CHƯƠNG 4

Bố mẹ của Teddy vô cùng nghiêm khắc với quy tắc “Không sử dụng thiết bị vô tuyến, điện tử”, thế nên cậu chưa bao giờ được xem Chiến tranh giữa các vì sao hoặc Câu chuyện đồ chơi hay bất cứ bộ phim yêu thích nào của trẻ con. Thậm chí cu cậu còn không được phép xem Phố Vừng. Tuy nhiên mỗi tuần một lần, nhà Maxwell sẽ quây quần trong phòng nghỉ để tổ chức Đêm xem phim của gia đình. Caroline sẽ làm bắp rang bơ, còn Ted sẽ chiếu phim có “giá trị nghệ thuật chính thống”, có nghĩa rằng đấy là những bộ phim kinh điển hoặc có phụ đề thuyết minh tiếng nước ngoài, tôi cam đoan bộ phim duy nhất hẳn bạn từng nghe nói đến chính là Phù thủy xứ Oz. Teddy thích câu chuyện và chắc mẩm rằng đây là bộ phim yêu thích nhất mọi thời đại của cậu.

Mỗi khi ở ngoài bể bơi, chúng tôi sẽ thường chơi một trò chơi đóng kịch được gọi là Xứ Oz. Chúng tôi sẽ trèo lên bè phao và Teddy sẽ đóng vai Dorothy, còn tôi sẽ đóng vai mấy nhân vật khác trong phim, gồm chú chó Toto, bù nhìn Scarecrow, mụ phù thủy thâm độc, và tộc người lùn Munchkins. Không nói khoác đâu chứ tôi diễn hết mình, từ hát đến nhảy nhót đến vỗ đôi cánh của con khỉ bay và diễn như trong đêm khai màn ở sân khấu Broadway. Hai chị em mất gần cả tiếng đồng hồ diễn xuất mới gần kết thúc câu chuyện khi cái phao bắt đầu biến thành khinh khí cầu đưa Teddy-Dorothy quay trở lại Kansas. Đến lúc hạ màn và cúi đầu chào khán giả là hai hàm răng của tôi đã va lập cập vào nhau vì lạnh. Tôi phải ra khỏi bể bơi.

“Không được!” Teddy gào lên.

“Xin lỗi, Gấu yêu, chị sắp chết cóng rồi.”

Tôi trải chiếc khăn tắm lên thành bể bơi, sau đó nằm hong cơ thể dưới ánh mặt trời. Mức nhiệt đã chạm ngưỡng ba mươi độ, mặt trời tỏa nắng chói chang và chóng xua tan cơn lạnh của tôi. Teddy vẫn mải mê té nước gần đó. Trò chơi mới của cậu là ngậm nước đầy miệng rồi phun ra giống như thiên thần nhỏ có cánh đứng ở đài phun nước.

“Em không nên làm thế,” tôi khuyên cậu bé. “Trong nước có Clo đó.”

“Cái đó làm em ốm à?”

“Nếu mà em nuốt đủ nhiều thì em sẽ ốm.”

“Thế là em sẽ xong đời sao?”

Đột nhiên cậu tỏ ra rất lo lắng. Tôi lắc đầu.

“Nếu em uống cả cái bể bơi này thì đúng là em chắc chắn sẽ chết. Nhưng đừng có uống dù chỉ một ngụm nhỏ, hiểu chứ?”

Teddy trèo lên phao và đạp chân bơi đến gần thành bể, cả hai chị em nằm song song với nhau, Teddy nằm trên phao còn tôi nằm trên sàn bể bơi.

“Chị Mallory ơi?”

“Gì cơ?”

“Chuyện gì xảy ra khi người ta chết?”

Tôi quay đầu sang bên. Cậu bé đang nhìn xuống làn nước.

“Em muốn hỏi điều gì?”

“Ý em là, chuyện gì sẽ xảy ra với người nằm trong cơ thể ấy?”

