CHƯƠNG 23

Viên cảnh sát này còn trẻ—không thể quá hai mươi lăm—đầu húi cua, đeo kính râm, và hai cánh tay lực lưỡng xăm kín. Không có lấy một khoảng da hở từ cổ tay cho tới mép tay áo—tất cả đều là những hình xăm cờ sao, đại bàng đầu trắng, và các đoạn trong Hiến pháp.

“Bọn em đang kiểm tra xem Mitzi thế nào,” Adrian giải thích. “Cửa nhà bác ấy để mở nhưng bác ấy không có ở đây.”

“Rồi hai đứa làm gì? Cứ thế mà vào nhà người ta sao? Nghĩ rằng có thể ngó nghiêng nhà người ta à?” Gã cho rằng những lời chúng tôi nói rất lố bịch, mặc dù đó chính xác là những gì đã diễn ra. “Tôi muốn hai người mở cửa và từ tốn bước ra ngoài, hiểu chưa?”

Tôi nhận ra có hai cảnh sát nữa ở ngoài mép sân, đang căng những đoạn dây ruy băng dài màu vàng giữa các gốc cây. Xa hơn nữa, ở sâu trong rừng, tôi nhìn thấy bóng sáng của người đang di chuyển, họ mặc áo khoác với bề mặt phản quang. Tôi nghe thấy tiếng người í ới gọi nhau thông báo đã phát hiện được cái này cái kia.

“Có chuyện gì vậy ạ?” Adrian hỏi.

“Cho tay lên tường, viên cảnh sát nói.

“Anh nghiêm túc đấy à?”

Adrian sửng sốt—tất nhiên rồi, đây là lần đầu tiên anh chàng được trải nghiệm cảnh huống bị cảnh sát lục soát.

“Cứ làm đi,” tôi bảo với anh.

“Thật là vớ vẩn, Mallory. Em đang mặc quần đùi thể thao? Em giấu vũ khí thế nào được.”

Nhưng chỉ cần nhắc đến từ “vũ khí” thì tình hình có vẻ đã căng thẳng hơn. Giờ thì hai cảnh sát căng dải băng vàng đang tiến lại chỗ chúng tôi với vẻ mặt quan ngại. Tôi chỉ làm theo chỉ dẫn và làm những gì được bảo. Tôi áp hai lòng bàn tay lên bức tường gạch; tôi cúi thấp đầu và đưa mắt nhìn sân cỏ trong lúc viên cảnh sát dùng tay vỗ quanh eo.

Adrian hằn học đứng bên cạnh tôi và ghì chặt hai lòng bàn tay lên tường. “Đúng thật là vớ vẩn.”

“Im mồm lại đi,” viên cảnh sát nói với anh chàng.

Nếu không phải vì quá sợ, không dám lên tiếng, tôi sẽ nói với Adrian rằng viên cảnh sát này thực ra đang rất lịch sự—tôi từng biết mấy tay cớm ở Philadelphia sẽ ghì chặt, còng tay, úp mặt người ta xuống sàn đá dăm vào cái lúc đáng ra chỉ cần chào hỏi nhau. Adrian có vẻ nghĩ rằng anh không cần thiết phải nghe theo lời họ, rằng anh, bằng một cách nào đó, ở ngoài vòng luật lệ kiểu này.

Sau đó, một người đàn ông và một người phụ nữ vòng qua hông ngôi nhà rồi tiến đến. Gã kia da trắng cao ráo, còn chị nọ thấp đậm và da đen; cả hai người họ đều hơi to béo, quá khổ một chút. Họ gợi nhắc tôi nhớ tới các giáo viên tư vấn hướng nghiệp của mình hồi trung học. Họ mặc quần áo công sở may sẵn mua ở cửa hàng Marshalls hoặc TJMaxx, và cả hai người đều đeo phù hiệu thanh tra trước ngực.

“Ôi trời, Darnowsky, thôi nào,” gã kia gọi lớn. “Cậu đang làm gì cô bé đó thế hả?”

