CHƯƠNG 21

Mọi rắc rối của tôi bắt đầu với một vết rạn đơn giản ở xương cùng—đó là vết rạn rất nhỏ ở đoạn xương có hình tam giác nằm ở cuối cùng của cột sống. Lúc ấy vào quãng tháng Chín, năm cuối trung học, phương án điều trị là nghỉ ngơi trong vòng tám tuần—ngay trước khi bắt đầu mùa giải chạy băng đồng. Đó là một tin xấu nhưng cũng không hẳn là thảm họa. Chấn thương này rất phổ biến ở các nữ vận động viên trẻ, rất dễ điều trị, và không ảnh hưởng gì đến đề nghị mà trường Penn State dành cho tôi. Các bác sĩ kê thuốc OxyContin để giảm đau—một viên 45mg duy nhất, hai lần một ngày. Ai nấy đều bảo rằng tôi sẽ ổn và có thể quay lại đường chạy mùa đông vào tháng Mười một.

Tôi vẫn có mặt ở các buổi tập, thu dọn dụng cụ và giúp mọi người ghi thành tích—nhưng cảm giác đứng bên ngoài xem đồng đội tập luyện thật là khó chịu, trong khi thường ngày lẽ ra mình phải chạy bên cạnh họ. Thêm nữa, vì tôi có nhiều thời gian hơn, mẹ tôi muốn tôi làm nhiều việc hơn cho gia đình. Nấu ăn, dọn dẹp, mua sắm và chăm sóc cho em gái thường xuyên hơn.

Mẹ một mình nuôi dưỡng hai chị em tôi. Mẹ thấp người, béo phì và hút thuốc lá mỗi ngày một bao—mặc dù bà làm việc ở bệnh viện Mercy, nhân viên xử lý thanh toán, tức là bà hiểu hết các rủi ro về sức khỏe. Beth và tôi luôn muốn mẹ bỏ thuốc; chúng tôi luôn giấu bao thuốc Newport của bà dưới ghế sô pha hoặc những chỗ mà bà sẽ không bao giờ ngờ đến. Nhưng mẹ sẽ đi thẳng ra ngoài và mua một bao khác. Bà nói rằng hút thuốc là cách bà giải tỏa căng thẳng, rằng chúng tôi phải tránh xa, đừng động vào thuốc của bà nữa. Bà luôn miệng nhắc nhở hai chị em rằng chúng tôi không có ông bà, không có cô dì chú bác, và chắc chắn trong tương lai gần bà sẽ không đi bước nữa—thế nên ba người chúng tôi phải nương tựa giúp đỡ nhau. Tôi lớn lên với điệp khúc được lặp đi lặp lại: nương tựa nhau mà sống.

Một năm có khoảng ba hoặc bốn ngày thứ Bảy, bệnh viện sẽ triệu tập mẹ tới các buổi “làm thêm ngoài giờ bất ngờ nhưng không thể chối từ” để xử lý những tranh chấp thanh toán lớn mà không ai giải quyết được. Một tối thứ Sáu, mẹ nhận được điện thoại và bảo rằng ngày hôm sau bà phải đi làm. Sau đó, bà bảo tôi phải lái xe đưa em gái tới công viên Storybook Land.

“Con à? Sao lại là con?”

“Bởi vì mẹ đã hứa sẽ đưa em đi.”

“Thì đi vào Chủ nhật ấy. Mẹ được nghỉ Chủ nhật mà.”

“Nhưng Beth muốn đi cùng Chenguang, và Chenguang chỉ có thể đi được vào thứ Bảy.”

Chenguang là đứa bạn thân nhất của em gái tôi, một con bé kì quặc với bộ tóc nhuộm hồng và hay vẽ ria mèo lên má. Con bé và Beth cùng tham gia một câu lạc bộ phim hoạt hình nào đó.

“Nhưng ngày mai con có buổi tập mà! Ở Valley Forge. Phải 3 giờ con mới về.”

“Bỏ buổi tập đi, mẹ tôi nói. “Con có chạy đâu. Đồng đội đâu cần con.”

