CHƯƠNG 20

Tôi quay lại căn chòi được mươi phút thì điện thoại đổ chuông. Là bác Russell. Gọi cho tôi từ một nhà nghỉ nhỏ trên Lộ 66, đâu đó trên sa mạc giữa Las Vegas và hẻm núi Grand Canyon. Tín hiệu rất kém và kết nối mạng cứ chập chờn.

“Quinn! Đã có chuyện gì thế hả?”

“Cháu nghĩ cháu mất việc rồi.”

“Không, chắc chắn là cháu đã mất việc! Caroline gửi cho bác hình chụp tác phẩm nghệ thuật điên khùng của cháu. Có chuyện quái gì ở đó thế hả?”

“Có điều gì đó trong căn nhà này, bác Russell ạ. Một hồn ma đang hiện diện ở đây. Trước tiên, cô ta bám theo Teddy và giờ cô ta đang tìm đến cháu.”

“Hồn ma hiện diện là sao?” Thường ngày, bác Russell lúc nào cũng phơi phới năng lượng và sự nhiệt tình bất tận—nhưng đột nhiên nghe giọng bác có cảm giác mệt mỏi và một chút, rất nhỏ thôi, nỗi thất vọng. “Ý cháu là có ma sao?”

“Cháu không dùng thuốc đâu. Caroline đã kiểm tra rồi.”

“Bác biết.”

“Còn chuyện khác nữa. Chuyện là…”

Chúng tôi bị một tiếng nhiễu rè rè ngắt lời, và tôi chợt thấy lo lắng rằng tôi đã bị mất kết nối với bác. Nhưng sau đó, tiếng của bác đã vang trở lại.

“Cháu nên tham dự một buổi gặp mặt đi. Ở đó giờ là mấy giờ nhỉ? 6 giờ rưỡi phải không? Tối thứ Sáu à? Thử đến Holy Redeemer xem. Bác nghĩ họ bắt đầu vào lúc 7 giờ.”

“Cháu không cần đến mấy chỗ đó.”

“Cháu có thể gọi điện cho người bạn nào không? Ai đó có thể ở cùng với cháu? Bác không muốn cháu ở một mình tối nay.” Và tôi đoán từ sự im lặng của tôi đã xúi bác ngờ rằng sẽ không có ai ở đây có thể giúp tôi. “Được rồi, nghe này, bác sẽ quay về.”

“Đừng!”

“Không sao đâu. Dù sao thì bác cũng chẳng ưa ở đây. Không thể nào chịu nổi cái thời tiết này. Bác toàn phải tập chạy trong nhà, bằng máy tập, vì chỉ cần bước chân ra ngoài mười phút thôi là cái nóng sẽ làm cháu ngộp thở.”

Bác giải thích rằng sẽ cần hai đến ba ngày để có thể đến được chỗ tôi. Hiện giờ bác đang trên đường đi tới Grand Canyon, thế nên bác sẽ phải lái xe quay ngược lại Las Vegas và đặt vé chuyến bay mới. “Thế nên có thể là Chủ nhật, nhưng thứ Hai thì chắc cú. Cháu chỉ cần cố gắng chờ đến thứ Hai, được không? Doreen và bác sẽ qua đón cháu. Cháu có thể ở với bác vài tuần, chúng ta sẽ tìm bác sĩ kiểm tra cho cháu. Tính toán kế hoạch B.”

“Cảm ơn bác, bác Russell.”

Tôi thả điện thoại rơi xuống sàn và nhắm mắt lại. Tôi biết tôi nên bước xuống giường, tôi nên tham dự buổi gặp mặt hoặc ít nhất đi nữa thì bật dậy nấu bữa tối cho mình. Nhưng bên ngoài căn chòi, trời đã bắt đầu đổ mưa, một cơn dông mùa hè đột nhiên nổi lên không hề báo trước. Gió mạnh lay chuyển mái nhà, nước mưa trút xuống ào ào như thác ngoài cửa sổ. Tôi bị kẹt lại trong căn chòi và tôi ước gì có thể gọi điện cho ai đó. Tôi khiếp sợ những ngày cuối tuần dài dằng dặc đang chờ tôi phía trước, chờ đợi đằng đẵng trong nỗi cô đơn cho tới khi bác Russell tới đón tôi. Những người bạn duy nhất mà tôi có là ở Safe Harbor, nhưng tôi quá hổ thẹn chẳng dám kể cho họ nghe những gì tôi đã làm.

