Tôi bơi dở ẹc. Lúc nhỏ, khu tôi ở có một cái bể bơi công cộng, nhưng vào mùa hè, ở đó lúc nào cũng như một cái sở thú, hàng trăm đứa trẻ con la hét đinh tai chói óc, chen chúc nhau dưới cái bể sâu gần cả mét, nước thì nhơn nhớt. Không thể nào bơi nổi, muốn thả người trôi ngửa còn chẳng có chỗ. Mẹ dặn tôi và chị không được ngụp lặn vì bà sợ chị em tôi sẽ bị đau mắt đỏ.
Thế nên tôi không mong ngóng lắm bài tập mới của bác Russell. Mãi đến quá mười giờ tối ngày hôm sau tôi mới chịu ra bể bơi. Khi mặt trời đã lặn, sân sau nhà Maxwell biến thành một nơi lạ lùng. Chỗ chúng tôi chẳng cách Philadelphia là bao, nhưng cứ tới giấc này thì cảm giác như thể chúng tôi đang ở một vùng thôn quê xa ngái vậy. Duy có mỗi ánh sáng của mặt trăng và những vì sao, cùng vũng sáng của những bóng đèn sợi dưới đáy bể bơi dọi lên. Bể bơi trông thật lạ lẫm. Mặt nước mang một màu xanh lam neon mờ ảo, trông như bức xạ plasma, hắt những cái bóng có hình thù quái đản lên mặt sau của căn nhà.
Đó là một tối trời oi, khi lao mình xuống dòng nước mát, tôi thấy thật dễ chịu. Nhưng lúc ngoi đầu lên thở và mở mắt ra, tôi có cảm giác như cánh rừng được xê dịch lại gần, hệt như có thuật phù thủy khiến rừng cây sát lại gần đây. Tiếng dế kêu thậm chí cũng trở nên rộn rã hơn. Tôi biết đó chỉ là ảo giác, bởi khi nhìn từ góc khác tôi thấy có sự thay đổi trong cảm nhận về khoảng cách của mình, lúc ấy khoảng cách từ hàng rào bao quanh bể bơi tới chỗ hàng cây đã xóa nhòa. Nhưng dù thế nó vẫn làm tôi thấy hoang hoải kinh khủng.
Tôi bám vào thành bể và đạp chân năm phút để làm ấm người. Ở phía nhà lớn, cả tầng dưới đều sáng đèn. Tôi đưa mắt nhìn vào gian bếp, nhưng chẳng thấy bóng dáng Ted hay Caroline đâu. Có lẽ họ đang ngồi trong phòng nghỉ, nhấm nháp rượu vang và đọc sách, hầu như tối nào họ cũng làm vậy.
Sau khi đã khởi động xong, tôi quẫy mạnh vào thành bể và bắt đầu bì bõm với kiểu bơi trườn sấp. Tôi đặt mục tiêu bơi mười vòng, cả đi và về, dọc theo chiều dài bể. Nhưng đến giữa vòng thứ ba, tôi biết mình sẽ không hoàn thành được. Cơ vai và cơ tam đầu của tôi đang nóng rừng rực; cả thân trên mỏi rã rời. Đến bắp chân cũng đang bắt đầu căng cứng. Tôi cố hết sức hoàn tất vòng thứ tư, và bơi đến nửa vòng thứ năm thì tôi phải dừng lại. Tôi bám vào thành bể, thở hổn hển.
Và rồi sau đó, tôi nghe có tiếng răng rắc từ phía bìa rừng.
Thanh âm đó được tạo ra từ hành động của một người dùng hết trọng lực đè lên cành cây khô, nhún nhấn cho đến khi cành cây gãy đôi. Tôi quay người về phía hàng cây và nheo mắt nhìn vào bóng tối, chẳng thấy gì cả. Nhưng tôi nghe có tiếng con gì đó, hoặc có thể là ai đó—tiếng bước chân nhè nhẹ đạp lên lá khô, đi về phía căn chòi của tôi…
“Nước ấm không?”
