Tôi chớp mắt mấy lần rồi tỉnh lại, xung quanh tối đen.
Lờ mờ trong bóng tối, tôi nhận ra những hình thù thân thuộc: giường của tôi, táp đầu giường của tôi, một cái quạt trần không chạy, những xà gỗ dày phía trên đầu.
Tôi đang ở trong căn chòi.
Tôi ngồi thẳng trên chiếc ghế gỗ lưng cứng và hai xoang mũi tôi đang bỏng rát. Cảm tưởng như chúng vừa được rửa bằng Clo.
Tôi thử đứng dậy, để rồi phát hiện ra tôi không thể dùng được hai cánh tay: hai cổ tay của tôi đang bị bắt chéo phía sau lưng, vặn lệch đi rất đau đớn và bị buộc chặt vào chiếc ghế gỗ.
Tôi mấp máy môi định gọi người tới giúp, nhưng có một đoạn dây vải buộc chặt quanh đầu tôi. Miệng tôi bị nhồi vải, một nắm vải ướt to cỡ bằng một trái táo. Nó tì lên xương hàm của tôi chật cứng.
Các cơ bắp của tôi căng cứng và tim đập thình thịch khi tôi nhận ra tất cả những việc mà mình không thể làm: tôi không thể cử động, tôi không thể nói, tôi không thể gào thét, tôi thậm chí còn không thể vén tóc đang bám trên mặt. Còn hơn cả hoảng sợ để nghĩ nên đánh hay bỏ chạy, cảm xúc của tôi không còn gì khác ngoại trừ một nỗi hoảng loạn. Tôi khiếp sợ vô cùng, suýt chút nữa thì tôi đã nôn thốc—cũng may mà tôi đã không nôn, bởi nhiều khả năng tôi sẽ bị sặc mà chết.
Tôi nhắm mắt lại và vội vã cầu nguyện. Cầu xin Chúa hãy giúp con. Hãy cho con biết con phải làm gì. Sau đó, tôi hít một hơi rất sâu qua đường mũi, để đưa không khí căng đầy nhất có thể vào hai lá phổi rồi thở ra. Đây là một bài tập thư giãn mà tôi học được khi ở trại cai nghiện, và nó giúp tôi xoa dịu cảm giác hồi hộp. Nó giúp nhịp tim của tôi đều đều trở lại và giúp tinh thần thơi thả hơn.
Tôi lặp lại bài tập này ba lần.
Và sau đó, tôi ép mình phải vận động trí óc.
Tôi vẫn còn những lựa chọn khác. Chân của tôi không bị trói. Có khả năng là tôi sẽ đứng dậy được—nhưng nếu đứng dậy được, chiếc ghế sẽ dính chặt vào lưng tôi như một cái mai rùa. Đi lại sẽ chậm chạp và khó khăn, nhưng có lẽ cũng không hẳn là bất khả thi.
Tôi có thể xoay đầu sang trái sang phải. Tôi có thể nhìn đủ xa về phía bếp và nhìn thấy đồng hồ đèn LED phát sáng trên mặt lò vi sóng chỉ 11 giờ 7 phút. Adrian dự kiến sẽ về tới đây vào lúc nửa đêm. Anh chàng đã hứa sẽ tới gặp tôi. Nhưng sẽ thế nào nếu anh gõ cửa căn chòi mà không ai ra mở? Có khi nào anh sẽ cố tìm cách để vào được bên trong?
Không, tôi nghĩ là không.
Trừ phi tôi có thể ra dấu cho anh chàng biết.
Tôi không thể với tay được đến túi quần, nhưng tôi dám chắc là trong đó chẳng có gì. Không có điện thoại. Không có chùm chìa khóa. Không có khẩu súng điện. Nhưng có một ngăn kéo cất đầy dao trong bếp của tôi. Nếu bằng cách nào đó, tôi với được một con dao và cắt dây trói, tôi sẽ thoát được khỏi cái ghế này và có vũ khí trong tay.
Tôi ghì hai bàn chân xuống mặt sàn và rướn người về trước, cố gắng đứng dậy, nhưng trọng lực ghì tôi xuống. Tôi nhận ra hi vọng duy nhất là lao thật nhanh về phía trước để lấy đà mà đứng dậy. Nhưng tôi chỉ sợ mình sẽ đổ nhào ra trước rồi ngã lăn ra sàn.
Tôi vẫn đang cố lấy can đảm để thử thì nghe thấy tiếng bước chân bên ngoài căn chòi, tiếng người leo lên bậc cầu thang gỗ. Sau đó, cánh cửa mở ra, và Caroline bật sáng đèn.
Chị ta vẫn mặc chiếc đầm cổ khoét sâu như trước đó nhưng lúc này đây chị ta đang đeo găng tay y tế màu xanh nước biển. Chị ta mang theo một trong số những cái túi vải đẹp nhất hay mang theo khi đi chợ—loại túi vải dùng đựng hàng tạp hóa để ngăn rác thải nhựa tích tụ ở đại dương. Chị ta có vẻ bất ngờ khi thấy tôi đã tỉnh lại. Chị ta để chiếc túi lên mặt bàn bếp và bắt đầu lấy những thứ ở bên trong ra: một cây mồi lửa bếp nướng BBQ, một cái thìa kim loại, một cái ống tiêm nhỏ xíu và kim tiêm được bọc trong nắp nhựa màu da cam.