Tất nhiên tôi có niềm tin mãnh liệt về vấn đề này. Tôi tin vào món quà cuộc đời bất tử mà Chúa ban cho. Tôi đã được tiếp thêm nhiều sức mạnh khi biết rằng em gái nhỏ của tôi, Beth ấy, được những thiên thần vây quanh. Tôi cũng biết rằng, một ngày nào đó, nếu tôi may mắn, chị em tôi sẽ được đoàn tụ trên Thiên đường. Nhưng tôi không chia sẻ bất cứ quan điểm nào với Teddy. Tôi vẫn nhớ trong buổi phỏng vấn ấy có quy tắc số mười: Không thực hành tôn giáo hoặc mê tín dị đoan. Chỉ dạy khoa học.

“Chị nghĩ em nên hỏi bố mẹ mình.”

“Sao chị không nói với em?”

“Chị không biết chắc.”

“Liệu có khả năng nào khi người ta chết rồi mà vẫn sống không?”

“Giống hồn ma á?”

“Không, không đáng sợ thế!” Cậu bé cố tìm cách thể hiện ý nghĩ của mình—tôi nghĩ tất cả chúng ta đều rơi vào thế bí như vậy mỗi khi thảo luận những nan đề quá sức. “Liệu có phần nào của người ấy còn sống không?

“Một câu hỏi sâu rộng và phức tạp quá, Teddy à. Chị thực sự nghĩ em nên hỏi bố mẹ.”

Cậu bé có vẻ nản chí trước câu trả lời qua loa của tôi nên cậu đã nảy ra ý khác. “Vậy thì mình có thể diễn lại trò Xứ Oz lần nữa không chị?”

“Chúng ta vừa diễn xong mà!”

“Chỉ cảnh phân rã ra thôi,” cậu nói. “Chỉ cảnh kết màn thôi mà!”

“Được thôi. Nhưng chị không xuống nước nữa đâu đấy.”

Tôi đứng dậy và choàng chiếc khăn tắm lên vai, giữ nó lại như áo khoác của mụ phù thủy. Tôi co ngón tay lại như móng vuốt và cười man dại. “Ta sẽ bắt ngươi, con bé xinh đẹp, và cả con chó nhỏ kia nữa!” Teddy hắt nước lên người tôi rồi gào rú đủ để dọa chết lũ chim đậu trên cây. “Ôi, con chuột đáng nguyền rủa kia! Trời ơi, nhìn mi đã làm gì thế này!” Với năng khiếu diễn kịch xuất sắc, tôi ngã sụp xuống sân, hai cánh tay giơ lên quờ quạng và quằn quại trong cơn hấp hối. “Ta đang phân rã ra! Ta đang phân rã ra rồi! Ôi trời đất hỡi, trời đất ơi!” Teddy cười khanh khách và vỗ tay nhiệt liệt khi tôi ngã sõng soài ra sau, mắt nhắm tịt, lưỡi thè ra ngoài. Chân tôi còn giật giật vài lần cuối cùng rồi mới nằm bất động.

“Thưa cô?”

Tôi mở mắt ra.

Một anh thanh niên đứng cách đó không quá mét rưỡi phía kia hàng rào bể bơi. Trông vẻ gầy nhưng rắn rỏi, anh chàng mặc chiếc quần kha-ki nhuốm màu cỏ, áo phông của trường Rutgers và đeo găng tay lao động. “Tôi là nhân viên của Lawn King—Dịch vụ chăm sóc vườn cây và cảnh quan.”

“Hola, Adrian!” Teddy gào lên.

Adrian nháy mắt với cậu bé. “Chào, Teddy. Em khỏe không?

Tôi cố kéo chiếc khăn tắm để che người nhưng trớ trêu lại đang nằm đè lên nó, nên đành phải vùng vẫy bật dậy như con ong nằm ngửa cố dựng tấm thân lên.

“Tôi sẽ dùng máy cắt lớn di chuyển xung quanh. Tôi chỉ muốn báo trước cho hai cô cháu. Tiếng máy kêu khá ầm ĩ đấy.”

“Được được,” tôi đáp.“Hai chị em tôi có thể vào trong nhà.”

“Không, hai chị em mình phải xem chứ!” Teddy nói.

Adrian đi lấy chiếc máy cắt còn tôi nhìn Teddy. “Tại sao chị em mình phải xem?”

“Bởi vì em thích cái máy cắt khổng lồ ấy! Trông mới tuyệt làm sao!”