Tôi quay người lại, là Ted, đang mở cửa đi về phía bể bơi, chỉ mặc mỗi quần bơi, cùng một chiếc khăn tắm vắt trên vai. Anh thường bơi dăm ba buổi mỗi tuần, nhưng chưa bao giờ tôi thấy anh ấy bơi muộn như hôm nay. Tôi lội ra chỗ cái thang và nói, “Em đang định lên.”
“Không cần đâu. Có nhiều chỗ mà. Em cứ bơi từ chỗ đó đi, tôi sẽ bơi từ đây.”
Anh ném khăn tắm lên ghế, rồi bước xuống từ mép bể, đằm người xuống nước, không rùng mình một chút nào. Rồi, theo dấu của anh, chúng tôi bắt đầu bơi song song từ hai đầu bể. Theo lý thuyết thì chúng tôi chỉ chạm mặt nhau một lần duy nhất, ở chính giữa bể, nhưng Ted bơi nhanh khủng khiếp, và chỉ một phút sau anh đã bắt kịp cùng chiều với tôi. Dáng bơi của anh bay bướm khỏi bàn. Mặt anh ngụp dưới làn nước gần như suốt cả chiều dài bể, thế nên tôi không hiểu anh thở bằng cách nào. Anh chuyển động như một con cá mập, hầu như không gây ra tiếng động, trong khi tôi quẫy đạp ào ào như một người say rượu bị rơi khỏi du thuyền. Tôi cố được thêm ba vòng nữa thì đành bỏ cuộc. Ted tiếp tục bơi sáu vòng nữa rồi dừng lại bên cạnh tôi.
“Anh bơi giỏi thật đấy,” tôi nói.
“Hồi trung học còn bơi tốt nữa. Hồi đó, bọn tôi có một huấn luyện viên rất cừ.”
“Em thật ghen tị. Em đang tự học qua YouTube.”
“Thế thì tôi mạn phép góp ý vài lời được không? Em thở nghe cứ hùng hục. Cách một sải tay hãy thở một lần. Luôn luôn hoặc lúc quạt trái hoặc lúc quạt phải, bên nào thuận hơn thì thở lúc quạt tay bên đó.”
Anh động viên tôi làm thử, thế là tôi đạp vào thành bể và bơi một vòng theo lời hướng dẫn của anh. Quả nhiên hiệu nghiệm ngay tức thì. Tôi chỉ thở bằng một nửa và bơi nhanh gấp đôi.
“Tốt hơn rồi, đúng không?”
“Tốt hơn nhiều rồi. Còn mẹo nào khác nữa không ạ?”
“Không. Tôi đã cho lời khuyên đáng giá nhất rồi. Bơi lội là môn thể thao duy nhất mà em sẽ luôn chú ý đến nhịp thở. Nhưng nếu tập nhiều, em sẽ bơi tốt hơn thôi.”
“Cảm ơn anh.”
Tôi bám lấy cầu thang và trèo lên, định bụng quay về đi ngủ. Áo bơi của tôi co lên và tôi vội với tay kéo xuống, nhưng tiếc là không kịp.
“Ô kìa, Flyers à,” anh nói.
Anh đang nhắc tới hình xăm nhỏ ở bên dưới hông của tôi. Đó là hình xăm gương mặt Gritty với đôi mắt ngây dại, linh vật màu cam xồm xoàm lông lá của đội khúc côn cầu của Philadelphia. Tôi đã rất cẩn thận che giấu nó, không cho người nhà Maxwell nhìn thấy, và tôi đang cảm thấy giận chính mình vì hớ hênh.
“Cái này là em trót dại,” tôi bảo. “Chừng nào tiết kiệm đủ tiền, em sẽ đi xóa ngay.”
“Nhưng em thích khúc côn cầu sao?”
Tôi lắc đầu. Tôi đã bao giờ chơi đâu. Thậm chí còn chưa từng xem một trận đấu nào. Nhưng hai năm trước, tôi kết thân với một gã lớn hơn nhiều tuổi, gã có tình yêu mãnh liệt với môn thể thao đó, và có tàng trữ chất cấm. Isaac hồi đó ba mươi tám tuổi, bố gã chơi cho đội Flyers hồi những năm 1970. Ông kiếm bộn tiền và mất sớm, rồi dần dần Isaac phung phí hết gia tài ông để lại. Mấy đứa chúng tôi sống trong căn hộ của Isaac, ngủ nhờ lại đó, thi thoảng ngủ chung giường với gã, và về cơ bản tôi xăm hình đó là để gây ấn tượng với gã, những mong gã sẽ thấy tôi thật ngầu và sẽ cho tôi qua lại. Nhưng kế hoạch đó đổ bể. Tôi phải chờ năm ngày để tháo băng, và trong khoảng thời gian đó Isaac bị bắt vì tội tàng trữ ma túy, và chủ căn hộ đuổi cổ tất cả bọn tôi ra đường.