Tôi cố gắng giải thích cho mẹ rằng sự hiện diện của tôi sẽ mang đến sự khích lệ tinh thần vô cùng to lớn cho các đồng đội, nhưng mẹ không tin. “Con sẽ đưa Beth và Chenguang đi.”

“Bọn nó lớn tướng rồi còn đi Storybook Land! Đấy là công viên cho bọn nít ranh mà!”

“Nhưng trớ trêu là chúng nó vẫn thích đi.” Mẹ mở cửa sau nhà, châm một điếu thuốc và nhả khói qua lớp cửa lưới. “Chúng nó biết là chúng nó đã quá lớn để tới đó, đó là lí do chúng nó muốn đi.” Mẹ nhún vai như kiểu đó là một điều hoàn toàn hợp lí mà con người ta vẫn làm.

Sáng hôm sau—nhằm thứ Bảy ngày 7 tháng Mười—Chenguang tới nhà chúng tôi, mặc một chiếc áo màu vàng có in hình con kì lân trắng lấp lánh và quần bò phai. Con bé đang nhâm nhi kẹo dẻo dài như mì sợi, và nó mời tôi ăn cùng. Tôi lắc đầu và bảo thứ đó chỉ dành cho con nít. Beth từ trên nhà xuống và con bé cũng mặc chiếc áo phông kì lân và quần bò y hệt. Rõ ràng là hai đứa chúng nó đã thống nhất ăn mặc giống nhau từ trước, và tất cả là một phần trong chuyến phiêu lưu điên khùng, quái đản của chúng tôi.

Tôi khăng khăng đòi rời khỏi nhà vào lúc 9 giờ sáng. Kế hoạch là chúng tôi sẽ lên tới đường cao tốc trong khi các đồng đội đang chạy, và sau đó tôi sẽ gọi điện nghe kết quả ngay khi chúng tôi tới Storybook Land. Nhưng Chenguang bị một vết nhện cắn ngứa mãi không hết, thế nên chúng tôi phải dừng xe ở hiệu thuốc Walgreens để mua Benadryl. Điều này khiến kế hoạch bị muộn mất nửa tiếng và mãi 9 giờ rưỡi chúng tôi mới băng qua cầu Walt Whitman, và tới 9 giờ 45 phút chúng tôi mới nhập vào đường cao tốc Atlantic City. Ba làn đường dành cho ô tô san sát dọc theo bờ biển Jersey, với vận tốc được cho phép là 130km/h. Tôi hạ cửa kính và bật đài Q102 thật to để không phải nghe tiếng Beth và Chenguang cười khúc khích ở ghế sau. Chúng nói chuyện ríu rít không ngừng, chúng liên tục ngắt lời nhau, tranh nhau nói. Điện thoại của tôi được để trên mặt ngăn chứa đồ giữa hai ghế trước. Tôi đang cắm sạc. Tôi nghe thấy chuông báo tin nhắn mới đến át tiếng nhạc—và thêm một tin nữa rồi lại một tin nữa. Tôi biết chắc đó là Lacey, bạn tôi, cô nàng sẽ không bao giờ nhắn một tin vì phải năm tin mới đủ thỏa mãn. Làn đường phía trước không có chiếc xe nào. Tôi cúi nhìn điện thoại, thông báo tin nhắn mới chạy trên màn hình:

CHẾT TIỆT

ỐI GIỜI ƠI

!!!!!!!!

không tin nổi ai về vị trí thứ ba đâu

Đồng hồ trên bảng điều khiển chỉ 9 giờ 58 phút. Tôi nhận ra cuộc đua của các cô gái chắc hẳn đã kết thúc và Lacey đang cần mẫn gửi tôi kết quả. Tôi nhìn đường lần nữa, sau đó nhấc điện thoại lên bằng một tay, nhập mật khẩu và cẩn thận gõ tin nhắn đáp lại: kể đi.