Tất nhiên, cũng có những người bạn khác trước khi tôi đến Safe Harbor. Tôi đã xóa tất cả tên và số điện thoại của họ khỏi danh sách liên lạc, nhưng không khó để tìm ra họ. Philadelphia chỉ cách Spring Brook có ba mươi phút đi tàu. Tôi chỉ cần tới được đại lộ Kensington, tôi biết tôi sẽ nhận ra rất nhiều gương mặt, những người bạn cũ mừng mừng tủi tủi khi gặp nhau, sẵn sàng chào đón tôi về nhà. Tôi có một nghìn hai trăm đô trong tài khoản thanh toán. Tôi có thể thu dọn đồ và rời đi. Chắc chẳng có ai ở nơi đây sẽ còn nhớ tới tôi.

Ngoại trừ Teddy.

Teddy sẽ nhớ tôi, tôi biết cậu bé sẽ nhớ tôi.

Tôi không thể bỏ nó lại mà không nói lời tạm biệt.

Tôi cần phải ở lại đây lâu thêm chút nữa để giải thích cho nó, để nó biết rằng nó không hề có lỗi gì hết.

Và thế là tôi ở lại trong căn chòi nhỏ hoàn hảo của mình, nơi tử tế nhất mà tôi từng sống, nơi được trang hoàng đẹp đẽ, nhắc nhở tôi nhớ về tất cả những điều tôi vừa đánh mất. Trời đổ mưa mãi không ngớt, và tiếng ong ong trong đầu tôi tệ hơn bao giờ hết—như thể trong đầu tôi toàn muỗi với muỗi. Tôi ốp một cái gối vào mặt và hét, nhưng không gì có thể át được tiếng ồn trong đầu.

Đêm đó, tôi ngủ mười, mười hai, mười bốn tiếng đồng hồ. Mỗi lần tỉnh giấc, tôi lại nhớ đến những chuyện đã xảy ra, và sau đó tôi lại trốn vào trong chăn cho tới khi thiếp đi.

Vào lúc 10 giờ sáng thứ Bảy, tôi đứng dậy, nhấc vẻ uể oải vào phòng tắm. Cảm giác đỡ hơn, một chút, tôi nghĩ vậy. Sau đó, tôi bước ra ngoài và nhìn thấy một viên đá dằn một tờ giấy ngay trước cửa.

Ôi, trời đất ơi, tôi nhủ thầm trong đầu, mình thực sự sẽ phát điên mất.

Nhưng đó chỉ là lời nhắn của Caroline.

Mallory thân mến,

Ted và chị sẽ đưa Teddy ra bãi biển đổi gió. Bọn chị đã nói với thằng bé chuyện em sẽ chuyển đi, và tất nhiên nó rất buồn. Hi vọng một ngày ở biển và được vui chơi sẽ giúp nó bớt nghĩ ngợi. Bọn chị sẽ về muộn, thế nên em có tự do dùng bể bơi và sân vườn.

Thêm nữa: Sáng nay, chú Russell đã gọi điện báo tin. Chú ấy đã đặt vé bay đêm chuyến tối mai, và chú ấy sẽ có mặt ở đây vào sáng thứ Hai, giấc từ 10 đến 11 giờ sáng.

Bọn chị định chiều ngày mai sẽ tổ chức một bữa tiệc, cảm ơn thời gian em đã ở cùng gia đình—chúng ta sẽ bơi, ăn tối, dùng món tráng miệng,… Bắt đầu từ khoảng 3 giờ nếu em sắp xếp được. Hãy gọi điện nếu em cần bất cứ thứ gì, hoặc chỉ đơn giản là muốn nói chuyện. Chị sẵn sàng hỗ trợ em qua giai đoạn chuyển tiếp này.

Thân mến, Caroline.

Tôi đi tới nhà chính để lấy một ít nước cam, nhưng khi tôi bấm mật khẩu khóa cửa thì không thể mở được. Tất nhiên là không mở được rồi. Ted và Caroline có thể tin tưởng cho tôi dùng sân sau nhà họ, nhưng chẳng đời nào họ lại cho phép tôi quay lại nhà của họ, không thể nào, sau khi tôi đã vẽ đầy lên tường nhà họ.