Tôi nghe tiếng máy cắt trước khi thấy bóng dáng nó, tiếng động cơ chạy dầu xoẹt xoẹt xé toạc bầu không khí tĩnh lặng phía sân sau. Adrian ngồi chễm chệ trên chiếc máy nửa giống máy kéo nửa giống xe đua, lái nó đến bên hông nhà. Rồi anh chàng đứng dậy tì người lên bánh lái hệt như đang đua xe địa hình bốn bánh, để lại phía sau những vệt cỏ mới cắt. Teddy trèo ra khỏi bể bơi và chạy đến gần phía hàng rào để nhìn rõ hơn. Gã thợ làm vườn vẫn đang phô trương kĩ năng, bẻ lái nhanh, lái ngược, thậm chí còn kéo mũ che mắt, nhắm mắt lái máy. Đó không phải là tấm gương tốt để dạy dỗ trẻ nhỏ, nhưng Teddy nhìn không chớp mắt, miệng há hốc kinh ngạc như đang xem biểu diễn xiếc ở rạp Cirque du Soleil. Vòng cuối cùng, Adrian bứt tốc đi ngược chiều, kéo mạnh cần số sang chế độ lái, rồi lao rầm rầm đến phía chúng tôi, đầu xe bỗng chốc ngóc lên khỏi mặt đất, lơ lửng giữa không trung khoảng ba giây kinh hoàng, để lộ ra hàng lưỡi dao cắt sắc lẹm quay điên cuồng phía dưới. Thân máy rơi xuống rung chuyển mặt đất, cách vài phân trước hàng rào bể bơi.

Adrian nhảy phắt sang bên và đưa chìa khóa cho Teddy. “Em có muốn đưa chị ấy đi một vòng không?”

“Thật ạ?” Teddy hỏi.

“Không được!” Tôi nói với cả hai. “Chắc chắn không có chuyện đó đâu.”

“Để khi nào sáu tuổi nhé,” Adrian nói, lại nháy mắt với cậu bé. “Em có định giới thiệu người bạn mới này với anh không?”

Teddy nhún vai. “Đây là cô trông trẻ của em.”

“Mallory Quinn.”

“Rất vui được làm quen với cô, cô Mallory.”

Anh chàng rút găng tay rồi chìa tay ra, một cử chỉ lịch thiệp oái ăm—trong cảnh huống tôi đang mặc đồ bơi một mảnh còn chàng trai thì nhầy nhụa bùn đất và cỏ vụn trên người. Ấn tượng đầu tiên của tôi về anh ta là không thể nhìn mặt mà bắt hình dong. Lòng bàn tay gã thô ráp như da thuộc.

Đột nhiên Teddy chợt nhớ ra điều gì đó và bắt đầu lóng ngóng mở cánh cổng bể bơi dùng để ngăn trẻ con.

“Em chạy đi đâu thế?”

“Em đã vẽ cho anh Adrian một bức tranh,” cậu đáp. “Ở trong nhà. Trong phòng ngủ của em.”

Tôi nhấc then cài cổng lên để Teddy chạy ra, chân cậu thoăn thoắt như chú ngựa trên bãi cỏ. “Chân em vẫn còn ướt đấy!” Tôi gọi với theo đứa trẻ. “Chú ý bậc cầu thang!”

“Vâng!” Cậu nói lớn.

Andrian và tôi gượng gạo nói chuyện với nhau cho đến khi Teddy quay lại. Phỏng đoán được tuổi của anh chàng không dễ dàng gì. Cơ thể đã ra vẻ người trưởng thành—vóc dáng cao lớn, săn chắc, da rám nắng, cơ bắp cuồn cuộn—song gương mặt vẫn tỏa ra chút non nớt và hơi ngượng ngập. Tuổi anh ta có thể dao động từ mười bảy cho đến hai mươi lăm.

“Tôi rất mến thằng nhóc,” Adrian mở lời. “Nhóc đã học được vài từ Tây Ban Nha ở Barcelona nên tôi đã dạy thêm mấy từ mới. Thế cậu trông coi nó toàn thời gian à?”

“Chỉ mùa hè thôi. Em ấy sẽ bắt đầu đến trường vào tháng Chín tới.”

“Thế còn cậu thì sao? Cậu sẽ đi đâu?”