Tôi luôn miệng cầu xin chị ta, nhưng tôi không thể nói ra tiếng, chỉ là chuỗi âm thanh ư ử. Chị ta cứ mặc kệ tôi và tập trung vào việc của mình, nhưng tôi dám chắc tôi đang khiến chị ta phát cáu. Cuối cùng, chị ta đưa tay ra sau đầu tôi và tháo sợi dây vải ra; tôi hẩy miếng vải ướt rơi vào lòng tôi, rồi rơi phịch xuống sàn nhà.
“Không được la hét,” chị ta nói. “Nói năng bình tĩnh thôi.”
“Sao chị lại làm như thế này với em?”
“Tôi đã cố làm cho em một bữa tiệc chia tay tử tế, Mallory ạ. Tôi đã làm món sa-lát hải sản. Tôi đã treo băng rôn. Ted và tôi thậm chí còn chuẩn bị cho em một khoản lương thôi việc. Bằng một tháng lương. Chúng tôi đã định tạo bất ngờ cho em với một tấm séc vào sáng mai.” Chị ta lắc đầu buồn bã rồi thò tay vào trong cái túi vải và lấy ra một túi nhựa nhỏ đựng một thứ bột màu trắng.
“Đó là gì vậy?”
“Đây là heroin mà em lấy trộm từ nhà Mitzi. Em đã lấy nó vào chiều hôm qua, sau khi em rình mò quanh phòng ngủ của bà ta.”
“Không đúng.”
“Tất nhiên là đúng rồi, Mallory. Em có rất nhiều nỗi đau không thể giải tỏa. Em đã mạo danh là một sinh viên đại học, một ngôi sao trên đường đua, và những điều đó đã tạo nên nỗi lo lắng vây bủa lấy em. Và rồi sau đó là áp lực vì để mất việc—mất khoản tiền lương và mất nơi ở—tất cả những áp lực đó khiến em tái nghiện.”
Tôi phát hiện thực ra bản thân chị ta cũng không tin những gì mình nói—chị ta chỉ đang tập kể một câu chuyện. Chị ta tiếp tục: “Em khao khát được dùng một liều, và em biết Mitzi có dùng thuốc, thế là em lẻn vào nhà của bà ta và tìm thấy chỗ bà ta cất giấu. Chỉ có điều em không nhận ra heroin của bà ta đã được thêm vào fetanyl. Hai nghìn microgram, đủ để giết chết một con ngựa. Các thụ thể opioid của em bị quá tải và em ngừng thở.”
“Đó là lời chị sẽ kể với cảnh sát sao?”
“Đó là những gì họ sắp kết luận. Dựa trên quá khứ của em. Và kết quả pháp y. Sáng ngày mai, tôi sẽ gõ cửa để xem em có cần giúp thu dọn gì không. Khi không thấy em mở cửa, tôi sẽ dùng chìa khóa của mình để vào trong. Tôi sẽ phát hiện ra em đang nằm trên giường với đầu kim cắm trên cánh tay. Tôi sẽ gào thét và gọi Ted. Anh ấy sẽ ép lồng ngực cho em và cố gắng hồi sức cấp cứu cho em. Chúng tôi sẽ gọi 911 nhưng nhân viên y tế sẽ thông báo em đã chết từ lâu. Họ sẽ nói rằng họ không thể làm gì được thêm. Và bởi vì chúng tôi là người tốt, chúng tôi đảm bảo em sẽ được chôn cất và làm bia mộ đàng hoàng. Bên cạnh em gái của em. Nếu không Russell sẽ lại phải tốn tiền thanh toán, và như thế có vẻ không công bằng cho lắm.”
Caroline mở túi nhựa và cầm nó phía trên chiếc thìa, rồi cẩn thận đổ thứ bột màu trắng vào thìa. Chị ta ngả người về phía bàn bếp, tập trung làm việc, và một lần nữa tôi lại nhìn thấy hình xăm ngay bên dưới cổ của chị ta.
“Chị chính là thiên thần trong những bức vẽ. Chị dùng chiếc Viper tấn công Anya và sau đó chị bóp cổ cô ấy.”
“Đó là tự vệ.”
“Chị không bóp cổ người khác để tự vệ đâu. Là chị đã sát hại cô ấy. Chị bắt cóc con gái nhỏ của cô ấy. Cô bé khi đó mấy tuổi? Hai à? Hay hai tuổi rưỡi?”
Chiếc thìa tuột khỏi tay Caroline và rơi loảng xoảng xuống mặt bàn bếp. Thứ bột trắng vương khắp nơi, và chị ta lắc đầu, vẻ rất bực bội.
“Đừng có vờ như em hiểu tình cảnh của tôi. Em không biết tôi đã phải trải qua những gì đâu.”
Chị ta với tay lấy cây vét bột bằng nhựa và chầm chậm kéo lê nó trên mặt bàn bếp, gom lại hết tất cả số bột trắng thành một đống nhỏ.
“Em biết chị đã được Ted giúp,” tôi nói. “Em biết anh ta là người đàn ông trong các bức vẽ. Là chị đã sát hại Anya và đưa con của cô ấy đi. Và sau đó, chị sai Ted tới chôn thi thể cô ấy. Chuyện này xảy ra khi nào vậy hả, Caroline? Khi đó các người đang sống ở đâu vậy hả?”