“Cô ta ở trong nhà! Anh nói nạn nhân sống một mình mà.”

“Nạn nhân gì?” Adrian hỏi. “Bác Mitzi có sao không?”

Thay vì trả lời câu hỏi, họ tách chúng tôi ra. Thanh tra nam dẫn Adrian đi qua sân, còn chị thanh tra nọ bảo tôi ngồi xuống chỗ cái bàn sắt uốn đã hoen gỉ ở ngoài hiên. Chị ta kéo khóa cái túi đeo trước bụng, lấy ra hộp kẹo ngậm bạc hà Altoids, và bỏ một viên vào miệng. Sau đó, chị ta để mở hộp và mời tôi, nhưng tôi từ chối.

“Tôi là thanh tra Briggs và đồng nghiệp của tôi, thanh tra Kohr. Cậu cộng sự trẻ của chúng tôi với vô số hình xăm ấy là cảnh sát Darnowsky. Tôi xin lỗi vì sự sốt sắng của cậu ta. Đã lâu lắm rồi chúng tôi mới phát hiện ra người chết, nên tất cả mọi người đều bồn chồn.”

“Bác Mitzi chết rồi ạ?”

“Tôi e là vậy. Cách đây một tiếng, mấy đứa trẻ đã phát hiện ra bà ấy. Nằm trong rừng.” Chị chỉ tay về phía cánh rừng. “Em có thể nhìn thấy bà ấy từ đây, nếu không bị hàng cây chắn đường.”

“Đã có chuyện gì thế ạ?”

“Hãy bắt đầu bằng tên của em trước đi. Em là ai, sống ở đâu và vì sao lại quen Mitzi?”

Tôi đánh vần tên của mình, và cho chị xem bằng lái xe, sau đó chỉ về phía căn chòi ở phía bên kia sân. Tôi giải thích rằng tôi làm việc cho gia đình sống liền kề. “Ted và Caroline Maxwell. Em trông con cho họ, và em sống trong chòi nghỉ dành cho khách.”

“Tối qua em có ngủ trong chòi không?”

“Tối nào, em cũng ngủ ở đó.”

“Em có nghe thấy gì bất thường không? Âm thanh gì đó chẳng hạn?”

“Không ạ, nhưng em đi ngủ từ sớm. Và tối qua trời mưa lớn, em chỉ nhớ được vậy. Tiếng gió và tiếng sấm ầm ầm, nên em chẳng nghe thấy gì. Chị có nghĩ bác Mitzi…” Tôi không thể thốt ra từ “chết”; tôi vẫn không thể tin được Mitzi đã qua đời.

“Chúng tôi chỉ vừa mới bắt đầu điều tra,” Briggs nói. “Lần cuối em thấy bà ấy là khi nào?”

“Không phải hôm qua mà là từ hôm trước đó. Sáng thứ Năm. Bác ấy tới căn chòi của em vào khoảng 11 giờ rưỡi.”

“Để làm gì?”

Thật xấu hổ khi kể ra, nhưng dù thế tôi vẫn kể sự thật cho chị ta nghe. “Mitzi là một bà đồng. Bác ấy nghĩ rằng căn chòi của em bị ma ám. Thế nên bác ấy mang bảng cầu hồn sang—kiểu như một cái tấm cầu cơ ấy. Và bọn em đã có kết nối với hồn ma.”

Briggs có vẻ thấy hứng thú. “Có tác dụng không?”

“Em không chắc nữa. Bọn em nhận được một số chữ cái, nhưng nó không có nghĩa mấy.”

“Bà ấy có thu tiền của em không?”

“Không ạ, bác ấy bảo giúp miễn phí.”

“Mấy giờ thì xong việc?”

“1 giờ chiều. Em chắc chắn bởi vì Adrian cũng có mặt ở đó. Vào giờ nghỉ ăn trưa. Anh ấy phải về để đi làm tiếp. Và đó là lần cuối cùng em gặp bác ấy.”

