CHƯƠNG 8

Tối hôm đó, cả gia đình ăn tối ở ngoài. Caroline mời tôi tham gia, nhưng tôi nói với chị là tôi phải tập chạy. Sau đó, tôi chạy loanh quanh quanh căn chòi cho tới khi nghe thấy tiếng xe hơi của chị rời khỏi đường dẫn.

Rồi lát sau tôi băng qua sân cỏ, đi sang nhà hàng xóm.

Mitzi có căn nhà thuộc loại nhỏ nhất trong khu, một ngôi nhà dài kiểu nông trại xây bằng gạch đỏ, lợp mái tôn và mỗi cửa sổ đều lắp rèm cuốn hạ kín bưng. Ngôi nhà này xem ra khá hợp với khu nhà cũ của tôi ở Nam Philly, chứ ở đây, trong khu Spring Brook xa hoa, trông nó thật chướng mắt. Máng nước mưa hoen gỉ đã võng cả xuống, cỏ bật mầm trong những vết nứt trên vỉa hè, và sân cỏ trước nhà vạt xanh vạt vàng lẫn lộn, hẳn là cần đến bàn tay chăm sóc của Ông hoàng sân cỏ. Caroline đã từng nhận xét không dưới một lần rằng chị rất mong Mitzi sẽ chuyển đi, để một chủ thầu có thể san phẳng căn nhà và xây mới.

Có một tờ giấy nhỏ viết tay dán ở cửa trước: CHÀO ĐÓN QUÝ KHÁCH, XIN VÀO LỐI CỬA SAU. Tôi phải gõ cửa ba lần thì Mitzi mới đáp. Bà vẫn cài chốt xích và ghé mắt nhìn qua khe cửa rộng chừng ba phân. “Có gì không?”

“Cháu là Mallory. Ở nhà bên cạnh ạ.”

Bà tháo xích và mở cửa. “Ôi trời đất quỷ thần ơi, cháu làm ta sợ chết khiếp!” Bà đang mặc một chiếc áo kimono tím và nắm chặt trong tay một bình xịt hơi cay nhỏ. “Cháu nghĩ gì mà sang gõ cửa lúc muộn thế này?”

Mới có hơn bảy giờ và mấy bé gái ở góc phố đằng kia vẫn đang chơi nhảy lò cò trên vỉa hè. Tôi chìa một đĩa bánh quy nhỏ được bọc màng ni-lông. “Teddy và cháu làm ít bánh quy gừng này.”

Hai mắt bà mở to. “Để ta pha ít cà phê.”

Bà nắm lấy cổ tay tôi và kéo tôi vào trong gian phòng khách tối om, tôi phải chớp mắt để thích ứng với sự tối tăm bên trong. Căn nhà rất bẩn. Không khí có mùi vừa mốc vừa chua chua, nửa giống mùi cần sa, nửa giống mùi phòng thay đồ ở trường trung học. Ghế sô pha và ghế bành được bọc một lớp nhựa trong, song tôi nhác thấy có một lớp bụi phủ trên mặt ghế, như thể đã vài tháng rồi chưa được lau chùi.

Mitzi dẫn tôi đi vào trong bếp, và tình thật phía sau căn nhà tôi thấy dễ chịu hơn một chút. Rèm được kéo lên và các ô cửa sổ nhìn ra phía khu rừng. Mấy cây cỏ nhện trồng trong giỏ treo trên trần nhà với chùm tua xanh um tùm bao lấy thành cửa sổ. Tủ bếp và đồ dùng giống hệt đồ đạc từ hồi thập niên 80, tất cả mọi thứ trông thân thuộc, ấm áp, giống như gian bếp mấy nhà hàng xóm của tôi ở Nam Philly. Rải trên mặt bàn ăn bằng Formica là những tờ báo và mấy món đồ kim loại màu đen được bôi dầu, bao gồm một cái lò xo, một cái chốt, và một cái ống kính. Tôi nhận ra nếu người ta lắp mớ hổ lốn này theo trật tự thì kết quả sẽ được một khẩu súng lục.

“Cháu sang đúng lúc ta đang dọn dẹp,” Mitzi giải thích, rồi dùng tay gạt mọi thứ sang một bên, khiến chúng trở nên lẫn lộn vào nhau. “Rồi, cháu muốn uống cà phê gì đây?”

“Bác có cà phê đã loại bỏ caffein không ạ?”