Chị ta lắc đầu và cười lớn. “Tôi biết em đang âm mưu chơi trò gì rồi. Bọn tôi dùng cách này để trị liệu suốt. Nói gì đi nữa, em cũng sẽ không thoát được đâu.”
“Chị và Ted có vấn đề sinh nở. Anh ta nói chị mất nhiều năm cố gắng mang thai. Đây là phương án cuối cùng của chị sao? Bắt cóc một đứa bé sao?”
“Là tôi đã cứu đứa trẻ đó.”
“Thế nghĩa là sao?”
“Không quan trọng. Chuyện gì đã qua thì cũng qua rồi và chúng ta cần phải sống tiếp. Tôi xin lỗi vì em đã không còn là một phần trong gia đình của chúng tôi.”
Caroline cẩn thận gạt đống bột lên thìa và sau đó với tay lấy cây châm lửa. Chị ta bật vài lần trước khi một ngọn lửa nhỏ màu xanh bùng lên, và tôi nhìn thấy hai tay chị ta run rẩy.
“Teddy có nhớ gì không?”
“Em nghĩ sao vậy hả, Mallory? Thằng bé có vẻ gì giống như bị sang chấn không? Thằng bé có vẻ gì buồn bã hay bất hạnh không? Không, không hề. Nó không nhớ gì cả. Nó là một đứa trẻ hạnh phúc và điềm đạm; tôi đã cố gắng rất nhiều để đưa nó tới nơi này. Nó sẽ không bao giờ biết được tôi đã hi sinh cho nó nhiều tới mức nào. Và tôi chấp nhận làm như thế.”
Trong lúc Caroline nói, thứ bột trong thìa bốc khói và chuyển đen, rồi cuối cùng tan chảy. Heroin mua ở bờ Đông thường không có mùi mấy, nhưng tôi bị sốc bởi một thứ hơi đậm mùi hóa chất—có thể đó là do fetanyl, có thể là do một loại chất phụ gia gây chết người nào đó. Tôi còn nhớ đã từng nghe kể về một kẻ buôn thuốc ở Camden được cho là đã pha thuốc tẩy rửa Ajax vào hàng của mình. Caroline đặt cây châm lửa xuống và cầm ống tiêm lên. Chị ta nhúng đầu kim tiêm vào lòng của chiếc thìa và chầm chậm kéo pít-tông, rút hết thứ dịch nâu gớm ghiếc vào ống tiêm.
“Thằng bé còn nhớ con thỏ,” tôi nói.
“Sao chứ?”
“Trong những bức tranh của Anya, cô ấy vẽ một cô bé đuổi theo một con thỏ. Cô bé đi theo thỏ trắng vào một thung lũng. Giờ hãy nhớ lại buổi phỏng vấn giữa chúng ta đi, Caroline! Ngày đầu tiên em đặt chân tới đây, chị có treo một bức vẽ của Teddy trên tủ lạnh. Bức vẽ một con thỏ trắng. Có lẽ cậu bé nhớ nhiều hơn chị tưởng đấy.”
“Những bức tranh của cô ta toàn là lời dối trá. Em không thể tin chúng được.”
“Lúc trước, em đã không thể hiểu chúng muốn nói gì. Nhưng em nghĩ cuối cùng em đã sắp xếp được chúng theo đúng thứ tự. Chúng ở trong cặp tài liệu, trên táp đầu giường của em. Chúng thể hiện chính xác những gì đã xảy ra.”
Caroline lục trong túi để tìm đoạn dây garo bằng cao su. Chị ta dùng hai tay kéo căng, tuồng như chị ta định dùng nó buộc quanh cánh tay của tôi. Nhưng rồi sau đó, sự tò mò đã lấn át chị ta. Chị ta bước tới chỗ táp đầu giường của tôi, mở cặp và bắt đầu lật từng trang giấy. “Không, không, thấy chưa, những bức tranh này không công bằng một chút nào! Đây là những lời kể từ phía cô ta. Nhưng em đã bao giờ xem xét từ phía của chị chưa? Đã nhìn bức tranh toàn cảnh chưa? Em sẽ hiểu rõ hơn.”
“Bức tranh toàn cảnh nào?”
“Chị không nói là chị không cảm thấy có tội. Chị có cảm thấy tội lỗi. Chị cảm thấy ân hận. Chị không hề thấy tự hào với những gì đã xảy ra. Nhưng cô ta không cho chị có lựa chọn nào khác.”
“Cho em thấy điều chị nói đi.”
“Sao chứ?”
“Trong ngăn kéo táp đầu giường, có giấy và bút chì đấy. Hãy vẽ ra những gì đã xảy ra. Hãy cho em thấy câu chuyện từ phía chị xem nào.”
Bởi vì tôi cần kéo dài thời gian nhiều nhất có thể.
Thời gian để Adrian có thể lái xe về đến nhà, đến được đây và gõ cửa rồi phát hiện ra có chuyện gì đó bất ổn.
Và Caroline trông có vẻ như muốn làm việc đó! Chị ta có vẻ nóng lòng muốn kể cho tôi nghe câu chuyện từ góc nhìn của chị ta. Nhưng chị ta đủ thông minh để nhận ra mình đang bị lừa. “Em đang cố tìm cách để tôi tự khai ra chứ gì. Em muốn tôi vẽ ra lời tự thú, bằng hình ảnh, để cảnh sát tìm ra làm bằng chứng bắt tôi. Ý đồ của em là vậy phải không?”