“Em có nhớ bà ấy mặc gì không?”

“Quần màu xám, áo màu tím. Dài tay. Tất cả đều rộng lùng thùng. Và rất nhiều trang sức—nhẫn, vòng cổ, vòng tay. Mitzi luôn mang rất nhiều trang sức.”

“Thú vị đấy.”

“Sao lại thế ạ?”

Briggs nhún vai. “Lúc này, bà ấy không đeo gì cả. Bà ấy thậm chí còn không đi giày. Chỉ mặc đầm ngủ. Mitzi có phải kiểu người sẽ mặc đầm ngủ ra ngoài không?”

“Không đâu, thực sự thì em nghĩ bác ấy là kiểu người ngược lại thì có. Bác ấy rất chăm chút ngoại hình. Đó là một kiểu lập dị, nhưng là xì tai của bác ấy, chị hiểu ý em chứ.”

“Có khi nào bà ấy mắc phải chứng mất trí không?”

“Không đâu. Mitzi lo lắng rất nhiều thứ khác nhau, nhưng suy nghĩ của bác ấy rất sắc sảo.”

“Thế tại sao lúc này bọn em lại ở trong nhà bà ấy?

“Ừm, có thể chuyện này nghe rất ngu ngốc, nhưng em có một khúc mắc về buổi gọi hồn. Bọn em đang thắc mắc không biết có khi nào linh hồn đó dùng một ngôn ngữ khác, thế nên các chữ cái mới không ghép thành từ gì đó có nghĩa. Bọn em muốn hỏi bác Mitzi có khả năng như thế không. Cửa sau mở, thế nên em biết chắc hẳn bác ấy đang ở nhà. Adrian nghĩ rằng có thể bác ấy bị làm sao, thế là bọn em vào trong để xem bác ấy có ổn không thôi.”

“Bọn em có chạm vào cái gì không? Có sờ mó gì vào tài sản của bà ấy không?”

“Em mở cửa phòng ngủ. Để xem có khi nào bác ấy đang ngủ. Và em nghĩ em đã tắt tiếng ti vi của bác ấy. Bác ấy mở to lắm, bọn em chẳng nghe được gì khác.”

Briggs cúi nhìn thắt lưng của tôi, và tôi nhận ra chị đang quan sát các túi quần của tôi. “Em có lấy gì từ trong nhà đi không?”

“Không, tất nhiên là không ạ.”

“Vậy em có phiền lộn túi quần ra không? Tôi tin là em nói thật, nhưng để tốt hơn cho tất cả mọi người, tôi vẫn nên kiểm tra thử.”

Tôi thấy may vì Adrian đã giữ tờ ghi chú kết quả buổi gọi hồn, thế nên tôi không cần phải nói dối.

“Tạm thời đó là tất cả các câu hỏi của tôi,” chị ta nói. “Em còn thông tin gì có thể có ích nữa không?”

“Ước gì em biết thêm. Chị có biết đã có chuyện gì không?”

Chị ta nhún vai. “Không có dấu vết chấn thương. Tôi không nghĩ đã có người tấn công bà ấy. Và khi mà tìm được xác một người già ở ngoài trời? Lại mặc đồ ngủ như thế? Thông thường đó là do sai sót khi dùng thuốc. Họ đã uống lẫn các loại thuốc hoặc dùng thuốc quá liều. Bà ấy có từng nhắc đến việc dùng thuốc kê đơn không?”

“Không ạ,” tôi đáp, đây là câu trả lời chân thành. Tôi muốn nhắc tới những cái nắp bơm tiêm, đoạn dây garo và mùi khói thuốc cay sộc bám theo Mitzi như một đám mây. Nhưng chắc chắn Briggs sẽ tự phát hiện ra tất cả những điều này, sau khi dạo nhanh một vòng quanh căn nhà.

“Ừm, cảm ơn em đã dành thời gian. Và làm ơn hãy gửi lời tới vợ chồng Maxwell được không? Ted và Caroline nhỉ? Tôi muốn nói chuyện với tất cả hàng xóm.”