Ba dấu chấm nhấp nháy ở góc màn hình, báo hiệu Lacey đang gõ tin nhắn đáp lời. Tôi còn nhớ giọng ca Ed Sheeran trên đài đang hát về “tòa lâu đài trên ngọn đồi”. Và tôi còn nhớ mình đã liếc nhìn gương chiếu hậu. Có một chiếc SUV đang bám sát sau đuôi, chiếc xe gần chạm sát vào cản sau ô tô, và không nghĩ ngợi nhiều, tôi tăng ga để gia tăng một chút khoảng cách giữa hai xe. Qua gương, tôi nhìn thấy Beth và Chenguang đang chia nhau một sợi kẹo dẻo. Mỗi đứa nhai một đầu giống đôi cún trong phim Tiểu thư và chàng lang thang. Chúng khúc khích cười như hai đứa mất trí, và tôi nhớ đã nghĩ trong đầu: hai đứa này bị sao thế nhỉ? Mấy đứa tuổi teen bình thường có cư xử thế này đâu? Và rồi sau đó điện thoại trong tay tôi rung lên, báo hiệu Lacey đã đáp tin nhắn.

Và rồi sau đó là thứ Tư, tôi tỉnh dậy trong một bệnh viện Vineland, New Jersey. Chân trái của tôi bị gãy, tôi bị dập ba xương sườn, và toàn thân tôi được gắn vào sáu, bảy loại máy móc theo dõi. Mẹ tôi đang ngồi bên cạnh giường, ôm chặt một cuốn sổ gáy xoắn. Tôi định ngồi dậy nhưng toàn thân không thể nhúc nhích. Tôi hốt hoảng. Mẹ bắt đầu nói gì đó mà tôi không rõ. Có một chiếc xe đạp trên đường cao tốc. Một gia đình nọ đã chất đồ đi biển ở đằng sau xe SUV, rồi sau đó một chiếc xe đạp địa hình bị rơi ra. Tất cả các xe đang lưu thông trên cao tốc phải đánh lái để tránh nó. Tôi nói, “Beth đâu rồi?” và gương mặt mẹ suy sụp. Và thế là tôi đã biết chuyện.

Người lái xe phía trước tôi bị gãy xương đòn vai. Mọi người trong chiếc SUV phía sau tôi đều bị các chấn thương nhỏ khác nhau. Chenguang thoát khỏi tai nạn, không hề hấn gì. Em gái của tôi là người duy nhất thiệt mạng, nhưng các bác sĩ nói rằng tôi cũng suýt chết. Ai nấy cũng bảo rằng tôi không nên tự trách mình, rằng tôi không làm gì có lỗi cả. Tất cả đều qui trách gia đình bồng theo cái xe đạp địa hình kia. Một vài cảnh sát tới gặp tôi trong bệnh viện, nhưng sau đó chưa từng có một cuộc điều tra thực sự nào được tiến hành. Một lúc nào đó trong quá trình chiếc xe nhào lộn, điện thoại của tôi đã văng ra khỏi cửa sổ. Hoặc đã bị nghiền nát trong vụ va chạm, hoặc đã bị lạc mất giữa đống hoa dại màu tím mọc cao hai bên lề đường. Tôi không bao giờ biết ai là người đã về vị trí thứ ba.

Sau hai tuần, tôi ra viện, được kê thêm thuốc OxyContin để dùng “khi cần thiết nếu đau”, nhưng tôi lúc nào cũng thấy đau, mọi ngày đều thấy đau, từ lúc thức dậy cho đến khi đổ gục xuống giường. Thuốc cũng nhờn dần đi một chút, và tôi cầu xin các bác sĩ kê thêm—giúp tôi vượt qua dịp Halloween, qua Lễ Tạ ơn, qua Giáng sinh—nhưng đến tháng Hai, tôi đi lại bình thường rồi, và họ dừng cho thuốc.