Tôi biết tôi nên xỏ giày ra ngoài chạy. Như thế, tôi sẽ cảm thấy đỡ hơn nếu tôi hít thở khí trời và chạy vài cây số. Nhưng tôi quá xấu hổ, không dám bước chân ra ngoài phạm vi khu vườn, quá xấu hổ để có thể chường mặt ra quanh khu dân cư. Tôi hình dung tin tức về sự gian dối của tôi đã được lan truyền nhanh chóng, và giờ tất cả mọi người ở Spring Brook đều đã biết bí mật động trời kia. Tôi quay về căn chòi, đổ cho mình một bát bỏng Cheerios, và sau đó chợt nhớ mình đã dùng hết sữa. Thế là tôi ăn bỏng khô, dùng tay bốc. Tôi nằm trên giường, ôm máy tính bảng và mở kênh Hallmark, lướt xem danh sách các bộ phim, nhưng đột nhiên tất cả chúng có cảm giác thật giả tạo, tồi tệ và kinh khủng—toàn những bộ phim với kết thúc hạnh phúc một cách nhảm nhí và những hứa hẹn trời ơi đất hỡi.

Tôi mới xem được mười phút một bộ gì đó có tên là Giáng sinh của một kẻ nghiện giày thì nghe thấy tiếng bước chân ngoài cửa, và tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Tôi đoán có thể là Mitzi, sang xin lỗi vì thái độ của bà trong buổi cầu hồn. Tôi hét lên “Cháu bận rồi” và ấn tăng âm lượng của máy tính bảng.

Gương mặt của Adrian xuất hiện ở cửa sổ.

“Chúng ta cần nói chuyện.”

Tôi nhảy khỏi giường và mở cửa. “Phải, chúng ta thực sự cần nói chuyện, vì..”

“Không phải ở đây,” anh chàng nói. “Xe của anh đỗ ngoài kia. Lên xe đi loanh quanh chút đi.”

Anh chàng không nói chúng tôi sẽ đi đâu, nhưng ngay khi xe đi vào lối dẫn lên lộ 295 là tôi đã nhận ra. Chúng tôi nhập vào dòng xe cộ lao như điên, nối với cao tốc 76 mạn Tây, và băng qua cầu Walt Whitman, lướt qua đầu xưởng đóng tàu và khu bến cảng trên sông Delaware. Chúng tôi đang đi tới Nam Philadelphia. Adrian đang đưa tôi về nhà.

“Anh không phải làm vậy đâu. Quay xe lại đi.”

“Chúng ta sắp tới nơi rồi,” anh chàng nói. “Năm phút nữa thôi.”

Lúc này còn quá sớm, chưa đến giờ thi đấu bóng và người dân ở đây hẳn đã đi chơi hết bởi vì đường cao tốc thông thoáng, không bị ùn tắc. Adrian rẽ khỏi đường cao tốc, nhập vào Đại lộ Oregon. Anh chàng liên tục liếc nhìn bản đồ GPS, nhưng đi đến đoạn này tôi có thể nhắm mắt chỉ đường. Tôi vẫn nhớ từng con đường, từng cái biển báo dừng và mọi cột đèn giao thông. Tất cả hàng quán trước đây giờ vẫn không đổi: những cửa hàng bán đồ ăn nhanh, những tiệm bán bánh sandwich bít tết phô mai, và những siêu thị chủ yếu phục vụ cho dân gốc Á, những cửa hiệu bán lẻ điện thoại, và cả quán bar thể thao/câu lạc bộ thoát y vốn từng thu nhận hai đứa bạn của tôi ngay sau khi học xong phổ thông. Không ai có thể nhầm chốn cũ của tôi với Spring Brook được. Những con đường mấp mô ổ gà; vỉa hè vung vãi thủy tinh vỡ và xương gà. Nhưng nhiều căn nhà liền kề đã được ốp bên ngoài một lớp ván nhôm mới và nhìn bắt mắt hơn so với trong trí nhớ của tôi, giống như thiên hạ đang cố gắng để mọi thứ trông khang trang hơn.

Adrian dừng lại ở góc giao giữa phố Eight và phố Shunk. Tôi đoán anh chàng đã tra địa chỉ của tôi trên mạng bởi vì chúng tôi đang dừng xe ngay trước căn nhà liền kề thâm thấp mà tôi từng gọi là nhà. Tường gạch bên ngoài đã được trát lại, cửa chớp đã được quét một lớp sơn mới, và có một thảm cỏ xanh tươi mọc trên cái sân đầy sỏi trắng ngày xưa. Bên cạnh cửa chính có một người đàn ông đang đứng trên chiếc thang; ông ta đeo găng tay bảo hộ và đang dọn lá khô khỏi máng nước mưa.