“Eo ôi, không, không bao giờ. Cái đó toàn hóa chất thôi. Tối nay, chúng ta sẽ uống cà phê Folgers truyền thống, ngon không tưởng.”

Tôi không muốn thưa với bà là tôi đang cai nghiện, thế nên tôi chỉ nói rằng tôi rất nhạy cảm với chất caffein. Mitzi cả quyết uống một ly sẽ không hề hấn gì đâu, và tôi đoán có lẽ bà nói đúng.

“Thế cháu sẽ uống với sữa, nếu bác có.”

“Chúng ta sẽ bỏ sữa thêm kem béo. Hương vị sẽ ngậy hơn.”

Trên tường treo một chiếc đồng hồ hình mặt mèo với nụ cười ranh mãnh, cái đuôi đung đa đung đưa. Mitzi cắm máy pha cà phê hiệu Mr. Coffee cổ lỗ vào ổ điện trên tường và rót nước vào bình chứa. “Nhà bên đó thế nào? Cháu thích công việc đó chứ?”

“Tốt ạ.”

“Cặp bố mẹ đó hẳn làm cháu phát điên.”

“Họ ổn ạ.”

“Ta chả hiểu sao cái cô vợ phải đi làm, nói thật lòng đấy. Ta dám chắc tay chồng kiếm được bộn tiền. Cháu biết đấy bệnh viện cho cựu chiến binh thì làm gì trả đồng cắc nào. Thế thì sao không ở nhà quách đi? Cô ta định cố thể hiện cho ai xem chứ?”

“Có lẽ…”

“Theo ta thấy, có một số phụ nữ không muốn làm mẹ. Họ muốn có con, họ muốn có những bức ảnh xinh xẻo để đăng Facebook. Nhưng họ có thực sự muốn chăm sóc nuôi nấng con cái hay không?”

“Ừm…”

“Ta nói cháu nghe điều này: Thằng bé rất dễ mến. Ta muốn bẹo má nó. Ta có thể chăm nó miễn phí, nếu họ nhờ vả ta tử tế, nếu họ tỏ thái độ lễ độ với ta dù chỉ một chút. Nhưng cái bọn gen Y nó thế đấy! Chúng chẳng biết tôn trọng giá trị gì cả!”.

Bà cứ luyên thuyên mãi trong lúc chúng tôi ngồi đợi cà phê, kể lể nỗi bực dọc của bà với siêu thị Whole Foods Market (khoản chặt chém), với những nạn nhân của phong trào #metoo (ỉ ôi và cho mình lắm oai quyền), và về chuyện quy ước giờ mùa hè để tiết kiệm điện (chẳng ai nhắc tới trừ Hiến pháp). Tôi bỗng tự hỏi không biết có phải mình đã mắc sai lầm khi sang đây hay không. Tôi cần nói chuyện với ai đó và giờ không dám chắc Mitzi có phải là một người chịu lắng nghe không nữa. Những bức vẽ của Teddy khiến tôi có một giả thiết, nhưng tôi không muốn làm bác Russell lo, và chắc chắn tôi không thể trao đổi chuyện này với vợ chồng Maxwell được: Họ là những người vô thần, tôi biết họ sẽ không bao giờ để tâm đến ý kiến có liên quan mà tôi nêu ra. Mitzi là hi vọng tốt nhất cuối cùng.

“Bác kể cháu nghe thêm về Annie Barrett được không?”

Câu hỏi của tôi khiến bà dừng lải nhải ngay lập tức.

“Sao cháu lại hỏi chuyện đó?”

“Cháu chỉ tò mò thôi ạ.”

“Không, Công chúa à, đó là một câu hỏi rất cụ thể. Và xin thứ lỗi cho ta nói điều này, cháu tò mò quá rồi đấy!”

Tôi bắt Mitzi phải hứa là sẽ không hé nửa lời—đặc biệt là với vợ chồng Maxwell—rồi sau đó, tôi đặt những bức vẽ mới nhất của Teddy lên bàn.

“Teddy có vẽ một số bức tranh chẳng bình thường chút nào. Nó nói nó lấy ý tưởng từ người bạn tưởng tượng của mình. Tên cô ấy là Anya, và cô ấy thường đến thăm phòng ngủ của nó khi không còn ai ở quanh.”

Mitzi xem xét những bức vẽ và gương mặt bà tối sầm lại. “Thế tại sao cháu lại hỏi chuyện của Annie Barrett?”