“Không, chị Caroline, em chỉ đang cố hiểu đã có chuyện gì thôi. Tại sao Teddy lại cần được cứu chứ?”
Chị ta cầm lấy dải garo và đi ra phía sau ghế, nhưng chị ta không làm cách nào buộc được nó vào cánh tay tôi. Hai tay chị ta run bần bật. “Đôi lúc cô ta như nhập vào đầu tôi vậy và tôi cảm thấy hoảng loạn tột cùng. Nhưng sau một hoặc hai phút nó sẽ qua đi.” Chị ta ngồi ở mép giường của tôi và dùng hai tay ôm mặt. Chị ta hít những hơi dài, như cố đưa không khí vào phổi. “Tôi không mong em cảm thông, nhưng chuyện này thực sự rất khó khăn đối với tôi. Nó giống như một cơn ác mộng không hồi kết.”
Nhịp thở của chị ta dội lại gấp gáp. Chị ta giữ chặt hai đầu gối và siết mạnh, tuồng như chị ta có thể ép mình quay lại trạng thái bình tĩnh. “Ted và tôi từng sống ở Manhattan. Khu Riverside Heights ở Upper West Side. Tôi làm việc cho bệnh viện Mount Sinai, mới ba mươi lăm tuổi mà đã sức cùng lực kiệt. Bệnh nhân của tôi có quá nhiều vấn đề. Thế giới này có quá nhiều nỗi đau, quá nhiều điều khốn khổ. Và Ted, anh ấy có một công việc IT nhàm chán mà anh thậm ghét.”
“Tôi đoán chúng tôi là hai con người vô cùng bất hạnh đang cố gắng để có con, và chúng tôi thất bại; sự thất bại đó khiến chúng tôi càng trở nên bất hạnh hơn. Chúng tôi đã thử tất cả những thủ thuật thường dùng: bơm tinh trùng vào âm đạo, thụ tinh trong ống nghiệm, dùng thuốc kích trứng. Em có biết gì về những thứ đó không?” Caroline lắc đầu. “Cũng chẳng quan trọng. Không biện pháp nào có hiệu quả. Cả hai chúng tôi làm việc như điên, nhưng chúng tôi thậm chí chẳng cần đến số tiền đó, bởi vì bố tôi đã để lại cho tôi cả một gia tài. Thế là cuối cùng chúng tôi giống như vứt bỏ hết tất cả: Hãy vứt bỏ công việc và nghỉ phép một năm. Chúng tôi tậu một căn nhà ở mạn bắc New York, bên hồ Seneca. Theo lý thuyết, làm như vậy—khi trạng thái tinh thần được thoải mái hơn… có thể chúng tôi sẽ có con.”
“Vấn đề duy nhất là, chúng tôi chuyển lên đó và chúng tôi chẳng có bạn bè. Chúng tôi không quen một ai cả. Chỉ có tôi và Ted sống một mình với nhau trong căn nhà gỗ đó suốt cả mùa hè dài. Về phía Ted, anh thực sự rất hứng thú với chuyện làm rượu vang. Anh đi theo một người kinh doanh rượu địa phương để học hỏi. Nhưng còn tôi, tôi thấy rất chán chường, Mallory ạ. Tôi không biết mình sẽ làm gì. Tôi thử viết văn, chụp ảnh, làm vườn, làm bánh mì, nhưng không việc nào kéo dài được lâu. Và tôi nhận ra một điều rất kinh khủng, đó là tôi hoàn toàn không phải là một người giàu sáng tạo. Chợt ngộ ra bản thân mình như vậy chẳng phải kinh khủng lắm sao?”
Tôi cố tỏ ra vẻ đồng cảm để khích lệ chị ta kể tiếp. Nghe cái cách chị ta nói chuyện, người ngoài sẽ nghĩ chúng tôi là mẹ và con gái đang ngồi uống cà phê, ăn bánh ngọt và trò chuyện trong một nhà hàng Panera Bread. Chứ thực sự lúc bấy giờ tôi đang ngồi trên ghế, hai cánh tay bị bẻ quặt ra sau lưng, còn Caroline đang lập cập xoay xoay ống tiêm đã được bơm đầy thuốc giữa những ngón tay.
“Việc duy nhất đem lại cho tôi chút thích thú đó là đi bộ. Có một công viên bên hồ Seneca với những con đường mòn la đà, râm mát, và đó là nơi mà tôi gặp Margit lần đầu tiên. Đó là tên thật của Anya: Margit Baroth. Tôi bắt gặp cô ta ngồi dưới bóng cây, cặm cụi vẽ tranh phong cảnh. Cô ta rất tài năng và tôi thú thật hơi có chút ghen tị. Và cô ta luôn luôn đưa con gái theo cùng. Cô ta có một đứa con hai tuổi, tên là Flora. Margit sẽ vứt con bé trên một tấm chăn và mặc kệ nó. Liên tục trong hai hoặc ba tiếng đồng hồ. Cô ta sẽ nhét một cái điện thoại vào tay con bé, và sau đó hoàn toàn bỏ mặc nó. Và chuyện đó không phải chỉ có một hai lần, Mallory ạ. Tôi thấy họ mỗi cuối tuần! Việc đó đã trở thành thói quen của họ! Nó khiến tôi cảm thấy phát cáu mỗi lần đi ngang qua chỗ họ. Ý tôi là—đứa bé hoàn hảo đang ngồi ở đây, cô gái nhỏ xinh xẻo đến thế, khao khát được chú ý, thế mà người mẹ lại cứ miệt mài để mặc nó với những thứ trên YouTube! Giống như con bé là một gánh nặng của cô ta! Tôi đã đọc rất nhiều nghiên cứu về việc dùng thiết bị điện tử, Mallory ạ. Nó rất độc hại đối với trí tưởng tượng của một đứa trẻ.”