Ted vẫn đang chờ tôi giải thích.
“Đó là một việc nông nổi,” tôi nói với anh. “Em đã không suy nghĩ sáng suốt.”
“Ừm, cũng không phải chỉ có mỗi mình em. Caroline cũng có một hình xăm mà chị ấy muốn xóa bỏ. Chị ấy đã trải qua một giai đoạn say mê nghệ thuật hồi học đại học.”
Lời anh nói thật tử tế, nhưng cũng chẳng làm tôi thấy vui hơn. Tôi dám chắc hình xăm của Caroline là một hình có tính thẩm mỹ rất cao. Có thể là một bông hồng, hoặc một vầng trăng khuyết, hoặc một Hán tự có ý nghĩa nào đó—chứ không phải một con quái vật dị hợm mắt trợn tròn. Tôi hỏi Ted chị ấy giấu hình xăm ở chỗ nào nhưng lại một tiếng răng rắc rất to nữa ngắt lời tôi.
Cả hai chúng tôi nhìn ra khu rừng.
“Ngoài đó có ai ấy,” tôi bảo. “Ban nãy, em đã nghe thấy tiếng bước chân đi qua đi lại.”
“Có thể là một con thỏ,” anh nói.
Lại một tiếng răng rắc nữa, và sau đó là tiếng hốt hoảng bỏ chạy, tiếng của một con thú nhỏ đang băng qua khu rừng.
“Cái đó thì là thỏ. Nhưng ban nãy, trước khi anh ra, âm thanh to hơn cơ. Nghe như tiếng người vậy.”
“Có thể là mấy đứa thiếu niên. Tôi dám chắc bọn học sinh trung học rất hay ra vào khu rừng.”
“Lúc đêm còn đáng sợ hơn nữa. Đôi khi em nằm trên giường và cảm tưởng như chúng đang ở ngay bên ngoài cửa sổ.”
“Có lẽ không thể ngăn Mitzi nhồi nhét vào đầu em mấy câu chuyện nhảm nhí.” Anh nháy mắt. “Caroline kể hai người đã gặp mặt.”
“Bà ấy rất thú vị.”
“Tôi sẽ tránh xa bà ta, Mallory ạ. Mấy chuyện thế này bà ta gọi nó là năng lượng tâm linh à? Người lạ đỗ xe trên đường dẫn vào nhà bà ta, gõ cửa sau nhà? Trả tiền mặt? Thật là mờ ám. Tôi không tin tưởng bà ta.”
Tôi cảm nhận được Ted không tiếp xúc nhiều với các ông đồng bà cốt. Tôi lớn lên cạnh một người hàng xóm, bà Guber, xem bài Tarot ở đằng sau một hiệu pizza trong khu. Bà ấy thật tài tình khi dự đoán đúng rằng một cô phục vụ bàn sẽ thắng giải 100.000 đô-la xổ số cào. Bà cũng tư vấn cho người ta chuyện hôn nhân gia đình, giải đoán chuyện bọn đàn ông con trai ngoại tình và vấn đề tình cảm linh tinh khác. Mấy đứa chúng tôi gọi bà ấy là Nhà tiên tri, và chúng tôi tin bà hơn tin những thứ trên trang nhất của tờ Inquirer.
Nhưng tôi không mong Ted sẽ hiểu chuyện này. Người đàn ông này thậm chí còn không công nhận sự tồn tại của tiên răng. Mấy ngày trước, Teddy rụng một cái răng hàm đã lung lay, và Ted rút luôn ví, lấy ra tờ một đô-la—không một chút thần bí, không phô trương, cũng chẳng rón rén lẻn vào phòng ngủ lúc nửa đêm để tránh bị phát hiện.