“Dạ… chỉ là tại hai cái tên nghe giống nhau quá. Anya và Annie. Cháu biết trẻ con có bạn tưởng tượng thì cũng bình thường thôi. Nhiều đứa trẻ đều có bạn như thế. Nhưng Teddy cho biết Anya bảo nó vẽ những bức tranh này. Một gã lôi người phụ nữ vào rừng. Gã chôn thi thể người phụ nữ nọ. Và rồi sau đó, Anya bảo Teddy đưa những bức tranh này cho cháu.”

Một sự im lặng bao trùm căn bếp—sự im lặng kéo dài lâu nhất tôi từng trải qua với sự có mặt của Mitzi. Tất cả những gì tôi nghe thấy là tiếng ùng ục từ chiếc máy Mr. Coffee và tiếng lúc lắc đều đều từ đuôi con mèo đồng hồ. Mitzi chăm chú quan sát những bức vẽ—gần như bà đang cố nhìn xuyên thấu qua đường nét, nhìn qua những nét bút chì, xuyên vào từng thớ giấy. Tôi không dám chắc bà hoàn toàn hiểu ý tôi định nói, thế là tôi diễn giải cho bà nghe.

“Cháu biết chuyện này nghe thật điên rồ, nhưng cháu nghĩ cháu đang tự hỏi không biết có lẽ nào linh hồn của Anya còn quanh quất trong căn nhà. Có khi nào cô ấy đang cố dùng Teddy để nhắn gởi.”

Mitzi đứng dậy, đi đến chỗ máy pha cà phê, rót ra hai ly. Bằng đôi tay run rẩy, bà mang hai ly cà phê quay lại bàn. Tôi bỏ vào một ít kem và nhấp một ngụm, đó là thứ cà phê mạnh nhất, đắng nhất tôi từng nếm qua. Nhưng dù thế tôi vẫn uống, bởi chẳng muốn làm bà phật lòng. Tôi khát khao có ai đó lắng nghe giả thiết của tôi và nói với tôi rằng tôi không có vấn đề về thần kinh.

“Ta đã từng đọc qua về chuyện này,” cuối cùng Mitzi lên tiếng. “Từ xưa tới nay, trẻ con vẫn luôn nhạy cảm với thế giới tâm linh hơn. Tâm trí bọn trẻ không có những rào cản mà người lớn chúng ta dựng lên.”

“Vậy là, rất có thể như cháu nghĩ ạ?”

“Cũng còn tùy. Cháu đã nói gì với bố mẹ thằng bé chưa?”

“Họ là những người vô thần. Họ nghĩ..”

“Ồ, ta biết, họ nghĩ rằng họ thông minh hơn phần đa thiên hạ.”

“Cháu muốn nghiên cứu kĩ hơn trước khi ngồi xuống nói chuyện với họ. Cố gắng xâu chuỗi các điểm với nhau. Có thể có gì đó trong những bức vẽ này trùng khớp với câu chuyện của Annie Barret.” Tôi rướn người về phía bên kia, nói nhanh hơn. Tôi cảm nhận được caffein đánh thức hệ thần kinh trung ương của mình. Tư duy của tôi sắc sảo hơn, nhịp tim tôi đập nhanh hơn. Tôi không còn để ý đến vị đắng của cà phê nữa mà nhấp thêm một ngụm. “Theo như lời Teddy, người đàn ông trong những bức vẽ này đã đánh cắp con gái của Anya. Bác có biết Annie có con hay không ạ?”

“Đó thực sự là một câu hỏi rất thú vị” Mitzi nói. “Nhưng câu trả lời sẽ rõ ràng hơn nếu ta kể từ đầu.” Bà ngả lưng ra sau ghế, ngồi thoải mái, và bỏ một chiếc bánh quy vào mồm. “Hãy nhớ này, Annie Barrett chết trước khi ta chào đời. Thế nên những câu chuyện này là ta được nghe kể lại, nhưng ta không thể cam đoan chuyện này là đúng sự thật.”

“Không sao ạ.” Tôi uống thêm một ngụm cà phê nữa. “Bác kể hết cho cháu đi.”