“Thế rồi sau một vài lần, tôi quyết định can thiệp. Tôi đi tới chỗ họ trải chăn và cố gắng tự giới thiệu về mình, nhưng Margit không hiểu những gì tôi nói. Tôi nhận ra cô ta không biết nói tiếng Anh. Thế là tôi có thể hiện ý muốn nói bằng động tác—tôi có thể hiện cho cô ta biết cô ta là một người mẹ tồi. Và tôi đoán cô ta đã hiểu sai ý. Cô ta tức giận, tôi cũng giận dữ, và rất nhanh sau đó cả hai cùng gào thét ầm lên, tôi nói bằng tiếng Anh, cô ta nói tiếng Hungary, cho tới khi có người chạy tới can ngăn. Họ phải đứng giữa hai chúng tôi, theo đúng nghĩa đen.”
“Sau việc đó, tôi đã cố đi tới những công viên khác, chọn những con đường mòn khác. Nhưng tôi không thể dừng nghĩ về cô bé đó. Tôi cảm giác như mình đã phụ cô bé đó, giống như tôi đã có cơ hội can thiệp nhưng lại dửng dưng lạnh lùng. Thế rồi một ngày, có lẽ là hai tháng sau trận khẩu chiến, tôi quay lại hồ. Đó là một sáng thứ Bảy, và ở đó đang có lễ hội khinh khí cầu tuyệt đẹp. Họ tổ chức lễ hội này vào mỗi tháng Chín, có hàng nghìn người tham dự, và bầu trời tràn ngập những quả cầu to lớn với màu sắc sặc sỡ, tươi sáng như thế này đây. Đó là thứ tuyệt vời cho trí tưởng tượng của một đứa trẻ, em biết chứ? Và Margit đang vẽ một quả khinh khí cầu, nhưng Flora bé nhỏ thì vẫn chỉ chăm chú nhìn điện thoại. Con bé nằm trên chăn, bị nắng thiêu cháy hết cả hai cánh tay và bờ vai.”
“Và khi tôi đứng đó, cảm thấy cơn giận dữ bốc lên ngùn ngụt, tôi đã để ý thấy thứ gì đó. Tôi nhìn thấy con thỏ này đang uốn éo chui lên khỏi mặt đất. Hẳn là nó đã đào hang ở đâu đó gần đấy. Nó nhảy lên mặt cỏ và lắc lư cho đến khi sạch đất, rồi Flora nhìn thấy nó. Con bé gọi lớn, ‘Anya, anya!’ và con bé chỉ con thỏ, cười lớn, nhưng Margit không hề quay đầu lại. Cô ta quá mải mê với tác phẩm của mình. Cô ta không nhận ra cô con gái nhỏ đã đứng dậy và đi mất, không nhận ra Flora đã băng qua bãi cỏ và đang đi vào thung lũng. Đi về phía một con suối, Mallory ạ. Thế thì tôi phải làm gì đó, đúng chứ? Tôi không thể mặc kệ những gì đang diễn ra. Tôi đi theo Flora vào thung lũng, và khi tôi chạy được tới nơi, con bé đã hoàn toàn mất phương hướng. Nó gào khóc, hoảng loạn. Tôi quỳ gối bên cạnh và nói với con bé rằng không sao đâu. Tôi nói rằng tôi biết làm thế nào để tìm được mẹ của con bé, và tôi bảo sẽ đưa con bé về. Và tôi thực lòng có ý đó, Mallory ạ. Tôi thực sự có ý sẽ đưa Flora quay về.”
Tôi gần như không theo được mạch câu chuyện bởi vì tôi đang nhớ lại bảng gọi hồn và thông điệp kì quái mà nó để lại, và nhận ra tôi đã đặt quá nhiều niềm tin vào Google Dịch.
Thông điệp không phải là GIÚP HOA—mà là GIÚP FLORA, giúp con gái của cô ấy.