Cơn đau tồi tệ hơn bất cứ điều gì tôi từng trải qua. Khía cạnh mà người ta không hiểu về OxyContin, hoặc chí ít hồi đó chúng ta thật sự vẫn chưa hiểu rõ về cơ chế của loại thuốc đó. Sau vài tháng, thứ thuốc ấy đã tái lập hoàn toàn bộ não của tôi, kích thích ngày một nhiều hơn các thụ thể cảm nhận cơn đau, và giờ tôi cần OxyContin đơn giản là để tồn tại. Tôi không thể ngủ, hay ăn hay tập trung trong lớp học. Và không ai cảnh báo cho tôi biết chuyện này sẽ xảy ra. Không ai báo cho tôi biết trước tôi sẽ phải trải qua một cuộc vật lộn ghê gớm.

Đây là lúc tôi bắt đầu dựa dẫm vào các bạn học—nhờ các bạn tìm trong nhà tắm, trong phòng ngủ của bố mẹ họ. Thật kinh ngạc với số người có thuốc OxyCotin ở nhà. Và sau cùng khi những nguồn cung đó cạn kiệt, tôi có nhờ một cô bạn, bạn trai cô ấy có quen biết một chỗ bán. Mua loại thuốc Oxy từ người cung cấp này khá là dễ dàng. Những viên thuốc đó, suy cho cùng, vẫn là cùng loại thuốc mà các bác sĩ từng kê đơn cho tôi. Tôi đang mua thuốc uống chứ không phải thuốc gây nghiện. Nhưng số tiền cộng lại thì vô cùng lớn, và chỉ trong vòng một tháng, tôi đã tiêu thâm hụt hết toàn bộ khoản tiết kiệm. Tôi đã phải trải qua ba ngày khốn khổ, chịu đựng những cơn sốt cao, cảm giác buồn nôn, trước khi một người cũng tìm mua thuốc mới quen giới thiệu cho tôi một thứ thay thế rẻ hơn và nhạy hơn.

Heroin nghe thì đáng sợ nhưng cảm giác mà nó mang lại giống hệt thuốc Oxy mà so giá chỉ bằng một phần nhỏ. Bạn chỉ cần vượt qua cảm giác nôn nao khi dùng kim tiêm. Thật may, có rất nhiều video trên Youtube—những video hướng dẫn (bề ngoài là dành cho người tiểu đường) dạy cách tìm tĩnh mạch, dạy cách kéo nhẹ pít-tông và đúng thời điểm, đảm bảo đưa được thuốc vào thẳng mạch máu. Và một khi tiến đến mức thành thạo, mọi thứ chuyển từ tệ thành cực kì tệ.

Tôi tốt nghiệp trung học, vừa đủ điểm đậu, nhờ các thầy cô chiếu cố, cảm thấy tội nghiệp cho tôi. Nhưng tất cả các huấn luyện viên hiểu rõ những chuyện đã xảy ra, và bằng một cách nào đó trường Penn State né tránh chuyện cấp học bổng. Họ đổ lỗi cho vụ tai nạn và cho những chấn thương của tôi; họ cho rằng dù có trị liệu thế nào đi nữa, tôi cũng không thể kịp sẵn sàng hồi phục vào mùa thu, và tôi không nhớ mình cảm thấy thất vọng như thế nào. Tôi thậm chí còn không nhớ được nhận tin tức đó nữa. Khi họ đến gặp mẹ tôi, tôi đã lang thang qua đêm ở khu Northern Liberties, đã ngủ nhờ trên ghế sô pha ở nhà người bạn mới quen tên Issac, một gã đã 38 tuổi.

Sau tốt nghiệp trung học là một khoảng thời gian dài tôi sống chủ yếu để kiếm thuốc, và kiếm tiền để mua thêm thuốc—bất kì loại thuốc nào. Nếu không mua được Oxy hay heroin, tôi sẽ thử bất kì thứ gì có sẵn. Mẹ đã dành rất nhiều thời gian và tiền bạc cố gắng giúp đỡ tôi, nhưng tôi hãy còn trẻ trung và xinh đẹp trong khi bà mỗi ngày mỗi già nua, tiền bạc cạn sạch và béo phì lên; bà chẳng có gì để giúp được tôi. Một ngày bà đang ở trên chuyến xe buýt số 17 thì bị đột quỵ; bà đã suýt tắt thở khi được xe cấp cứu đưa tới viện. Và mãi sáu tháng sau, tôi mới biết chuyện, đó là khi tôi dừng chân ở trại cai nghiện và cố gắng gọi cho mẹ để báo cho bà biết tin tốt lành. Bà nghĩ là tôi muốn moi thêm tiền nên cúp máy.

