CHƯƠNG 22

Chúng tôi lái xe quay về Spring Brook và bắt tay ngay vào việc. Tôi gom tất cả các bức vẽ tìm được trong căn chòi, cộng thêm ba bức tranh tôi lấy được từ phòng ngủ của Teddy. Adrian có một bức được để lại trên bàn anh, cộng thêm tất cả các bức ảnh anh chàng đã chụp ở phòng nghỉ nhà Maxwell. Anh đã in những bức ảnh chụp bằng máy in màu để chúng tôi có thể sắp xếp chúng theo một trật tự. Còn chưa đầy bốn mươi tám giờ nữa, bác Russell sẽ tới đón tôi—và trước khi chuyện đó xảy ra, tôi quyết tâm chứng minh cho vợ chồng Maxwell thấy là chúng tôi đang trình bày sự thật.

Chúng tôi sắp xếp tất cả các bức tranh ngoài hiên bể bơi, sử dụng đá hoặc vài nắm đá dăm để giữ chúng. Sau đó, chúng tôi dành nửa giờ di chuyển chúng qua lại, cố gắng sắp xếp theo trật tự, tìm ra một câu chuyện nào đó có vẻ có ý nghĩa.

Sau nhiều lần thử nghiệm và vấp váp, chúng tôi đi tới câu chuyện như sau:

“Bức vẽ đầu tiên là hình khinh khí cầu,” tôi bắt đầu. “Chúng ta đang ở trong một công viên hay trên cánh đồng. Một địa điểm có nhiều không gian mở. Bầu trời thật thoáng đãng.”

“Thế chắc chắn không phải là ở Spring Brook rồi,” Adrian nói. “Bầu trời quanh Philly lắm nhà cao tầng.”

“ Chúng ta nhìn thấy một người phụ nữ đang vẽ bức tranh khinh khí cầu. Cứ tạm cho đây là Anya. Dựa vào chiếc đầm sát nách, em đoán đây là vào mùa hè, hoặc có thể là ở vùng khí hậu ấm áp.”

“ Có một bé gái ở gần, đang chơi đồ chơi. Có thể là con gái của Anya. Teddy có nhắc tới Anya có một cô con gái. Có vẻ như Anya không trông chừng con bé sát sao.”

“ Tiếp đó là tới bức hình chú thỏ trắng.”

“ Bé gái bị thu hút. Nó đang chơi với một con thỏ nhồi bông, nhưng ở đây lại có một con thú thật.”

“ Thế là nó đuổi theo con thỏ đi vào thung lũng…”

“… nhưng Anya không nhận ra bé gái đã đi mất. Cô ấy quá nhập tâm vào việc vẽ tranh. Nhưng anh có thể nhìn thấy bé gái ở đường chân trời. Bỏ lại đồ chơi. Cho đến giờ anh thấy câu chuyện này hợp lý không?”

“Anh thấy ổn,” Adrian nói.

“Tốt, bởi lẽ câu chuyện bắt đầu trở nên khó hiểu từ đây. Đã có chuyện gì đó. Con thỏ đã biến mất, bé gái trông có vẻ bơ vơ. Có thể cô bé bị thương. Thậm chí có thể cô bé đã chết. Bởi vì trong bức tranh tiếp theo…”

“Một thiên thần tiến tới gần cô bé.”

“Và thiên thần dẫn bé gái đi về phía ánh sáng.”

“Nhưng có ai đó đang cố ngăn cản họ. Có ai đó đang đuổi theo họ.”

“Là Anya,” Adrian nói. “Vẫn là cái váy trắng đó.”

“Chính xác. Cô ấy đang đuổi theo để cứu con gái, những mong cô bé không bị đưa đi.”

“Nhưng Anya đã tới quá muộn. Thiên thần sẽ không trả con lại cho cô ấy.”

“Hoặc không thể trả lại,” Adrian nói.

“Chính xác. Và đây là chỗ còn khuyết thiếu.”

“Thiên thần và đứa bé đã đi mất. Chúng ta không nhìn thấy hai người họ nữa. Và giờ có ai đó đang bóp cổ Anya. Đây chính là mảnh ghép mà đến giờ ta vẫn đang còn thiếu.”

“Thời gian trôi qua. Đã đến tối. Khung vẽ của Anya bị bỏ lại.”

“Một gã đi vào rừng, mang theo dụng cụ. Trông chúng giống như cuốc và xẻng.”

“Gã kéo xác Anya vào rừng…”

“Gã dùng xẻng để đào một cái hố…”

“Và sau đó, chôn thi thể.”

“Vậy là người đàn ông đó đã bóp cổ Anya,” Adrian nói.

“Cũng chưa chắc.”