Tôi giải thích rằng họ đã đi biển chơi tới hết ngày, song tôi cho chị ta số điện thoại của họ. “Họ không biết rõ Mitzi đâu, nhưng em dám chắc họ sẽ giúp hết sức có thể.”

Chị ta quay người định rời đi—nhưng lại đổi ý và đứng lại. “Một câu hỏi cuối cùng hơi không liên quan chút, nhưng tôi cần phải biết: Hai người định liên lạc với hồn ma nào vậy?”

“Tên của bà ấy là Annie Barrett. Ngày trước bà ấy từng sống trong căn chòi của em. Hồi những năm 1940. Mọi người nói rằng…”

Briggs bắt đầu gật gù. “À, tôi biết rõ chuyện Annie Barrett mà. Tôi là dân địa phương, lớn lên ở Corrigan, phía bên kia khu rừng. Nhưng bố tôi vẫn luôn nói rằng câu chuyện đó là chuyện đơm đặt. Đó là cách ông ấy ám chỉ những câu chuyện dối trá, không có thật.”

“Annie Barrett có thật. Em có một cuốn sách đề cập đến các bức vẽ của bà ấy. Tất cả mọi người ở Spring Brook đều biết ít nhiều về bà ấy.”

Thanh tra Briggs có vẻ định phản bác, nhưng chị ta khựng lại không nói gì nữa. “Tôi sẽ không phá hỏng một câu chuyện hay. Nhất là vào lúc này còn có một bí ẩn lớn hơn nhiều trong cánh rừng đằng kia.” Chị ta đưa cho tôi một tấm danh thiếp. “Nếu em nhớ ra thêm được gì, hãy gọi cho tôi.”

Adrian và tôi ngồi thêm chừng một tiếng đồng hồ sau đó bên hồ bơi, quan sát đám đông chộn rộn ở sân sau nhà Mitzi và chờ đợi những tiến triển mới. Đó hiển nhiên là việc lớn ở Spring Brook bởi vì sân sau hiện diện đông đảo nào cảnh sát, lính cứu hỏa, nhân viên cấp cứu, và một nhân vật mà Adrian nhận ra là Thị trưởng thành phố. Tất cả mọi người có vẻ cũng chẳng làm gì nhiều, chỉ là rất đông người tụ tập đứng loanh quanh và nói chuyện. Nhưng cuối cùng có bốn nhân viên cấp cứu với vẻ mặt như đưa đám từ trong rừng đi ra, mang theo một cái túi nhựa dẻo có khóa kéo được đặt trên cáng, và rất nhanh sau đó, đám đông vãn bớt.

Caroline từ chỗ nghỉ mát gọi điện về để xem tôi thế nào. Chị bảo chị đã nghe tin từ thanh tra Briggs và chị cảm thấy hoàn toàn “suy sụp” trước tin đó. “Ý chị là tất nhiên chị không thích người phụ nữ đó lắm. Nhưng chị chẳng mong bất cứ ai phải chết kiểu như vậy. Họ đã tìm hiểu được sự tình thế nào chưa?”

“Họ nghĩ có thể là do dùng sai thuốc.”

“Em có muốn biết điều kì lạ nhất là gì không? Thật ra bọn chị đã nghe thấy tiếng Mitzi gào thét vào tối thứ Năm. Ted và chị đang ngồi ngoài bể bơi. Bọn chị đang tranh cãi một chút, chị đoán là em cũng biết rồi. Và rồi đột nhiên bọn chị nghe thấy tiếng Mitzi quát tháo một ai đó trong nhà. Bảo người đó biến đi, ý muốn nói rằng người đó không được chào đón. Bọn chị nghe thấy rõ mọi điều bà ấy nói.”

“Thế chị đã làm gì?”