Tôi gọi lại thêm vài lần nữa, nhưng bà chưa từng bắt máy, thế là tôi đã để lại những tin nhắn thoại dông dài, thừa nhận vụ tai nạn tất cả là lỗi do tôi và xin lỗi bà về mọi chuyện. Thời điểm đó, tôi đang sống ở Safe Harbor và hoàn toàn tỉnh táo, nhưng tất nhiên mẹ chẳng đặt niềm tin ở tôi. Đến tôi còn chẳng tin mình. Cuối cùng, một ngày có một người đàn ông bắt máy. Ông ta xưng tên là Tony, một người bạn của mẹ, và còn thông báo rằng mẹ không muốn nghe thêm tin tức của tôi nữa. Và lần tiếp theo tôi gọi, số máy đó đã bị ngắt kết nối.

Đã hai năm rồi, tôi chưa nói chuyện với mẹ lần nào. Tôi cũng chẳng biết đã có chuyện gì xảy đến với bà nữa. Thế nhưng, tôi biết tôi có rất, rất nhiều lí do để cảm thấy mình may mắn. Tôi cảm thấy may mắn khi không bị nhiễm HIV hay viêm gan. Tôi may mắn vì chưa từng bị cưỡng hiếp. Tôi biết ơn người lái xe Uber đã cấp cứu cho tôi bằng Narcan khi tôi ngất lịm ở ghế sau chiếc Prius của chị ấy. Tôi biết ơn vị thẩm phán đã cho tôi tới trại cai nghiện chứ không phải nhà tù. Và tôi cảm thấy may mắn vì đã gặp được Russell, được bác đồng ý bảo trợ cho tôi và động viên tôi bắt đầu tập chạy trở lại. Tôi không bao giờ có thể sống được như hôm nay nếu không có sự giúp đỡ của bác ấy.

Adrian không ngắt lời tôi bằng những câu hỏi. Anh chàng cứ để cho tôi nói, nói mãi, cho tới khi tôi nói đến ý chính sau cùng: “Em sẽ luôn luôn cảm thấy có lỗi về những chuyện đã xảy ra. Mọi người ai nấy đều trách người cầm lái làm rơi chiếc xe đạp. Nhưng nếu em tập trung hơn…”

“Cũng không chắc mà, Mallory. Có thể em sẽ đánh lái mà cũng có thể là không.”

Nhưng tôi biết tôi đã có suy nghĩ đúng đắn.

Tôi luôn nghĩ nghiêm túc về chuyện đó.

Nếu tôi có thể quay lại đúng lúc đó và được làm lại mọi thứ, tôi sẽ chuyển làn hoặc đánh lái hoặc đạp phanh và mọi chuyện sẽ vẫn yên ổn.

“Bọn em từng ngủ chung phòng với nhau, em đã kể chưa nhỉ? Bọn em ngủ trên giường tầng, và cả hai đứa đều không ưa chuyện đó, bọn em kêu ca với mẹ suốt. Bọn em bảo với mẹ rằng tụi con là hai đứa duy nhất trong cả khu này phải ngủ chung phòng với nhau, và điều đó thật là phiền toái quá thể! Thế rồi sau tai nạn, cái ngày mà em từ viện về, mẹ đưa em về nhà, và em bước lên giường tầng và…” Và tôi không thể bộc bạch nốt phần còn lại. Tôi không thể kể cho anh nghe căn phòng không có Beth yên ắng tới mức nào, tôi không thể ngủ được khi không có tiếng thở của cô em, tiếng sột soạt khi nó đạp chăn.

“Khoảng thời gian đó hẳn rất khó khăn,” Adrian nói.