“Tôi chỉ muốn dành chút thời gian với con bé,” Caroline kể tiếp. “Đi bộ với nhau một đoạn và chăm chút cho nó. Tôi đã nghĩ mẹ con bé sẽ không có ý kiến gì đâu. Cô ta thậm chí còn chẳng biết con bé đã lạc mất. Có một con đường mòn nhỏ ở gần đó, chạy vào rừng, thế là chúng tôi đã theo con đường đó. Đi vào rừng. Có điều Margit đã nhận ra Flora mất tích. Cô ta tìm kiếm con bé khắp nơi, và bằng một cách nào đó, cô ta tìm được chúng tôi. Cô ta đuổi theo chúng tôi vào rừng. Và khi cô ta nhận ra tôi, cô ta nổi xung thiên lên. Cô ta bắt đầu gào thét và vung cánh tay như thể định đánh tôi. Tôi luôn luôn mang theo súng Viper khi đi bộ, tôi mang theo để đảm bảo an toàn cho chính mình, thế là tôi dùng nó để tự vệ. Tôi chỉ dí vào cô ta có một lần, chỉ định khiến cô ta bật ra xa. Nhưng tôi đoán cô ta mắc phải chứng rối loạn thần kinh nào đó bởi vì cô ta ngã nhào ra đất và không thể đứng dậy được nữa. Cô ta bắt đầu co giật. Cô ta tè ướt váy, mình mẩy bắt đầu run bần bật. Flora tội nghiệp rất khiếp sợ. Và tôi biết tôi nên gọi 911 nhưng tôi cũng biết chuyện này trông tệ đến mức nào. Tôi biết nếu Margit kể lại mọi chuyện theo ý cô ta, mọi người sẽ hiểu nhầm.”
“Thế là tôi nắm lấy tay Flora và dẫn con bé ra sau một gốc cây. Tôi bảo con bé ngồi xuống và nhắm mắt lại. Để con bé không nhìn thấy những gì xảy ra tiếp sau đó. Và thực tình thì tôi cũng không nhớ rõ lắm phần còn lại, nếu em muốn nghe lời nói thật. Nhưng đó chính là vẻ đẹp của trí óc con người. Nó đánh tan tất cả những thứ xấu xa. Em biết điều tôi muốn nói, đúng không?”
Chị ta chờ tôi đáp lời—nhưng khi không thấy tôi nói gì, chị ta lại tiếp tục: “Và rồi tôi dùng lá phủ xác cô ta lại. Tôi đưa Flora về nhà bằng xe của mình. Tôi kể với Ted những gì đã xảy ra và anh muốn gọi cảnh sát, nhưng tôi thuyết phục anh rằng chúng tôi có thể xử lý được mọi chuyện. Chúng tôi đang ở vùng phía bắc giữa một nơi đồng không mông quạnh. Người phụ nữ đó là một người nhập cư, cô ta không thể nói tiếng Anh, tôi đoán ngoài vẽ vời, có thể cô ta còn làm nghề dọn dẹp nhà cửa. Tôi cho rằng nếu chúng tôi giấu cái xác và giữ lại đứa trẻ, sẽ không có ai nhận ra cô ta đã mất tích. Hoặc mọi người sẽ chỉ nghĩ rằng cô ta đã đưa con bỏ trốn. Phụ nữ vẫn làm thế suốt. Thế là tôi nhờ Ted đi tới công viên. Anh thu dọn đống giá vẽ và tấm chăn cùng tất cả đồ chơi của Flora, và anh chôn tất cả ở trong rừng. Cùng với cả cái xác nữa. Anh đi suốt cả đêm. Làm mãi mới xong. Mãi cho tới khi mặt trời mọc anh mới quay về.”
“Rồi, câu chuyện đáng ra nên kết thúc tại đây—chỉ có điều anh trai của Margit thật ra lại là một kẻ thực sự có máu mặt ở vùng hồ Seneca. Hắn là chủ của cái trại dê thổ tả mà mỗi mùa hè mọi người đều ưa lui tới, và hắn đã hỗ trợ để Margit và chồng cô ta là József di cư từ Hungary sang Mỹ để làm việc cho hắn. Và tệ hơn nữa, tôi đã không nghĩ ra chắc hẳn Margit phải lái xe tới hồ chứ—hóa ra đó là một chiếc Chevy Tahoe có ghế trẻ em. Cảnh sát tìm được nó trong bãi đỗ xe, và họ dùng cảnh khuyển để tìm. Chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ, họ đã tìm ra xác của cô ta.”
“Đột nhiên tất cả mọi người trong vùng đổ đi tìm một đứa bé gái hai tuổi mất tích đang gào khóc trong căn nhà gỗ của chúng tôi. Thế là tôi chạy tới cửa hàng Target, mua cho nó một đống quần áo con trai. Áo thi đấu thể thao. Áo phông có in hình cầu thủ bóng bầu dục. Rồi sau đó, tôi mua cái tông-đơ và cắt đầu cua cho Flora. Và tôi cam đoan là nó giống như lột xác hoàn toàn—tôi chỉ thay đổi kiểu tóc thôi, nhưng nhìn nó ai cũng bảo là con trai.”
Hơi thở của Caroline không còn chút gì gấp gáp nữa, và hai tay của chị ta đã không còn run. Càng nói nhiều, chị ta trông càng bình tĩnh hơn, như thể chị ta đang giải thoát lương tâm của mình khỏi một gánh nặng khủng khiếp.
“Sau đó, chúng tôi lên xe và lái đi. Chẳng có kế hoạch nào hết. Chúng tôi chỉ cần bỏ chạy, càng xa càng tốt. Chúng tôi lái liên tục cho tới khi đến được Tây Virginia, đến một thành phố mang tên Gilbert. Dân số là bốn trăm, toàn là người già cả ốm đau phải ngồi xe lăn. Tôi gửi thư cho bạn bè và nói rằng chúng tôi đã chuyển tới Barcelona, rằng Ted có một cơ hội mà anh không thể bỏ qua. Tiếp đó, chúng tôi thuê một căn nhà trên một mảnh đất rộng bốn héc-ta, không có hàng xóm, chỉ là một nơi đẹp đẽ yên bình mà chúng tôi có thể toàn tâm toàn ý cho đứa trẻ của mình.”