“Ông ta di chuyển xác của cô ấy. Ông ta chôn cô ấy.”

“Nhưng câu chuyện bắt đầu từ lúc trời sáng. Người đàn ông này mãi sau mới xuất hiện, khi trời đã tối.”

Adrian bắt đầu di chuyển các bức vẽ một lần nữa—thử sắp xếp chúng theo một trật tự khác—song, tôi đã thử qua đủ thứ tự có thể, và đây chính là cái có vẻ có ý nghĩa nhất.

Ngoại trừ vẫn đang còn thiếu thứ gì đó. Cảm giác giống như đang chơi bộ trò chơi ghép hình, đã xếp được toàn cảnh, rồi phát hiện ra thiếu mất ba hay bốn mảnh ghép, mà tất cả lại đều là những mảnh ở chính giữa.

Adrian vung hai tay lên trời. “Sao cô ấy không nói thẳng luôn cho chúng ta đi nhỉ? Đừng có dùng mấy bức tranh ngu ngốc này mà nói luôn bằng lời chả hơn sao? ‘Tên tôi là Đồ bỏ xó. Tôi bị nhà vua giết hại.’ Hay bất kì ai khác. Tại sao cứ phải làm ra vẻ thần bí như thế làm gì?”

Anh chàng chỉ đang xả ra cho bớt bực, nhưng tôi nhận ra chính bản thân mình cũng không ngừng tự vấn câu hỏi này: Tại sao Anya lại úp mở như vậy?

Thay vì dùng Teddy để vẽ nên những bức tranh, tại sao không nói bằng lời? Tại sao không viết một bức thư? Trừ phi…

Tôi ngẫm lại tất cả những cuộc trò chuyện từ một bên mà tôi nghe lỏm được trong phòng ngủ của Teddy—tất cả những trò chơi đoán ý mà cậu bé tham gia trong Thời gian yên tĩnh. “Teddy nói Anya nói chuyện buồn cười lắm. Cậu bảo cô ấy rất khó hiểu. Có khi nào cô ấy không nói tiếng Anh không?”

Adrian có vẻ định phản bác ngay ý kiến này, nhưng rồi sau đó anh chàng với tay cầm cuốn sách mượn ở thư viện—Tuyển tập các tác phẩm của Anne C. Barret. “Được rồi, chúng ta hãy cùng thử suy nghĩ ý kiến vừa rồi xem nào. Chúng ta biết Annie đến từ châu Âu sau Thế chiến thứ hai. Có thể cô ấy không nói tiếng Anh. Có thể Barrett thậm chí cũng không phải là tên thật của cô ấy. Có thể đó là một phiên bản Âu hóa một cái tên kiểu như Baryshnikov, một trong số những cái tên Đông Âu dài đến mức gần như không thể phát âm được. Và gia đình họ đã thay đổi nó, để dễ hòa nhập hơn.”

“Chính xác,” tôi nói, vẻ đồng tình với giả thiết đó. “Lời George viết giống như ông ấy đã định cư ở Mỹ khá lâu. Ông ấy đã bị đồng hóa. Ông ấy là người trợ tế ở nhà thờ, là Ủy viên Hội đồng thành phố. Nhưng rồi đột nhiên, cô em họ từ vùng Bohemia xuất hiện ở Spring Brook. Cô ấy nhắc cho ông nhớ về gốc tích của mình, và ông ấy không khỏi thấy hổ thẹn vì cô em họ này. Những câu từ ông viết trong cuốn sách có vẻ kẻ cả, tất cả những gì ông nói là về những thành tựu nhỏ nhoi của cô em và sự ngốc nghếch của cô ấy.”

Adrian búng tay. “Và điều này còn lí giải chuyện cái bảng cầu hồn nữa! Em nói rằng câu trả lời của cô ấy rất lộn xộn! Em gọi nó là một mớ hổ lốn chữ cái. Nhưng lỡ như cô ấy đang đánh vần bằng ngôn ngữ khác thì sao?”

Tôi nhớ lại buổi hôm đó—về cảm giác bị mắc kẹt bên trong căn chòi, với miếng gỗ rung lắc bên dưới các đầu ngón tay.

Tôi biết là không phải chỉ có mỗi hai chúng tôi.

Tôi biết đã có người di chuyển tay tôi và chọn các chữ cái một cách có chủ đích.

“Mitzi đã chép lại hết,” tôi nói.