“Chị đã chuẩn bị gọi cảnh sát. Thực ra là chị đã bấm số 911 và điện thoại đang đổ chuông rồi. Nhưng sau đó, Mitzi bước ra ngoài. Bà ấy mặc đầm ngủ, và giọng của bà ấy hoàn toàn thay đổi. Bà ấy đang gọi với theo người kia, bảo người kia chờ bà ấy. ‘Tôi muốn đi theo cùng’ bà ấy nói như vậy. Và có vẻ như mọi chuyện lại bình thường trở lại, thế là chị dập máy và quên luôn chuyện đó.”

“Chị có nhìn thấy người đó không?”

“Không, chị cứ nghĩ đó là khách hàng của bà ấy.”

Tôi cảm thấy chuyện này thật khó tin. Tôi không nghĩ Mitzi lại chào đón khách vào nhà sau khi trời tối. Lần đầu tiên, tôi tới gặp bà ấy, lúc đó mới chỉ có 7 giờ tối, và bà đã hỏi tôi, tại sao lại gõ cửa muộn như vậy.

“Nghe này, Mallory, em có muốn bọn chị quay về sớm không? Chị cảm thấy thật tệ khi em chỉ có một mình, khi em phải tự giải quyết chuyện này.”

Tôi quyết định sẽ không nhắc tới Adrian đang ngồi cạnh tôi bên hồ, nghiền ngẫm tờ giấy ghi chú mà chúng tôi lấy được từ nhà của Mitzi, vẫn quyết tâm giải mã cho kì được.

“Em không sao đâu,” tôi nói với chị.

“Em chắc chứ?”

“Chị cứ ở lại đến lúc nào cũng được. Teddy chơi vui chứ?”

“Thằng bé thấy buồn vì em phải rời đi, nhưng không khí biển đúng thật giúp nó khuây khỏa nhiều.” Tôi nghe thấy tiếng Teddy ở đằng xa, rất hào hứng, hò hét về thứ gì đó mà thằng bé bắt được trong xô đựng cát. “Chờ chút, con yêu, mẹ đang nói chuyện với chị Mallory…”

Tôi bảo chị hãy đi chơi vui và đừng lo cho tôi, rồi cúp máy. Sau đó, tôi kể lại đầu đuôi cuộc nói chuyện cho Adrian nghe—đặc biệt là phần về vị khách bí ẩn ghé thăm Mitzi lúc tối muộn.

Tôi có thể nhìn ra từ phản ứng của anh chàng là cả hai chúng tôi đang có chung một kết luận, và cả hai đều quá bồn chồn không thể thốt ra.

“Em nghĩ đó là Anya sao?” Anh chàng hỏi.

“Mitzi sẽ không bao giờ mặc đồ ngủ gặp khách hàng đâu. Lại còn không đeo nữ trang nữa. Bác ấy luôn có những suy nghĩ rất phù phiếm về vẻ bề ngoài của mình.”

Adrian nhìn đám cảnh sát và nhân viên cấp cứu vẫn đang lăng xăng đi quanh khu rừng. “Vậy em nghĩ đã có chuyện gì?”

“Em không biết nữa. Em vẫn luôn tự nhủ với bản thân là Anya sẽ không làm gì bạo lực, rằng cô ấy là một linh hồn nhân từ, nhưng đó chỉ là đoán mò thôi. Tất cả những gì em thực sự biết, đó là cô ấy bị giết hại dã man. Có kẻ nào đó đã kéo xác cô ấy vào rừng và ném xuống một cái hố. Có thể cô ấy mang nhiều oán hận và muốn trả thù tất cả mọi người sống ở Spring Brook. Và Mitzi là người đầu tiên mà cô ấy truy đuổi.”

“Ừ, nhưng tại sao lại là bây giờ? Mitzi đã sống ở đây bảy mươi năm. Tại sao Anya lại đợi lâu đến thế mới bắt đầu cơn thịnh nộ?”