“Em nhớ con bé rất nhiều. Mỗi ngày. Có lẽ đó là lí do mà em đã nói dối anh, Adrian ạ, em không biết nữa. Nhưng em thề là em không hề nói dối thêm bất kì chuyện nào khác. Em không nói dối về cảm giác của mình, và em không nói dối về những bức vẽ. Em không có kí ức gì về chuyện đã vẽ chúng. Nhưng em đoán chắc hẳn là em đã vẽ. Em biết đó là cách lí giải duy nhất hợp logic. Em sẽ rời Spring Brook vào thứ Hai. Em sẽ sống với người bảo trợ vài tuần. Cố gắng để đầu óc thư thái và suy nghĩ đúng đắn. Em xin lỗi vì đã hành xử như một kẻ mất trí như vậy.”

Cuộc nói chuyện của chúng tôi đã tới đoạn mà tôi hi vọng Adrian sẽ nói gì đó—có thể không phải là “anh tha lỗi cho em”, tôi biết đòi hỏi như thế là quá đáng, nhưng chí ít cũng phản ứng gì đó khi tôi đã trải hết lòng mình, đã chia sẻ câu chuyện mà tôi chưa từng chia sẻ với ai bên ngoài các buổi gặp mặt với những người cai nghiện khác.

Thế nhưng, anh chàng đứng dậy và bảo, “Chúng ta nên đi tiếp thôi.”

Chúng tôi băng qua bãi cỏ hướng về phía bãi đậu xe. Có ba đứa bé trai đang chơi bên cạnh xe của Adrian, chúng chĩa ngón tay vào nhau giả làm súng và bắn đi những phát đạn giả. Khi chúng tôi tiến lại gần hơn, cả ba đứa lao như bay khỏi bãi đỗ xe trải nhựa, hò reo, la hét và vẫy tay như điên như dại. Chúng làm tôi nhớ đến bọn con trai ở sân chơi. Cả bọn chắc tầm năm hay sáu tuổi, và trông chúng khác hẳn Teddy trầm tĩnh, nội tâm, lúc nào cũng chỉ thích tìm đến sách ảnh và sổ vẽ.

Adrian không nói gì cả cho tới khi chúng tôi ngồi vào xe. Anh chàng nổ máy, mở điều hòa nhưng không chuyển sang số lái. “Nghe này, khi anh rời chỗ em chiều qua, anh cảm thấy khá bực bội. Không phải bởi vì em nói dối anh—như thế đã tệ lắm rồi. Nhưng em đã lừa dối bố mẹ anh và tất cả bạn bè của họ. Chuyện đó thực sự rất mất mặt, Mallory ạ. Anh không biết làm sao để giãi bày với họ.”

“Em biết, Adrian. Em rất xin lỗi.”

“Nhưng vấn đề là thế này: sau khi rời chỗ em ngày hôm qua, anh không thể về nhà. Bố mẹ biết chuyện bọn mình hẹn hò, và anh không muốn gặp họ, anh không muốn kể cho họ là mọi việc đã vỡ lở. Thế là anh đã đi xem phim. Có một bộ phim Marvel mới chiếu, và có vẻ đó là một cách hay để giết thời gian. Thật ra anh đã ở lại và xem lại lần thứ hai, như vậy anh có thể về nhà sau khi quá nửa đêm. Và cuối cùng khi anh lên lầu về phòng ngủ, có thứ này đã chờ sẵn trên bàn anh.”

Anh với tay qua ghế trước và mở hộc đựng đồ, để lộ ra một tờ giấy được vẽ kín bằng chì đen.

“Giờ thì nói sao về cảm giác điên rồ đây? Là em đã lẻn vào nhà anh, đi lên phòng ngủ của anh và để lại bức vẽ này trong khi bố mẹ anh ở nhà suốt cả tối ư? Cũng có thể là bé Teddy năm tuổi đã lẻn vào nhà anh chăng? Hay là bố mẹ nó? Nhưng anh nghĩ không phải vậy, Mallory ạ.” Adrian lắc đầu. “Anh nghĩ cách lí giải hợp lý nhất là toàn bộ chuyện này, em đã đúng. Là Anya đã vẽ những bức tranh này. Và cô ấy muốn anh biết là em đang nói thật.”