“Người chủ ban đầu của căn nhà cháu đang ở là George Barrett. Ông ta là kĩ sư ở DuPont, một công ty hóa chất, ở Gibbstown ấy. Ông ta có vợ và ba người con gái, và cô em họ của ông ta là Annie tới sống ở đây vào năm 1946, ngay sau Thế chiến thứ hai. Cô ấy sống ở trong căn chòi dành cho khách, biến nó thành một chỗ vừa kiểu như xưởng vẽ, vừa là nơi ngả lưng. Cô ấy cũng tầm tuổi cháu và rất xinh đẹp, tóc đen dài, và cực kì quyến rũ. Lính tráng từ châu Âu hồi hương tất cả đều phát cuồng vì cô ấy, làm họ quên bẵng luôn những mối tình ngọt ngào thời trung học. Họ bắt đầu ngày đêm lai vãng đến nhà George, hỏi thăm xin nói chuyện với cô em họ của chủ nhà.”

“Nhưng Annie rất thẹn thùng, ít nói, cô ấy tránh tiếp xúc với họ. Cô ấy không tham gia khiêu vũ hay đi xem phim ngoài rạp đâu, cô từ chối tất cả mọi lời mời. Và thậm chí cô ấy còn không đi nhà thờ nữa, ngày đó việc này là không thể chấp nhận được. Cô ấy chỉ ở im trong căn chòi mải mê vẽ. Hoặc là đi loanh quanh khu rừng Hayden’s Glen, tìm chủ đề để vẽ phác họa. Và thế là dần dần cả thị trấn quay lưng lại với cô ấy. Lời ra tiếng vào nói rằng cô ấy không chồng mà chửa, rằng cô ấy đem con đi cho rồi chuyển đến Spring Brook trong nỗi ô nhục. Sau đó, những lời đồn đại ngày một khủng khiếp hơn. Họ nói rằng cô ấy là phù thủy, rằng cô ấy quyến rũ tất cả mọi ông chồng vào rừng để ăn nằm với họ.” Mitzi bật cười trước suy nghĩ ngớ ngẩn đó. “Bởi vì đàn bà thì toàn đơm đặt mấy chuyện kiểu đó, cháu biết mà. Ta dám chắc tất cả phụ nữ trong khu này đều nói về ta kiểu như vậy.”

Bà uống thêm một hớp cà phê rồi tiếp tục. “Đấy, thế rồi một hôm nọ, George Barrett đi tới căn chòi, gõ cửa, nhưng không ai đáp. Ông ấy đi vào và thấy vết máu bám khắp nơi. Máu đầy trên giường, máu bắn kín tường. ‘Trên xà nhà cũng có,’ ông ấy kể với cha ta như vậy. Nhưng không tìm thấy thi thể. Không thấy dấu vết của Annie ở bất cứ nơi nào. George gọi báo cảnh sát, và dân cả thị trấn lùng sục cánh rừng, họ xới tung mọi con đường mòn, họ giăng lưới khắp con lạch, thả chó săn đi tìm, truy hết mọi ngóc ngách. Và cháu biết họ tìm được gì không? Không thấy gì hết. Cô ấy đã tan biến. Hết chuyện.”

“Từ hồi những năm 40 có ai sinh sống trong căn chòi đó không ạ?”

Mitzi lắc đầu. “Cha mẹ ta kể rằng George gần như đã đập hết căn chòi. Để xóa bỏ kí ức về thảm kịch đó. Rồi ông ấy biến nó thành nhà kho cất dụng cụ. Và như ta từng kể đó, hồi bọn ta bé những năm 50 hay 60 gì đó, bọn ta gọi nó là Nhà Ma. Tất cả bọn ta đều sợ nó. Nhưng đó chỉ là chuyện phóng đại, chuyện thần bí mà mấy đứa trong khu kể cho nhau nghe. Ta chưa từng nhìn thấy bất cứ thứ gì thực sự làm ta sợ hãi cả.”

“Thế còn những người chủ sau đó thì sao ạ? Sau khi ông George qua đời?”

“Ừm, sau khi George chết, vợ ông ấy bán căn nhà cho gia đình Butch và Bobbie Hercik. Họ là hàng xóm của ta suốt bốn mươi năm. Họ đã xây cái bể bơi mà cháu và Teddy vẫn tắm đấy. Chúng ta rất thân thiết, những người bạn tốt của nhau.”

“Họ có con không ạ?”

“Ba cô con gái, hai cậu con trai, và chả gặp vấn đề gì hết. Và ta rất thân với Bobbie. Nếu con bà ấy mà vẽ tranh người chết, bà ấy sẽ kể với ta.” Mitzi uống một ngụm cà phê nữa. “Tất nhiên họ đã rất đúng khi không động tới căn chòi. Có thể khi nhà Maxwell sửa chữa nó, họ đã quấy động cái gì đó. Đã giải thoát một thứ năng lượng thù địch nào đó.”