“Bà ấy chẳng có ác ý gì đâu.”
“Tôi nghĩ bà ta đang buôn thuốc lậu.” Ted nói. “Tôi không chứng minh được, nhưng tôi đang theo dõi. Em phải cẩn thận khi đến gần bà ta đấy, được chứ?”
Tôi giơ tay phải lên. “Lấy danh dự hướng đạo sinh, em xin hứa.”
“Tôi nói nghiêm túc đấy, Mallory.”
“Em biết. Và em nhận thức sâu sắc mà. Em sẽ thận trọng.”
Tôi mở cánh cửa dẫn vào bể bơi, chuẩn bị rời đi thì nhận ra Caroline đang tiến lại, vẫn mặc đồ đi làm, mang theo sổ ghi chép và một cây bút chì. “Mallory, chờ chút. Hôm qua em nhận điện thoại à? Điện thoại từ trường của Teddy?”
Ngay lập tức, tôi nhận ra mình đã gây chuyện rồi. Tôi nhớ cuộc gọi đó, và tôi nhớ đã ghi lại số điện thoại của vị hiệu trưởng nọ lên một tờ giấy. Nhưng rồi sau đó Teddy đi vào bếp cùng với bức vẽ kì cục, và thế là tôi đã bị sao nhãng.
“Vâng là hiệu trưởng gọi,” tôi nói. “Em để lời nhắn trong chòi. Có lẽ vẫn trong cái quần soóc của em. Em sẽ đi lấy…”
Caroline lắc đầu. “Không cần. Hiệu trưởng đã gửi email cho chị rồi. Nhưng đáng lẽ ra hôm qua chị phải biết họ nhắn gì.”
“Em biết. Em xin lỗi.”
“Nếu chúng ta chậm dù chỉ một lần, Teddy sẽ mất chỗ đấy. Danh sách chờ để vào lớp mẫu giáo có ba mươi đứa lận đấy.”
“Em biết ạ, em biết…”
Chị ngắt lời tôi. “Đừng có nói ‘em biết’ nữa. Nếu em thực sự biết, đáng lẽ ra em đã phải đưa lời nhắn cho chị. Lần sau hãy cẩn thận hơn.”
Chị xoay người đi vào trong nhà, và tôi chỉ biết đứng ngây người ra. Đó là lần đầu tiên chị ấy thực sự to tiếng với tôi. Ted vội vã rời khỏi bể bơi, và đặt một tay lên vai tôi. “Nghe này, em đừng bận tâm.”
“Em xin lỗi, anh Ted, em thấy thật tệ.”
“Chị ấy giận nhà trường chứ không phải giận em đâu. Bọn họ bắt chúng tôi chết ngộp trong đống giấy tờ thủ tục. Khai tiêm chủng, khai dị ứng, khai đánh giá hành vi—bộ hồ sơ xin học mẫu giáo ngớ ngẩn đó còn dày hơn cả hồ sơ xin hoàn thuế của tôi.”
“Nhưng thực sự là lỗi của em,” tôi nói với anh. “Em đã ghi lại số điện thoại, nhưng rồi lại bị đãng trí vì một thứ Teddy đưa cho em.” Tôi cố gắng sửa sai trong vô vọng, tôi bắt đầu mô tả bức tranh cho anh nghe, nhưng Ted gạt đi. Anh có vẻ sốt sắng muốn quay lại nhà. Tôi nhìn thấy bóng của Caroline ở chỗ cửa kính, rót mắt nhìn chúng tôi.
“Chị ấy sẽ nguôi giận thôi, đừng lo,” anh nói. “Ngày mai thậm chí chị ấy còn chẳng nhớ đâu.”
Giọng anh nghe có vẻ thư thái, song anh vội vã rời đi. Khi anh băng qua sân, hình dáng của anh chỉ còn là một cái bóng—và khi anh đi tới chỗ Caroline, anh vòng tay ôm lấy chị. Chị với tay tắt đèn, và sau đó thì tôi không còn nhìn thấy gì nữa.