Tôi chợt nhận ra anh chàng nhầm tưởng tôi là sinh viên. Chắc anh chàng nghĩ tôi là hàng xóm, rằng tôi sống ở Spring Brook, nơi tất cả các cô gái đều trải qua bốn năm đại học. Tôi định giải thích cho anh ta hiểu nhưng tôi không biết lựa lời thế nào để thổ lộ cái ý “Tôi không đi đâu cả” giống như một kẻ lầm lạc vậy. Tôi biết mình có thể chia sẻ quãng đời kinh khủng trước đây, nhưng vì chỉ là một cuộc nói chuyện phiếm nên tôi cứ xuôi theo phỏng đoán của người đối diện. Tôi giả vờ rằng tôi vẫn chưa dính chàm và mọi thứ đã diễn ra theo kế hoạch.

“Đại học tiểu bang Pennsylvania. Tôi là thành viên của đội chạy băng đồng dành cho nữ.”

“Không đùa chứ! Cậu là vận động viên khối Big Ten sao?”

“Về lý thuyết thì đúng là thế. Song, đội bóng bầu dục mới là nhóm nhận hết vinh quang. Cậu sẽ không bao giờ xem được chúng tôi chạy trên kênh ESPN đâu.”

Tôi biết nói dối là sai. Phần lớn trong quá trình hồi phục—chắc chắn là phần quan trọng nhất—là chủ động trước những chuyện đã xảy ra và hiểu rõ mọi sai lầm của bản thân. Tuy nhiên, tôi phải thừa nhận rằng thật vui khi được ôm mộng tưởng, được giả vờ rằng tôi vẫn là một thiếu nữ bình thường với những giấc mơ thanh xuân bình thường.

Adrian búng ngón tay, như thể anh chàng vừa chợt tìm ra được điểm liên kết. “Có phải cậu hay tập chạy buổi tối không? Xung quanh khu này ấy?”

“Đúng rồi.”

“Mình đã nhìn thấy cậu luyện tập! Mà cậu chạy nhanh khiếp!”

Tôi tự hỏi tại sao một gã làm vườn lại có thể xuất hiện trong khu vực này sau khi trời tối nhưng không còn cơ hội vì Teddy đã chạy ngược lại từ phía sân, tay nắm chặt một tờ giấy. “Đây này,” cậu bé vừa nói vừa thở dốc. “Cho anh này.”

“Ôi, anh bạn, quá đỉnh luôn!” Adrian nói. “Nhìn cặp kính râm này xem! Anh trông khá là ngầu phải không?” Anh ta giơ bức tranh ra cho tôi xem, tôi bật cười. Trông anh chàng cứ như người hình que trong trò treo cổ.

“Rất bảnh,” tôi đồng tình.

“Muy guapo,” Adrian nói với Teddy. “Đây là từ mới trong tuần. Nghĩa là siêu bảnh.”

“Muy guapo?”

Bueno! Hoàn hảo!”

Ở bên kia sân, có một gã đã đứng tuổi đang men theo bên hông nhà Maxwell. Ông ấy thấp người, da nâu nhăn nheo và tóc cắt ngắn sát da đầu. Ông ấy gào gọi Adrian và rõ ràng thái độ kia chẳng vui vẻ gì mấy. “Mày đang làm cái quái gì thế?

Adrian vẫy tay với gã rồi nhìn về phía chúng tôi với vẻ mặt niềm nở. “El Jefe đấy. Anh phải đi rồi. Nhưng hai tuần nữa anh sẽ quay lại nhé, Teddy. Cảm ơn em vì bức tranh. Và chúc cậu tập luyện thật tốt nhé, Mallory. Mình sẽ thử xem cậu có trên kênh ESPN không nhé?”

Nhanh lên!” gã kia lại hét lên. “Đến đây!

“Dạ, dạ!” Adrian đáp lại. Anh chàng nhảy lên máy cắt CỎ, khởi động máy và phi qua sân trong chớp mắt. Tôi có thể nghe được tiếng Adrian xin lỗi bằng tiếng Tây Ban Nha nhưng người đàn ông lớn tuổi kia cứ chì chiết anh chàng mãi, hai người cứ lời qua tiếng lại cho đến khi cùng biến mất phía bên hông nhà. Tôi từng học tiếng Tây Ban Nha một cách qua loa trường trung học—tôi vẫn nhớ el jefe nghĩa là “ông chủ”—nhưng họ nói chuyện với nhau quá nhanh để tôi có thể bắt kịp nội dung.