“Và Mallory ạ, tôi thề với em, đó là một năm gian khổ nhất đời tôi. Suốt sáu tháng, Teddy không chịu nói chuyện.”
“Thằng bé quá khiếp sợ! Nhưng tôi đã kiên nhẫn. Tôi cố gắng với nó mỗi ngày. Tôi thể hiện tình yêu, quan tâm, chăm sóc, yêu thương nó. Tôi mua đầy một nhà toàn sách, đồ chơi và đồ ăn lành mạnh. Chúng tôi đã đạt được tiến triển: Thằng bé bắt đầu chui ra khỏi vỏ bọc. Nó dần chấp nhận chúng tôi và tin tưởng chúng tôi và giờ nó yêu chúng tôi, Mallory ạ. Lần đầu tiên, thằng bé gọi tôi là mẹ, tôi đã bật khóc.”
“Tới cuối năm đầu tiên, chúng tôi đã thực sự có một số bước tiến rất tuyệt vời. Chúng tôi bắt đầu đưa Teddy ra ngoài. Đi bộ loanh quanh hoặc đi tới cửa hàng bách hóa. Những bữa ăn tối bình thường cùng gia đình ở nhà hàng. Một bức tranh hoàn hảo. Nếu chưa từng gặp, không ai có thể biết được những gì chúng tôi đã trải qua.” Và sau đó giọng chị ta lạc đi. Như thể chị ta đang luyến tiếc ngày xưa, cái ngày mà chị ta vẫn còn hi vọng.
“Đã có chuyện gì?”
“Tôi chưa từng nghĩ Margit sẽ tới tìm chúng tôi. Tôi vẫn luôn là một người vô thần. Tôi chưa bao giờ tin có thế giới tâm linh dù ở bất kì hình thức nào. Nhưng sau năm đầu tiên ở Tây Virginia, Teddy bắt đầu có khách tới thăm. Một người phụ nữ mặc váy trắng. Chờ thằng bé trong phòng ngủ vào giờ ngủ trưa.”
“Chị nhìn thấy cô ấy sao?”
“Không, chưa bao giờ. Cô ta chỉ để Teddy nhìn thấy. Nhưng tôi cảm nhận được cô ta, tôi cảm nhận được sự hiện diện của cô ta, tôi ngửi thấy mùi hôi hám, thối rữa đáng tởm của cô ta. Chúng tôi nói với Teddy cô ta là một người bạn tưởng tượng. Chúng tôi nói rằng cô ta không có thật, nhưng giả vờ như cô ta có thật thì cũng không sao. Thằng bé còn quá nhỏ, nên nó chỉ biết nghe theo.”
“Cô ấy có tìm đến chị không? Để trả thù?”
“Ồ, cô ta muốn lắm chứ. Nếu làm được hẳn cô ta đã giết tôi rồi. Nhưng sức mạnh của cô ta thực sự chỉ có hạn. Tôi đoán cô ta chỉ có thể điều khiển bảng cầu cơ và di chuyển bút chì, vậy thôi.”
Tôi thử tưởng tượng sự buồn chán khi bị mắc kẹt trong một căn nhà đơn độc trên bốn héc-ta đất ở giữa vùng nông thôn Tây Virginia—không có ai khác bầu bạn ngoại trừ người chồng, một đứa con do bắt cóc mà có và một linh hồn muốn báo thù. Tôi không chắc mình có thể chịu được bao lâu trước khi quẫn trí.
Tôi biết chúng tôi không thể ở ‘Barcelona’ mãi được. Tất cả chúng tôi cần phải tiếp tục sống cuộc đời của mình. Tôi muốn sống ở một thành phố tiện nghi, đẹp đẽ, có trường học tốt, để Teddy có thể có một tuổi thơ bình thường. Thế là chúng tôi chuyển tới đây vào tháng Tư, và tới Ngày của Mẹ, Anya đã quay trở lại trong phòng ngủ của Teddy, hát những bài hát ru của Hungary.”
“Cô ấy bám theo chị sao?”
“Đúng vậy. Tôi không biết cô ta đã làm thế nào. Tôi chỉ biết chạy trốn khỏi cô ta không phải là cách. Bất luận chúng tôi có đi đâu, Anya cũng sẽ bám theo. Và thế là tôi đã nảy ra một sáng kiến: Đưa thêm một bên thứ ba vào cuộc. Một người bạn mới để cạnh tranh với Anya, giành lại sự chú ý của Teddy. Em là một ứng cử viên hoàn hảo, Mallory ạ. Trẻ trung, khỏe khoắn, tràn đầy năng lượng. Sáng láng nhưng cũng không quá thông minh. Và quá khứ từng lạm dụng thuốc của em là một điểm cộng lớn. Tôi biết em rất dễ dao động. Tôi biết rằng nếu em nhìn thấy chuyện gì đó điên rồ, em sẽ nghi ngờ phán đoán của chính mình. Chí ít là trong ngắn hạn. Chỉ là tôi chưa từng tính đến những bức vẽ ngu ngốc đó. Tôi chưa từng nghĩ tới cô ta sẽ tìm cách để trò chuyện.”