Chúng tôi băng qua sân sau để sang nhà Mitzi. Tôi gõ cửa trước nhưng không có ai ra mở. Sau đó, chúng tôi đi vòng ra phía sau của căn nhà, tới lối cửa mà bà hay dùng cho khách đến xem bói. Cửa sau để mở và chúng tôi có thể nhìn qua cửa lưới thấy gian bếp, cả chiếc bàn Formica mà Mitzi từng mời tôi ngồi nhâm nhi cà phê. Tôi đập tay lên cánh cửa lưới, con mèo đồng hồ lườm tôi chằm chằm, cái đuôi của nó lúc lắc. Tôi nghe thấy ti vi trong nhà đang bật, ngay lúc chương trình quảng cáo đồng đô-la vàng nhân kỉ niệm gì đó: “Những đồng vàng này được các nhà sưu tầm đánh giá rất cao và cam đoan có thể duy trì giá trị…”

Tôi gọi lớn tên của Mitzi, nhưng chắc chắn bà sẽ không thể nghe thấy vì âm thanh mục quảng cáo lấn át hẳn.

Adrian thử mở cửa, và cửa không khóa. “Em nghĩ sao?”

“Em nghĩ bà ấy bị hoang tưởng và bà ấy có súng. Nếu chúng ta lén lút lại gần, nhiều khả năng bà ấy sẽ nã đạn vào bọn mình mất.”

“Nhưng cũng có thể bà ấy bị làm sao. Có thể bà ấy bị trượt chân trong nhà tắm. Bởi gọi cửa nhà người già hoài mà không ai ra mở, thế ta cũng nên kiểm tra xem họ làm sao.”

Tôi gõ cửa lần nữa, nhưng vẫn không có ai đáp lời.

“Ta quay lại sau đi.”

Nhưng Adrian vẫn nhất quyết mở cửa và gọi, “Bác Mitzi, bác ổn chứ?”

Anh chàng bước vào trong, và tôi còn biết làm gì nữa đây? Lúc này đã hơn 3 giờ rồi, và thời gian sẽ lướt nhanh chẳng chờ đợi ai cả. Nếu Mitzi có thông tin hữu ích, chúng tôi cần tranh thủ lấy thật sớm. Tôi giữ cửa mở và theo anh chàng vào bên trong.

Khu bếp bẩn khủng khiếp. Nó có mùi của rác đã lâu chưa gom dọn, hoặc có thể là mùi bát đĩa bẩn chất đống trong bồn rửa. Có một cái chảo rán trên bếp, bên trong trắng mỡ thịt xông khói đã đông lại. Có những dấu chân nhỏ xíu khắp trên mặt bàn bếp, và tôi không muốn nghĩ tới lũ côn trùng lẩn khuất phía sau các bức tường nhà bà.

Tôi theo Adrian đi vào phòng khách. Ti vi đang phát chương trình thời sự trên kênh Fox News, những người dẫn chương trình đang tranh luận với một khách mời về các mối đe dọa mới nhất tới an ninh nước Mỹ. Họ đang đối thoại om sòm—người này át lời người khác—thế là tôi cầm điều khiển và tắt tiếng đi.

“Bác Mitzi? Cháu Mallory đây. Bác nghe thấy cháu không?” Vẫn không có ai đáp.

“Có khi bác ấy ra ngoài rồi,” Adrian nói.

Và để cửa sau mở như vậy ư? Không thể nào, Mitzi không làm thế đâu. Tôi di chuyển ra phía sau căn nhà và kiểm tra phòng tắm—không thấy ai. Cuối cùng, tôi đi tới cửa phòng ngủ của Mitzi. Tôi gõ vài lần, gọi tên bà, và sau cùng mở cửa.

Bên trong phòng ngủ, rèm cửa được kéo kín, chăn màn chưa gập, và quần áo vứt đầy trên sàn nhà. Không khí bên trong có mùi chua và ôi cũ, nên tôi sợ hãi không dám chạm vào bất cứ thứ gì. Cánh cửa mở ra đập phải cái giỏ đựng rác bằng mây, làm nó bị đổ nghiêng, những nắm giấy ăn nhúm nhó tràn ra ngoài.

“Có gì không?” Adrian hỏi.

Tôi khuỵu gối, cúi người và nhìn dưới gầm giường, chỉ kiểm tra cho chắc chắn. Dưới gầm giường có mớ quần áo bẩn, nhưng không thấy Mitzi.

“Bà ấy không ở trong này.”

Khi đứng dậy, tôi chú ý đến táp đầu giường của Mitzi. Ngoài một chiếc đèn và điện thoại, tôi nhìn thấy một nắm bông vo viên, một chai cồn và một đoạn dây garo cao su.

“Cái gì thế?” Adrian hỏi.

“Em không biết. Có lẽ không liên quan. Ta nên đi thôi.”

Chúng tôi quay lại phòng khách và Adrian tìm ra cuốn sổ trên ghế sô pha, bị nhét bên dưới cái bảng cầu hồn bằng gỗ nặng trịch.