Teddy có vẻ bồn chồn. “Liệu anh Adrian có gặp rắc rối không ta?”

“Chị hi vọng là không.” Sau đó, tôi nhìn quanh sân sau và không khỏi thán ngạc—nhờ có kỹ năng cắt cỏ tốc độ cao của Adrian—thảm cỏ bây giờ trông mới đẹp làm sao.

Gia đình Maxwell có lắp vòi hoa sen nhỏ ở ngoài trời, nằm phía sau ngôi nhà để họ có thể xả sạch người sau mỗi lần bơi. Đó là một cái buồng nhỏ bằng gỗ có kích cỡ như bốt điện thoại trước đây, Caroline có để vào đó mấy loại dầu gội và sữa tắm xịn sò một cách lãng phí. Teddy vào tráng người trước, còn tôi đứng ngoài cửa nhắc nhở cậu phải xả sạch tóc và lột đồ bơi ra. Xong, cậu bước ra ngoài với cái khăn tắm quấn xung quanh người. “Em là cái bánh burrito rau củ nè!”

“Dễ ghét quá” tôi bảo. “Đi mặc đồ vào rồi chị sẽ lên lầu gặp em nhé!”

Tôi đang treo khăn tắm và chuẩn bị sẵn sàng bước vào buồng xả nước thì bỗng nghe thấy tiếng phụ nữ gọi tên tôi. “Mallory phải không? Bảo mẫu mới à?”

Tôi quay ra và nhìn thấy bà hàng xóm sát vách nhà Maxwell đang vội vã bước qua bãi cỏ—đó là một phụ nữ có tuổi, dáng thấp, hông to và bước đi loạng choạng. Caroline đã cảnh báo tôi rằng bà ta thuộc loại dở dở ương ương và năm thì mười họa mới ra khỏi nhà. Ấy thế mà bà lại có mặt ở đây ngay lúc này, lại còn mặc váy muumuu truyền thống rộng thùng thình dài chạm chân của người Hawaii và đeo đầy trang sức, nào là các loại dây chuyền vàng đính đá thạch anh, nào là khuyên tai vòng to, nào là vòng tay va vào nhau kêu leng keng và các loại nhẫn đá phong thủy tra đầy ngón tay ngón chân. “Ta là Mitzi, cưng à, ta sống bên cạnh đó. Vì cô cũng là người mới ở khu vực này, ta muốn cho cô một lời khuyên nhỏ thiện chí: Khi những kẻ làm vườn lân la ở đây, cô không nên ngồi chềnh ềnh cạnh bể bơi. Với bộ dạng lồ lộ thế kia.” Bà ta đưa tay chỉ từ trên xuống dưới cả cơ thể tôi. “Thiên hạ hay gọi như thế là khiêu khích đấy!”

Bà ta bước gần hơn, một mùi khen khét hôi hôi xộc thẳng vào mũi tôi. Hoặc bà ta cần đi tắm hoặc bà ta đang rất “phê”, hoặc là cả hai. “Sao cơ ạ?”

“Cô có một cơ thể rất đẹp và ta hiểu cô muốn khoe nó ra. Đây là đất nước tự do, ta là người theo chủ nghĩa tự do, ta sẽ nói cô cứ làm điều gì khiến cô cảm thấy hạnh phúc. Nhưng khi có mấy tay Mễ lảng vảng ở đây, cô cần bớt bớt làm theo ý mình đi. Một chút tem tém lại. Vì là an toàn cho bản thân. Cô có đang nghe không đấy?” Tôi định đáp lời nhưng bà lại tiếp tục, “Nghe có vẻ phân biệt chủng tộc nhưng sự thật là vậy đó. Mấy tên kia—chúng đã từng phạm luật một lần rồi, là khi chúng vượt biên ấy. Nếu một kẻ phạm tội nhìn thấy một cô gái đẹp ngồi một mình ở sân sau thì điều gì cản được hắn đây?”