Một ngọn gió khẽ thoáng qua làm tôi rùng mình. Tôi quấn khăn quanh eo và quay về căn chòi. Tôi khóa cửa và đang thay dở đồ ngủ thì lại nghe thấy tiếng bước chân, những bước đi nhè nhẹ giẫm lên lớp cỏ mềm—chỉ có điều lần này, chúng ở ngay bên ngoài cửa sổ của tôi. Tôi kéo rèm và ghé mắt nhìn ra bên ngoài, nhưng tất cả những gì mà tôi nhìn thấy được bên ngoài ô cửa là những con bướm đêm đang bay loạn xạ.
Một con hươu, tôi tự nhủ. Chỉ là một con hươu mà thôi.
Tôi kéo rèm lại và tắt đèn rồi leo lên giường, kéo chăn lên tới cằm. Ở bên ngoài, thứ đó đang chuyển động ngay phía sau giường của tôi—tôi nghe được tiếng nó cử động ở phía bên kia bức tường, như thể đang xem xét căn chòi, đi vòng quanh, như đang tìm lối để vào bên trong. Tôi nắm chặt tay và đấm rầm lên tường, những mong tiếng động rõ to sẽ dọa nó bỏ đi.
Nhưng nó không đi mà chui xuống gầm nhà, đào xới, rồi lách mình xuống bên dưới sàn nhà. Tôi không biết làm cách nào mà thứ đó lại có thể chui cho vừa. Không thể nào là hươu được, nhưng nghe tiếng thì nó có vẻ to, phải cỡ của một con hươu. Tôi ngồi dậy và dậm chân ầm ầm một cách vô ích. “Thôi đi,” tôi hét to, hi vọng tiếng hô hoán xua nó chạy đi.
Ấy thế nhưng nó lại càng đào sâu hơn nữa, luồn lách bò vào đến tận giữa căn phòng. Tôi đứng dậy và bật sáng đèn. Rồi tôi chống cả tay lẫn chân bò nhoài trên sàn, và lắng nghe, cố gắng lần theo tiếng động. Tôi lật thảm lên và phát hiện ra vết cắt một mảng hình vuông trên sàn nhà—cái ô cửa đủ lớn cho một người bò qua. Không thấy có bản lề hay tay cầm, chỉ có hai cái khe hình quả trám để người ta có thể nắm lấy ô cửa và nâng lên.
Giả như còn sớm—và nếu không phải vì Caroline đang giận tôi—tôi nghĩ hẳn tôi đã gọi nhà Maxwell và nhờ họ giúp đỡ. Nhưng tôi quyết tâm sẽ tự mình xử lý. Tôi đi vào bếp và rót đầy một bình nước. Thứ này, bất luận là gì, không thể to như âm thanh mà nó tạo ra đâu. Tôi biết tiếng động có thể sẽ khiến mình bị đánh lừa, nhất là trong bóng đêm, khi đã muộn thế này. Tôi quỳ gối trên sàn, và thử nâng ô cửa, nhưng nó không nhúc nhích. Độ ẩm của mùa hè đã làm cho gỗ nở ra, khiến nó bị chốt chặt. Thế là tôi dồn hết sức sang một bên, kéo bằng cả hai tay, mặc kệ những ngón tay đau nhói, thớ gỗ thô ráp sắc lẹm cứa vào da mềm. Cuối cùng, một tiếng phục to cùng với bụi bắn tung mù mịt, ô cửa bật ra khỏi sàn, giống như nút chai rượu sâm-panh bật khỏi chai. Tôi nắm lấy nó và giữ khư khư trước ngực, dùng cái ô cửa như một tấm khiên. Sau đó, tôi rướn người về trước và nhìn xuống cái lỗ.
Tối mù, chẳng thấy được gì cả. Đất bên dưới đó khô cằn, không có dấu hiệu của sự sống, giống như tàn tro lưu lại sau khi người ta đốt lửa trại. Căn chòi lặng thinh. Sinh vật đó, là gì đi nữa, cũng đã tan biến. Dưới đó chẳng thấy gì hết, chỉ có những vụn tro xám xịt lốm đốm mấy chấm đen. Tôi chợt nhận ra nãy giờ mình đang nín thở, và giờ tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Hẳn là tiếng kéo mở ô cửa sập đã dọa thứ đó bỏ đi.