“Là nó đấy,” tôi nói.

Tôi lật qua mấy trang ghi danh sách mua sắm và chuỗi những việc cần làm trước khi lật tới trang mới dùng gần đây nhất—ghi chú của bà trong buổi gọi hồn. Tôi xé trang giấy khỏi cuốn sổ và đưa nó cho Adrian.

Hồi trung học, tôi có học tiếng Tây Ban Nha; tôi có bạn bè biết tiếng Pháp và tiếng Hoa, nhưng những từ trên trang giấy trông chẳng giống bất kì ngôn ngữ nào tôi từng thấy. “Cái tên Anya nghe có vẻ giống tiếng Nga” Adrian nói. “Nhưng anh chàng khá chắc đây không phải tiếng Nga.”

Tôi lấy điện thoại ra và tra từ IGENXO để xác định—và có lẽ đây là lần đầu tiên tôi tra trên Google một cụm từ mà không cho ra bất kì một kết quả nào.

“Nếu Google còn không biết, thì đây chắc chắn không phải là một từ rồi.”

“Có thể nó là một kiểu mật thư gì đó,” Adrian nói. “Giống như kiểu câu đố mà mỗi chữ cái sẽ được thay thế bằng một chữ cái khác.”

“Ta vừa mới nghiệm ra là cô ấy không biết tiếng Anh mà,” tôi nói. “Anh nghĩ là cô ấy đang tạo ra trò chơi để rèn trí óc thật sao?”

“Nó không quá phức tạp nếu em biết hết các thủ thuật. Chờ anh một phút.” Anh chàng cầm lấy một cây bút chì và ngồi xuống ghế sô pha của Mitzi, quyết tâm giải đoán mật mã.

Tôi bắt đầu ngó nghiêng xung quanh phòng khách, đang cố gắng phán đoán xem tại sao Mitzi lại rời nhà đi mà vẫn để mở ti-vi và để mở cửa sau, thì chân tôi đạp phải cái gì đó kêu răng rắc. Nghe như tôi vừa giẫm lên một con bọ cánh cứng, loại côn trùng nhỏ có lớp vỏ cứng giòn. Tôi nhấc chân lên xem, thì ra là một cái ống nhựa mỏng hình trụ có màu vàng cam, dài khoảng tám phân.

Tôi cầm nó lên và Adrian ngẩng đầu nhìn tôi.

“Cái gì vậy?”

“Nắp của một cái kim tiêm dưới da. Em nghĩ bà ấy tự tiêm cho mình. Hi vọng là tiêm Insulin, nhưng đối tượng mà ta đang nói đến là Mitzi nên cũng chẳng biết đâu mà lần.” Khi tôi tiếp tục đi xung quanh căn phòng, tôi phát hiện ra ba nắp kim tiêm nữa—trên giá sách, trong giỏ rác và trên bệ cửa sổ. Khi nhớ lại về đoạn gạc caro, tôi dám chắc chúng ta có thể loại trừ khả năng bệnh tiểu đường.

“Anh đã xong chưa?”

Tôi cúi nhìn vào tờ ghi chú của Adrian và trông có vẻ như anh chàng vẫn chưa có tiến triển gì trong trò giải mã.

“Cái này khó nhằn,” anh chàng thừa nhận. “Thông thường, ta sẽ tìm chữ nào lặp lại nhiều nhất, sau đó thay thế nó bằng chữ E. Trong trường hợp này có bốn chữ X, nhưng khi anh thay chúng thành E thì chẳng ích gì.”

Tôi nghĩ anh chàng đang lãng phí thời gian. Nếu tôi đoán đúng về rào cản ngôn ngữ của Anya—và tôi chắc mẩm là mình đúng—thế thì giao tiếp bằng tiếng Anh đã là một thử thách rồi. Chẳng thể nào cô ấy lại viết nó theo dạng mật mã nữa. Cô ấy sẽ muốn làm sao dễ hơn cho chúng tôi chứ không thể lại gây khó hơn. Cô ấy sẽ cố gắng làm sao để thông điệp của mình rõ ràng nhất.

“Cho anh thêm một phút nữa,” anh chàng nói.

Và sau đó, có tiếng gõ cửa ở cửa sau.

“Xin chào? Có ai trong nhà không?”

Đó là giọng đàn ông, nghe là lạ.

Có thể là một khách hàng của Mitzi, tới nhờ bà xem bói chăng?

Adrian nhét mảnh giấy vào trong túi quần. Và sau đó, chúng tôi đi vào bếp, bỗng tôi nhìn thấy người đàn ông ở cửa mặc cảnh phục.

“Tôi cần hai người bước ra ngoài.”