“Bác nói nghiêm túc đấy ạ?”

Bà ta túm lấy cổ tay tôi để nhấn mạnh thêm quan điểm của mình, bàn tay bà run rẩy. “Ôi, Công chúa ơi, ta nói cực kì nghiêm túc. Cháu phải che chắn cho kín vào.”

Từ phía trên, Teddy gọi với qua tấm màn ở cửa sổ phòng ngủ để mở, “Chị Mallory, mình ăn kem que có được không?”

“Chờ chị tắm xong đã,” tôi trả lời. “Chờ chị năm phút.”

Mitzi vẫy chào Teddy, cậu lẩn ngay khỏi tầm nhìn. “Cậu nhóc là một đứa trẻ đáng yêu. Một nhóc tì kháu khỉnh. Nhưng ta chẳng ưa bố mẹ thằng nhóc. Hơi xấc xược, theo ý kiến của ta. Cháu có cảm thấy thế không?”

“Có lẽ là…”

“Cái ngày gia đình này vừa chuyển đến, ta đã làm một khay bánh lasagna. Là lòng hiếu khách của hàng xóm, hiểu chứ? Ta mang đến trước cửa nhà họ, cháu có biết cô vợ nói gì với ta không? Ả nói ‘Tôi xin lỗi nhưng chúng tôi không thể nhận món quà này của bà.’ Bởi vì trong đó có thịt đỏ bằm!”

“Có thể.”

“Ta rất tiếc, cưng à, nhưng đó không phải cách người ta xử lý tình huống này. Chỉ cần mỉm cười, nói cảm ơn, nhận nó mang vào trong và vứt quách nó đi. Chứ đừng có bổ luôn vào mặt ta như thế chứ. Thật thô lỗ. Thằng chồng còn cộc hơn! Chắc nó khiến cháu phát cáu không ít?”

“Thực ra thì…”

“Chậc, cháu vẫn còn nhỏ. Cháu vẫn chưa thể nhìn thấu con người. Ta là một người ấm áp, biết cảm thông, ta đọc khí sắc con người biết vận tốt xấu, kiếm sống ấy mà. Cháu sẽ thấy khách hàng gõ cửa nhà ta suốt cả ngày nhưng đừng lo, chẳng có gì đen tối ở đây cả. Ta đã mất sạch hứng thú sau ca phẫu thuật cắt bỏ tử cung.” Bà ta nháy mắt với tôi. “Nhưng cháu có thích căn chòi dành cho khách không? Cháu có từng thấy lo lắng chưa? Về việc phải ngủ ngoài đó một mình ấy?”

“Sao cháu lại thấy lo lắng chứ?”

“Bởi vì có một chuyện?”

“Chuyện gì vậy ạ?”

Lần đầu tiên trong suốt cuộc trò chuyện, Mitzi thấy khó nhọc chọn lựa từ ngữ. Bà ta đưa tay lấy một lọn tóc, xoắn nó xung quanh ngón tay cho đến khi chỉ lọn tóc xoắn chặt lại. Sau đó bà ta kéo mạnh lọn tóc và ném nó qua vai. “Cháu nên hỏi vợ chồng chủ nhà.”

“Họ vừa chuyển đến đây mà. Họ có biết gì đâu. Bác nói rõ hơn được không ạ?”

“Khi còn bé, bọn ta gọi căn nhà tranh cháu đang ở là Nhà Ma. Bọn ta thách nhau nhìn lén qua cửa cổ. Anh trai ta bảo sẽ cho ta mấy đô-la nếu dám đứng ở hiên nhà và đếm đến một trăm, nhưng ta lúc nào chả nhát như cáy.”

“Sao thế?”

“Một phụ nữ đã bị giết. Annie Barrett. Cô ấy là nghệ sĩ, là họa sĩ và đã từng dùng căn nhà ấy làm phòng vẽ tranh.”

“Cô ấy bị giết trong căn nhà đó ư?”

“Thật ra thì họ chưa bao giờ thực sự tìm được xác cô ấy. Chuyện xảy ra lâu lắm rồi, ngay sau hồi Thế chiến thứ hai.”

Teddy lại ló mặt ở cửa sổ tầng hai. “Đã hết năm phút chưa chị?”

