì đó? Lương bổng hậu hĩnh lắm, cụ thể ra sao thì bác quên mất rồi. Dù sao thì hai vợ chồng họ chuyển về đây để Teddy có thể đi học vào mùa thu này. Nhóc tì đó học mẫu giáo. Thế nên họ muốn cháu ở lại hết tháng Chín. Nhưng liệu mọi chuyện có suôn sẻ hay không? Ai mà biết được? Biết đâu họ sẽ giữ cháu lại luôn thì sao?”

Bác Russell cứ nằng nặc đòi đưa tôi đến buổi phỏng vấn. Bác ấy cũng là tuýp người luôn mặc đồ thể thao kể cả khi không tập luyện. Hôm nay, bác mặc bộ đồ Adidas màu đen có sọc trắng. Chúng tôi đang ngồi trong chiếc SUV của bác băng qua cây cầu Ben Franklin ở làn bên trái, dòng xe cộ cứ lướt qua, tôi nắm chặt lấy tay vịn và nhìn không ngớt xuống dưới đùi, cố không hoảng loạn. Tim đập loạn xạ khi ngồi trên ô tô. Tôi di chuyển tới nhiều nơi bằng xe buýt và tàu điện ngầm, nhưng đây là lần đầu tiên tôi rời khỏi Philadelphia trong gần một năm qua. Quãng đường di chuyển từ đây đến vùng ngoại ô chỉ hơn mười sáu cây số mà cảm tưởng như đang phóng đến tận sao Hỏa.

“Sao thế?” Bác Russell hỏi.

“Không có gì.”

“Quinn, cháu căng thẳng quá. Thư giãn đi.”

Làm sao tôi có thể thư giãn khi chiếc xe buýt liên tỉnh BoltBus khổng lồ đang vượt qua chúng tôi ở phía bên phải?

Trông nó như con tàu Titanic có bánh xe, đi sát đến nỗi tôi có thể thò tay qua cửa xe và chạm vào nó. Tôi chờ cho đến khi chiếc xe buýt đi qua để có thể nói mà không gào lên.

“Thế còn người mẹ thế nào ạ?”

“Caroline Maxwell. Cô ấy là bác sĩ ở bệnh viện dành cho cựu chiến binh. Cùng nơi làm việc với em gái của bác, Jeannie. Thế nên bác mới biết cô ấy đấy!”

“Cô ấy có biết nhiều về cháu không?”

Bác ấy nhún vai, “Cô ấy biết cháu đã cai thuốc được mười tám tháng. Cô ấy biết cháu là người được bác vô cùng yên tâm tiến cử cho công việc này.”

“Ý cháu không phải vậy.”

“Đừng hồi hộp. Bác đã kể cho cô ấy nghe toàn bộ câu chuyện của cháu, cô ấy rất mong được gặp cháu.” Hẳn là vẻ mặt tôi trông đầy nghi ngại lắm, vậy nên bác Russell cứ tiếp tục động viên: “Nghề kiếm sống của người phụ nữ này là làm việc với các bệnh nhân nghiện. Họ đều là cựu chiến binh, bác đang nói đến lính Biệt kích Hải quân Hoa Kỳ, những người dính sang chấn tâm lý chiến tranh thực sự ở Afghan ấy. Đừng hiểu nhầm ý bác, Quinn ạ, nhưng so với họ, chuyện của cháu không đến mức đáng sợ đến thế.”

Vài ba tên khốn đi xe Jeep vứt một chiếc túi nhựa ra ngoài cửa sổ khiến chúng tôi đâm vào cái túi ở tốc độ hơn chín mươi sáu cây số trên giờ do không có đủ khoảng trống để đánh tay lái, nên một tiếng kính vỡ BỤP! rất to. Âm thanh nghe như tiếng bom nổ. Bác Russell vừa với tay đến chỗ điều hòa và bấm hai lần giảm nhiệt. Tôi cứ nhìn xuống đùi cho đến khi tôi nghe thấy tiếng động cơ chạy chậm lại, khi ấy tôi cảm nhận được đường uốn lượn nhẹ nhàng rẽ ra khỏi làn quốc lộ.

Spring Brook là một trong những khu tập trung dân cư nhỏ ở mạn Nam Jersey vẫn còn tồn tại kể từ thời Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Những ngôi nhà cổ theo phong cách Victoria và Thuộc địa phấp phới quốc kỳ ở hiên nhà vẫn cứ thi gan cùng thời gian. Các con phố được lát đá đều tăm tắp, vỉa hè đẹp đến nao lòng. Sạch đến mức không có mẩu rác quanh đây.

Chúng tôi dừng lại ở góc đèn giao thông và bác Russell hạ thấp cửa xe xuống.