Nhưng rồi sau đó, vụn tro kia chuyển động và mấy chấm đen chớp chớp, còn tôi vẫn đang chăm chăm nhìn thứ đó—nó cũng rướn chân, vươn mình để chạm mặt với tôi, để lộ ra những bàn chân hồng hồng xấu xí với mớ răng dài sắc nhọn. Tôi thét lên, một tiếng thét đinh tai xé toạc màn đêm. Kế đó, tôi dập mạnh ô cửa trở về chỗ cũ và đè lên nó, dùng toàn bộ sức nặng của cơ thể để chặn cứng cánh cửa sập. Tôi dùng nắm tay đấm mạnh các góc của ô cửa, cố hết sức để bắt miếng gỗ biến dạng đóng khít như cũ, nhưng chẳng còn vừa vặn nữa. Một phút sau, Caroline đã có mặt ở căn chòi của tôi, dùng khóa của chị để mở cửa. Chị mặc đầm ngủ, Ted theo ngay phía sau, để mình trần, chỉ mặc quần pijama. Họ nghe thấy tiếng động bên dưới căn chòi của tôi, tiếng bỏ chạy bên dưới sàn nhà.
“Là một con chuột,” tôi nói với họ, thấy nhẹ tênh khi họ có mặt ở đây, bởi tôi không còn đơn độc nữa. “Con chuột to nhất mà em từng thấy.”
Ted cầm bình nước và mang nó ra ngoài, còn Caroline đặt một tay lên vai tôi, vỗ về an ủi rằng không có chuyện gì đâu. Tôi và chị cùng nhau xoay ngang tấm gỗ để nó vừa khít trở lại với ô cửa sập, và sau đó, tôi giữ chặt còn chị lắp cho các góc khít lại như cũ. Thậm chí sau khi chị làm xong, tôi vẫn sợ không dám đứng dậy, sợ rằng ô cửa sẽ bật khỏi sàn. Chị đứng bên cạnh tôi, ôm lấy tôi, cho tới khi chúng tôi nghe thấy một tiếng tạt nước ở bên ngoài ô cửa sổ để mở.
Một lúc sau, Ted mang bình nước đã cạn quay lại. “Là chồn túi,” anh nói và cười nhăn nhở. “Không phải chuột. Nó chạy nhanh phết, nhưng anh đuổi được nó rồi.”
“Sao nó lại ở dưới chòi vậy?”
“Hàng rào bị thủng một lỗ. Bờ rào phía tây. Trông như là một khoanh nhỏ đã bị mục.” Caroline cau mày và định nói gì đó, nhưng Ted đã cướp lời. “Anh biết rồi, anh biết rồi. Ngày mai anh sẽ sửa. Anh sẽ ghé qua Home Depot.”
“Mai phải làm luôn đấy, Ted ạ. Thứ đó làm Mallory sợ chết khiếp! Nhỡ cô bé bị nó cắn thì sao? Lỡ nó mang bệnh dại thì sao?”
“Em không sao mà,” tôi nói với chị.
“Em ấy vẫn vẫn ổn mà,” Ted nói, nhưng Caroline vẫn chưa tin hẳn. Chị nhìn chăm chăm cánh cửa sập trên sàn nhà. “Lỡ nó quay lại thì sao?”
Mặc dù lúc đó đã là gần nửa đêm, Caroline vẫn bắt Ted quay về nhà chính lấy hộp đồ dùng. Chị bắt anh phải đóng đinh, gắn chặt ô cửa sập với sàn nhà, để không thứ gì có thể đẩy cửa lẻn vào trong căn chòi của tôi được nữa. Trong lúc ngồi chờ anh làm xong, chị đun nước bằng bếp của tôi và pha trà cho cả ba người. Xong, hai vợ chồng Maxwell ngồi lại thêm một lúc lâu hơn cần thiết, chỉ để chắc chắn là tôi đã bình tĩnh trở lại và cảm thấy bình tâm và an toàn. Ba người chúng tôi ngồi ở mép giường, pha trò, kể chuyện cho nhau nghe, và sau cùng còn bật cười, và như thể vụ bị mắng vì cuộc điện thoại như chưa từng xảy ra.