Adrian kéo phanh tay và bật chế độ đèn nháy khẩn cấp. Từ hồi trung học tới giờ, tôi chưa từng gặp lại bất cứ một người hàng xóm nào, tôi mang cảm giác nơm nớp lo sợ ai đó sẽ nhìn thấy. Vì nhà cửa đều san sát nhau, nên thật dễ mọi người mở cửa và ùa ra ngoài, há hốc mồm nhìn tôi.

“Làm ơn hãy cho xe đi đi!”

“Đây là nơi em đã lớn lên à?”

“Anh biết rồi còn hỏi.”

“Người đàn ông trên thang kia là ai?”

“Em không biết, cho xe đi đi, được không?”

Người đàn ông trên thang quay người quan sát chúng tôi. Ông ta tầm trung niên, đầu hói, không quá cao và mặc áo thi đấu của đội bóng Eagles. “Hai người cần gì à?”

Tôi chưa từng gặp ông ta. Có thể mẹ tôi đã thuê một người giúp việc. Nhưng khả năng cao hơn là bà đã bán căn nhà và chuyển đi nơi khác, có lẽ người đàn ông này là chủ mới. Tôi vẫy tay tỏ ý xin lỗi và quay sang Adrian. “Nếu anh không rời đi ngay bây giờ, tôi sẽ bước xuống khỏi chiếc xe này và đi bộ về Spring Brook.”

Anh chàng cho xe chạy và chúng tôi vượt qua đèn xanh. Tôi chỉ đường cho anh tới công viên FDR, nơi đẹp nhất ở Nam Philly để cắm trại, tổ chức sinh nhật và chụp ảnh cưới. Lớn lên ở đây, tất cả chúng tôi đều gọi công viên này là “cụm Hồ” vì ở đây điểm xuyết nhiều ao và phá nước. Chỗ lớn nhất là hồ Meadow. Chúng tôi tìm được một băng ghế nhìn thẳng ra hồ. Xa xa phía đường chân trời, bên dưới bầu trời u xám, chúng tôi nhìn thấy những đoạn đường trên cao của cao tốc 95, sáu làn đường với dòng xe cộ lao vút như bay, tất cả đến và đi về hướng sân bay. Và chúng tôi ngồi im lặng suốt một lúc lâu, bởi chẳng đứa nào biết bắt đầu từ đâu.

“Em không nói dối chuyện được học bổng” tôi nói với anh. “Hồi lớp mười, em đã chạy 5.000 mét trong mười lăm phút, hai mươi ba giây. Em đứng thứ 6 ở Pennsylvania. Anh có thể tra Google.”

“Anh đã tra rồi, Mallory ạ. Ngày đầu tiên chúng ta gặp mặt, anh đã chạy về nhà và tra thông tin của tất cả Mallory Quinn ở Philadelphia. Anh tìm được tất cả các dữ liệu thời trung học của em. Vừa đủ để câu chuyện của em trở nên đáng tin.” Sau đó, anh chàng bật cười. “Nhưng chẳng tìm được gì trên Twitter, không có gì trên mạng xã hội. Anh đã nghĩ thật thú vị—cái cảm giác thần bí ở em ấy. Các cô gái ở trường Rutgers, họ dùng Instagram 24/7, đăng những bức hình xinh lung linh, chờ được khen ngợi. Nhưng em thì khác. Anh đã nghĩ em rất tự tin. Anh chưa bao giờ tưởng tượng ra là em đang có chuyện phải giấu giếm.”

“Em đã thành thật phần lớn.”

Phần lớn? Ý em là sao?”

“Em chỉ nói dối về quá khứ của mình. Chỉ thế thôi. Em không nói dối về những bức tranh từ Anya. Và chắc chắn không nói dối về cảm giác mà em nghĩ về anh. Em đã định nói cho anh nghe sự thật vào tối qua, sau bữa tối, em thề đấy.”

Anh chàng không nói gì cả, chỉ đưa mắt chăm chăm nhìn về phía hồ nước. Mấy đứa trẻ ở gần đó đang chơi đùa với chiếc máy bay mô hình không người lái; trông nó giống như một chiếc đĩa bay thu nhỏ với tám cánh quạt xoay vùn vụt, và mỗi lần nó bay ngang qua, nghe giống như có một đàn ong vo ve. Tôi nhận ra Adrian đang chờ tôi tiếp tục, tuồng như anh chàng đang cho tôi cơ hội để thú nhận. Tôi hít một hơi thật sâu.

“Được rồi, là thế này…”