“Cháu nghe thấy không?” Bác ấy hỏi.

“Cháu không nghe thấy gì cả.”

“Chính xác. Đó là âm thanh của yên bình. Nơi này hoàn hảo với cháu.”

Đèn giao thông chuyển sang xanh, chúng tôi tiến vào một cung đường dài đến ba khối nhà toàn là cửa hiệu và nhà hàng—một nhà hàng Thái, một quầy giải khát, một tiệm bánh dành cho người ăn chay, một trung tâm chăm sóc thú cưng ban ngày và một phòng tập yoga. Còn có một trung tâm dạy thêm tên là “Trường luyện Toán” và một hiệu sách/cà phê nho nhỏ. Tất nhiên không thể thiếu một quán cà phê Starbucks với đám đông thanh thiếu niên đang đứng trước cửa, tất cả đều đang dán mắt vào iPhone. Trông chúng giống như lũ trẻ con trung tâm thương mại Target; quần áo sặc sỡ, còn giày dép thuộc loại mới toanh.

Sau đó, bác Russell rẽ vào con phố bên cạnh, chúng tôi đi qua hết căn nhà này đến căn nhà khác. Những hàng cây cao oai vệ đổ bóng xuống vỉa hè và họa hình lên từng viên gạch. Những tấm biển báo được dán chữ lớn KHU PHỐ CÓ TRẺ EM—CHÚ Ý LÁI XE CHẬM! Rồi chúng tôi đến một ngã tư, một nhân viên điều tiết giao thông mặc áo bảo hộ màu neon đang mỉm cười, vẫy cho chúng tôi đi qua. Mọi thứ đều chỉn chu đến hoàn mỹ, cảm giác như vừa đi ngang qua một phim trường.

Cuối cùng bác Russell cũng tấp vào lề đường, dừng lại dưới bóng mát của rặng liễu. “Được rồi, Quinn, cháu sẵn sàng chưa?”

“Cháu cũng không biết nữa.”

Tôi kéo tấm che nắng của xe xuống và kiểm tra hình ảnh phản chiếu. Theo lời gợi ý của bác Russell, tôi ăn mặc giống hướng dẫn viên trại hè, chiếc áo cổ tròn màu lục, quần soóc kha-ki, và một đôi giày Keds trắng không tỳ vết. Tôi từng để tóc dài xõa xuống tận thắt lưng nhưng ngày hôm qua, tôi đã cắt phăng cái đuôi tóc đi và quyên góp nó cho quỹ từ thiện hỗ trợ bệnh nhân ung thư. Những gì còn lại là một mái tóc đen ngắn ra dáng thể thao, đến tôi còn không nhận ra bản thân mình nữa.

“Có hai lời khuyên như này,” bác Russell nói. “Trước tiên, nhất định cháu phải nói đứa trẻ đó có tài năng thiên bẩm.”

“Làm sao cháu nói được?”

“Không quan trọng. Trong khu phố này, mọi đứa trẻ đều có tài. Chỉ cần tìm cách dẫn câu nói đó vào trong câu chuyện.”

“Vâng, vâng. Thế lời khuyên còn lại là gì ạ?”

“Chà, nếu cuộc phỏng vấn có chiều hướng tệ đi? Hoặc là cháu nghĩ họ đang lưỡng lự? Cháu luôn có thể làm điều này.”

Bác ấy mở cái hộp đựng găng tay ra và chìa ra một thứ mà tôi thực sự không muốn mang vào trong căn nhà của họ chút nào.

“Trời, bác Russell, cháu không biết đâu.”

“Cầm lấy đi, Quinn. Xem nó là con át chủ bài. Cháu không cần phải dùng đến nó, nhưng có thể sẽ cần tới.”

Tôi đã nghe đủ các câu chuyện kinh dị trong thời gian phục hồi để hiểu được bác ấy luôn có lý do chính đáng. Tôi cầm lấy cái thứ ngu xuẩn đó và nhét nó sâu vào trong túi.

“Vâng, vâng” tôi đáp lại. “Cảm ơn bác đã đưa cháu đến đây.”

“Này, bác sẽ đợi ở Starbucks. Gọi cho bác ngay khi cháu phỏng vấn xong nhé, bác sẽ đưa cháu về.”

Tôi một mực bảo mình ổn, rằng tôi có thể bắt tàu để quay trở lại Philadelphia và giục bác Russell mau mau lái xe về nhà trước khi giao thông vào giờ cao điểm.

“Được rồi, nhưng nhớ gọi cho bác khi cháu xong đấy nhé,” bác ấy nói. “Bác muốn nghe chi tiết cuộc phỏng vấn, được chứ?”