“Sắp rồi,” tôi nói với cậu.

Khi tôi quay lại nhìn Mitzi, bà ta đã quay lưng băng qua sân. “Đừng để thiên thần nhỏ phải chờ nữa. Ăn kem đi.”

“Chờ đã, phần còn lại của câu chuyện thì sao ạ?”

“Chẳng có phần còn lại nào của câu chuyện cả. Sau khi Annie chết—hoặc mất tích, ai mà biết được—gia đình cô ấy đã biến căn chòi đó thành chỗ cất dụng cụ làm vườn. Không cho bất cứ ai ở ngoài đó. Nó đã như thế kể từ lúc ấy, khoảng bảy mươi năm gì đó. Cho đến bây giờ.”

Caroline về đến nhà trên chiếc xe minivan chất đầy hàng hóa; tôi giúp chị dỡ hết đồ xuống xe. Teddy vẫn đang vẽ tranh trong phòng ngủ ở tầng hai, nên tôi đã nhân lúc này hỏi chuyện bà Mitzi vừa kể.

“Chị đã nói với em là bà ta điên điên khùng khùng mà,” Caroline nói. “Bà ta nghĩ người đưa thư đã mở hóa đơn thẻ Visa của bà để đọc điểm tín dụng. Bà ta bị hoang tưởng.”

“Bà ấy nói có một phụ nữ bị giết.”

“Những tám mươi năm trước. Khu dân cư này đã có từ rất lâu đời rồi, Mallory! Ngôi nhà nào mà chẳng có chuyện ma rùng rợn đi cùng.” Caroline mở tủ lạnh và xếp đầy cải bó xôi, cải xoăn, mấy bọc củ cải vẫn còn dính đất ở rễ vào trong ngăn mát. “Mà những người chủ trước đã sống ở đây đến bốn mươi năm rồi, rõ ràng họ không gặp vấn đề gì hết.”

“Phải, phải rồi.” Tôi thò tay vào trong túi thực phẩm bằng vải canvas và lôi ra một lốc sáu hộp nước dừa. “Ngoại trừ việc họ sử dụng căn chòi làm nơi cất giữ đồ đạc, đúng không? Không ai ngủ ở đó cả.”

Caroline trông có vẻ bực bội. Tôi cảm thấy chị đã trải qua một ngày làm việc tất tả ở bệnh viện, rằng chị không thích bị nhận một tràng câu hỏi khi vừa đặt chân đến nhà. “Mallory, người phụ nữ đó chắc chắn đã sử dụng nhiều chất kích thích hơn hết thảy các bệnh nhân của chị cộng lại. Chị không biết sao bà ấy vẫn còn sống, nhưng trí óc của bà ấy chắc chắn không bình thường. Bà ấy chuyên gây rối, ưa giậm giật, lại còn mắc chứng hoang tưởng nữa. Là một người quan tâm đến tình trạng của em, chị đề nghị em hạn chế tiếp xúc với bà ta, được chứ?”

“Vâng, em biết rồi,” tôi trấn an chị, lòng cảm thấy tồi tệ bởi Caroline như sắp sửa nặng lời. Tôi không nói gì nữa sau đó, tôi chỉ mở tủ bếp và xếp đâu vào đó mấy hộp gạo Ý vùng Arbirio, hạt Couscous và bánh quy giòn nguyên cám. Tôi cất hết túi này đến túi khác, nào là yến mạch cán dẹt, hạnh nhân sống, chà là Thổ Nhĩ Kỳ và các loại nấm nhăn nheo lạ mắt. Sau khi mọi thứ được dỡ ra và xếp gọn, tôi xin phép chị Caroline được ra ngoài trước. Chắc hẳn chị đã cảm nhận được vẻ bất an của tôi nên đã đến bên cạnh và đặt tay lên vai tôi.

“Nghe này, vợ chồng chị vẫn còn một phòng ngủ hết sảy dành cho khách ở trên tầng hai. Nếu em muốn chuyển vào đây, vợ chồng chị rất vui. Teddy cũng sẽ nhảy cẫng vì sung sướng. Em thấy sao?”

Chẳng hiểu từ lúc nào mà chị đã vòng cánh tay qua người tôi, biến nó thành một cái ôm. “Em ở căn chòi vẫn ổn,” tôi nói. “Em thích có không gian riêng. Một trải nghiệm tốt cho thế giới thực.”