Đó là một câu hỏi hợp lý. Tôi không biết nữa. Adrian cắn đầu bút chì và tiếp tục tập trung vào những chữ cái lộn xộn, làm như chúng sẽ cho hai đứa tôi câu trả lời cho tất cả những khúc mắc của mình. Tại căn nhà bên cạnh, đám đông đã dần dần giải tán. Lính cứu hỏa đã rời đi, và tất cả hàng xóm đã tản hết. Chỉ còn lại vài cảnh sát, và việc cuối cùng mà họ làm là niêm phong cửa sau bằng hai đoạn băng dài màu vàng có in chữ CẤM VÀO. Chúng được bắt chéo vào nhau ở chính giữa, tạo thành một chữ X khổng lồ, một hàng rào ngăn cách giữa căn nhà và thế giới bên ngoài.

Rồi tôi liếc nhìn xuống tờ giấy ghi chú của Mitzi, và lời giải đột nhiên trở nên thật rõ ràng.

“Là chữ X,” tôi nói với Adrian. “Chúng không phải chữ X.”

“Em đang nói gì vậy?”

“Anya biết chúng ta không nói ngôn ngữ của cô ấy. Thế nên cô ấy để chữ X giữa các từ. Như một hàng rào ngăn cách. Chúng là khoảng trống, không phải là chữ cái.”

“Ở đâu vậy?”

Tôi cầm lấy cây bút chì từ tay anh chàng và chép lại các chữ cái, chia mỗi từ thành một dòng.

“Thế này trông giống một ngôn ngữ rồi đấy,” tôi nói. “Giống ngôn ngữ của người Slav. Là tiếng Nga à? Hay có thể là tiếng Ba Lan?”

Adrian mở điện thoại và nhập từ đầu tiên vào Google Dịch. Kết quả hiện ra ngay lập tức: Igen là một từ Hungary, nghĩa là “phải”. Bắt đầu từ đây, việc dịch toàn bộ lời nhắn trở nên thật dễ dàng: PHẢI X CẢNH GIÁC X KẺ CẮP X CỨU X HOA.

“Cứu Hoa là sao?” Adrian hỏi. “Thế nghĩa là sao nhỉ?”

“Em không biết.” Tôi nhớ lại những bức tranh mà tôi đã lấy ra từ trong thùng rác tái chế—chẳng phải có một trang giấy vẽ hoa nở sao? “Nhưng điều này chắc chắn lí giải vì sao cô ấy phải dùng tranh vẽ. Tiếng mẹ đẻ của cô ấy là tiếng Hungary.”

Adrian mở điện thoại ra và chụp lại trang giấy. “Em phải nhắn cái này cho Caroline. Đây là bằng chứng chứng tỏ em không dựng chuyện.”

Tôi ước gì bản thân có được sự tự tin của anh chàng. “Cái này chẳng chứng minh được gì cả. Chỉ là mấy chữ cái mà bất kì ai đều có thể viết lên giấy. Chị ấy sẽ vu vạ cho em đã đi mua cuốn từ điển tiếng Hungary cho mà xem.”

Nhưng Adrian vẫn không nản lòng. Anh chàng đọc đi đọc lại các từ, giống như anh hi vọng sẽ tìm ra được ý nghĩa nào đó sâu hơn ẩn trong chúng. “Em cần phải cẩn thận, em phải cảnh giác kẻ cắp. Nhưng ai là kẻ cắp? Hắn đã lấy cắp thứ gì?”

Có quá nhiều mảnh ghép trong câu đố, và đầu tôi bắt đầu cảm thấy đau. Tôi có cảm giác như chúng tôi đang cố đóng một miếng gỗ vuông vào một cái lỗ tròn—hoặc cố áp một giải pháp thật dễ dàng vào một vấn đề cực kì phức tạp. Tôi đang rất rất cố gắng tập trung và suy nghĩ, tôi cáu phát điên khi điện thoại bắt đầu đổ chuông, làm phân tán sự tập trung nãy giờ.

Nhưng rồi tôi nhìn tên người gọi.

Là viện dưỡng lão Rest Haven ở Akron, Ohio.