Caroline có vẻ mệt mỏi vô cùng, như thể chị ta vừa mới sống lại ba năm vừa qua của cuộc đời mình. Tôi liếc trộm nhìn đồng hồ thêm một lần nữa, và mới chỉ có 11 giờ 37 phút. Tôi cần kích chị ta nói tiếp. “Thế còn Mitzi thì sao? Đã có chuyện gì với bà ấy?”
“Tương tự như những gì chuẩn bị xảy đến với em. Thứ Năm tuần trước, vài tiếng sau buổi gọi hồn của hai người, Mitzi hoảng loạn chạy đến đập cửa nhà chúng tôi. Bà ta nói bảng gọi hồn của bà ta không chịu dừng hoạt động. Bà ta khẳng định miếng gỗ của bà tay xoay chuyển liên tục thành những vòng tròn, đánh vần đi đánh vần lại một từ duy nhất: ovakodik, ovakodik, ovakodik. Mitzi đưa chúng tôi sang nhà và cho chúng tôi xem. Bà ta phát hiện ra từ đó có nghĩa là ‘cảnh giác’. Nghe này Mallory, bà ta nói rằng từ đầu tới cuối em đã đúng: Ngôi nhà của chúng tôi bị ma ám và chúng tôi cần được giúp đỡ. Ted và tôi quay về nhà rồi tranh luận xem tốt nhất nên làm gì, nhưng cuối cùng tôi đã thuyết phục được anh ấy giữ chặt Mitzi để tôi tiêm một liều thuốc quá liều cho bà ta. Sau đó, anh ấy lôi xác bà ta vào rừng và tôi rải tất cả những nắp kim tiêm quanh phòng khách của bà ta. Để lại dây garo trên bàn đầu giường. Vừa đủ để cảnh sát chắp nối các manh mối. Sau đó, chúng tôi dựng nên câu chuyện Mitzi có khách tới thăm vào lúc tối muộn, như thế câu chuyện sẽ không quá chỉn chu.”
Tôi liếc xem đồng hồ lần nữa—mới chỉ thêm một phút trôi qua—và lần này Caroline đã bắt được tôi.
“Em đang làm gì thế hả? Tại sao lại xem giờ?”
“Chẳng có lí do gì cả.”
“Em đang nói dối. Nhưng cũng không quan trọng.” Chị ta đứng dậy và đưa tay cầm sợi garo. Hai tay chị ta đã vững vàng. Chị ta đã tìm lại được sự tự tin và chắc chắn trong hành động, chị ta quấn dải garo quanh cánh tay tôi và buộc chặt. Rất nhanh, những cơ bắp của tôi giật giật.
“Xin chị đừng làm thế!”
“Tôi xin lỗi, Mallory. Ước gì mọi chuyện đã có thể đi theo hướng khác.”
Tôi cảm nhận được những ngón tay đeo găng mềm của chị ta gõ gõ lên cẳng tay, vỗ cho ven nổi rõ. Tôi nhận ra chị ta rất nghiêm túc, chị ta đã quyết tâm thực hiện. “Suốt phần đời còn lại, chị sẽ sống trong cảm giác tội lỗi đấy,” tôi nói và tôi rất sợ, sợ đến mức những lời nói ra lắp ba lắp bắp. “Chị sẽ căm ghét chính bản thân mình. Chị sẽ không thể sống thật với mình nữa đâu.”
Tôi không biết tại sao lại nghĩ có thể dọa chị ta, khiến chị ta đổi ý. Những lời cảnh báo của tôi dường như chỉ càng khiến chị ta giận dữ. Đầu kim cắm vào da tôi, xuyên qua ven, đau nhói. “Nghĩ tích cực mà xem,” chị ta nói. “Có thể em sẽ được gặp lại em gái mình.”
Và sau đó, chị ta nhấn pít-tông, tiêm vào người tôi hai nghìn microgram heroin được pha với fentanyl, đủ để giết chết một con ngựa. Toàn thân tôi cứng đờ khi tôi cảm nhận được sự man mát ban đầu hết sức thân thuộc—giống như có người đặt một viên đá lạnh lên vết tiêm. Điều cuối cùng mà tôi nhìn thấy là Caroline vội vã chạy ra khỏi cửa và tắt hết đèn. Chị ta thậm chí còn không ở lại chờ xem tôi chết đi. Tôi nhắm chặt mắt và cầu nguyện, xin Chúa hãy tha thứ cho con, làm ơn, làm ơn hãy tha thứ cho con. Tôi có cảm tưởng như mình đang ngã ngửa cùng chiếc ghế, giống như cả chiếc ghế lẫn cơ thể của tôi đã đổ sập xuống sàn nhà, và giờ thân thể tôi đã ở trong trạng thái không trọng lực, lơ lửng trong không trung. Tiêm heroin vào người theo đường tĩnh mạch cho kết quả nhanh như chớp, và tôi không biết tại sao tôi vẫn còn tỉnh táo. Tại sao tôi vẫn còn đang thở? Nhưng sau đó, tôi mở mắt và nhìn thấy Margit đang chờ trong bóng tối, và tôi nhận ra mình thực sự đã được tiêm thuốc quá liều.