“Nếu em đổi ý, cứ nói nhé. Em luôn luôn được chào đón trong căn nhà này.”

Tối hôm đó, tôi chọn đôi giày chạy tốt và ra ngoài tập chạy. Tôi chờ trời chuyển tối nhưng thời tiết vẫn còn nồm ẩm. Cảm giác thật thích thú khi thúc ép bản thân, chạy vượt qua nghịch cảnh. Bác Russell luôn có một câu châm ngôn mà tôi rất thích—chúng ta không biết cơ thể mình có thể chịu đựng được nhiều đến thế nào cho đến khi chính ta tự đưa ra yêu cầu khắc nghiệt cho chúng. Đêm đó, tôi đã đặt ra thử thách cho bản thân rất nhiều. Tôi đã luyện chạy nước rút, kết hợp vừa chạy chậm vừa chạy nhanh liên tục khắp vỉa hè của khu vực này, chạy dưới bóng của những cột đèn đường, chạy xuyên qua những đàn đom đóm lập lòe, qua tiếng o o của hệ thống điều hòa không khí trung tâm. Tôi hoàn thành hơn tám cây số trong vòng ba mươi phút và đi bộ về nhà, người mệt lử.

Tôi lại tắm—lần này ở trong phòng tắm nhỏ chật chội của căn chòi—sau đó tự làm lấy một bữa ăn đơn giản: một chiếc pizza đông lạnh được nướng trong lò điện và nửa cốc kem Ben & Jerry dùng tráng miệng. Tôi cảm thấy tưởng thưởng xứng đáng.

Lúc xong xuôi hết mọi thứ thì đồng hồ cũng điểm chín giờ tối. Tôi tắt hết đèn, chỉ để lại một chiếc ở tủ đầu giường. Tôi leo lên chiếc giường ngủ lớn có ga gối điệp một màu trắng với điện thoại, bật một bộ phim trên Hallmark có tên là Chuyện tình mùa đông. Thế nhưng tôi thấy không sao tập trung được. Tôi không biết liệu rằng do tôi đã xem bộ phim này trước đây hay do cốt truyện của nó na ná như hàng tá bộ phim khác trên kênh này. Hơn nữa, không khí trong căn chòi nhỏ này hơi ngột ngạt, nên tôi đứng dậy và mở hết rèm ra.

Có một cửa sổ lớn ở bên cạnh cửa trước, một cửa sổ nhỏ hơn phía trên đầu giường, tôi hay để chúng mở ban đêm để thông khí. Chiếc quạt trần quay từng vòng tròn chậm rãi và lười biếng. Ngoài kia, sâu trong rừng, tiếng dế kêu rả rích, thi thoảng dội lại tiếng động vật nhỏ đi ngang qua khu rừng, tiếng nhịp chân khẽ giẫm lên thảm lá khô.

Tôi quay lại giường và tiếp tục xem phim. Một lúc sau, một con ngài đập thẳng vào ô cửa sổ vì bị ánh sáng thu hút. Còn có tiếng đập cạch-cạch-cạch lên bức tường phía sau giường nhưng tôi biết đó chỉ là tiếng cành cây, cây cối mọc sát ba phía của căn chòi, chúng cọ quẹt lên vách tường mỗi khi trời nổi gió. Tôi ném ánh nhìn ra cửa và đảm bảo nó được khóa, đúng là đã khóa nhưng chiếc khóa lỏng lẻo, chẳng tài nào ngăn cản được sự quyết tâm của kẻ xâm nhập.

Đột nhiên tôi nghe thấy có tiếng gì đó, một âm thanh vo ve như tiếng muỗi đang bay sát mang tai. Tôi phẩy tay gạt đi nhưng vài giây sau nó lại quay lại, một đốm xám lơ lửng xung quanh phạm vi chú ý, luôn ở ngoài tầm với. Tôi lại nhớ đến vị bác sĩ công tác ở Đại học Pennsylvania và buổi thí nghiệm lâm sàng đầy huyễn hoặc.

Đấy là đêm đầu tiên tôi cảm nhận có người đang dõi theo mình.