Tôi tưởng tượng ra cảnh mình thưa chuyện với Ted và Caroline, cảnh báo cho họ biết họ đã giải thoát một linh hồn nanh nọc. Tôi dám chắc họ sẽ bắt đầu lên trang Craigslist và tìm một người trông trẻ mới. Và rồi sau đó, tôi biết làm gì, biết đi đâu bây giờ? Tim tôi đập nhanh hơn, giống như một cái động cơ đang quay rầm rầm nhưng lại bị kẹt ở trạng thái không tải, tôi đan tay trước ngực.

Tôi cần phải nghỉ một chút.

Tôi cần phải bình tĩnh lại.

Tôi cần phải ngừng uống cà phê.

“Cháu dùng nhà vệ sinh của bác một chút được không?”

Mitzi chỉ dẫn tôi quay lại hướng phòng khách. “Phòng đầu tiên bên tay trái ấy. Kéo dây để bật đèn nhé, cháu sẽ nhìn thấy thôi.”

Nhà tắm của bà nhỏ và tù túng, có một cái bồn tắm bốn chân cổ lỗ sĩ nằm gọn trong rèm che bằng nhựa dẻo. Ngay khi tôi bật đèn sáng, một con bọ cánh bạc lao vút trên sàn nhà lát gạch hoa và lẩn mất vào trong một kẽ tường. Tôi úp mặt xuống bồn rửa và mở vòi nước, vốc nước lạnh vào mặt. Tim tôi đập rộn ràng, và tôi với tay lấy khăn mặt dành cho khách, chỉ có điều tôi nhận ra tất cả số khăn đều phủ một lớp bụi mịn, kiểu như đã nhiều năm rồi chưa ai động đến. Có một cái áo choàng tắm bông xù màu hồng treo ở sau cửa ra vào, tôi dùng tay áo để thấm khô mặt.

Sau đó, tôi mở tủ thuốc của Mitzi và nhìn nhanh một lượt. Hồi còn học trung học, lúc nào tôi cũng để mắt tới phòng tắm nhà người khác, bởi vì bạn sẽ rất ngạc nhiên khi thấy các loại thuốc kê đơn được chủ nhà để rất lơ là: Tôi có thể thó trộm vài viên, đôi khi là cả lọ mà không bị ai nghi ngờ. Và tôi đoán khi tim đập loạn xạ và đôi chân đang run lẩy bẩy, tôi lại có cảm giác một lần nữa quay về quãng trung học. Tủ thuốc của Mitzi nhiều thứ ngang ngửa một cửa hàng dược, bốn giá chật cứng tăm bông và bông gòn, miếng dán giảm đau và mỡ khoáng, nhíp, thuốc kháng a-xít dạ dày, và hai tuýp Monistat cùng với thuốc kháng viêm đã dùng phân nửa. Cộng thêm hơn chục lọ thuốc kê đơn màu cam, có đầy đủ mọi thứ từ thuốc hạ mỡ máu Lipitor và thuốc tuyến giáp Synthroid cho tới kháng sinh amoxicilin và erythromycin. Và ở góc tít phía sau, lẩn khuất giữa tất cả những loại khác, là “người bạn cũ của tôi”, thuốc giảm đau oxycodone. Tôi đã có linh cảm là sẽ tìm được một ít. Thời buổi bây giờ, gần như tất cả mọi người đều có thuốc này trong nhà, thường là một lọ uống hết nửa, còn thừa sau khi làm tiểu phẫu. Và hầu như chẳng có ai để ý nếu những viên thuốc này không cánh mà bay…

Tôi vặn nắp và nhìn vào bên trong lọ thuốc: Trống trơn. Rồi sau đó, Mitzi gõ gõ lên cửa khiến suýt chút nữa tôi đánh rơi tất cả xuống bồn rửa. “Này, nhớ giữ cần gạt khi xả nước nhé. Chụp cao su trong bồn nước của ta bị hỏng rồi.”

“Vâng,” tôi nói với bà. “Cháu nhớ rồi.”

Đột nhiên tôi cảm thấy cáu tiết, phát điên với bản thân khi lại đi rình mò, lại ngựa quen đường cũ. Tôi có cảm giác như Mitzi vừa mới bắt quả tang mình. Tôi đổ lỗi là do cà phê—đáng lẽ ra tôi không nên uống ly đó. Tôi để lọ thuốc trở lại chỗ cũ và mở vòi nước, nốc một hơi dài nước lạnh, hi vọng làm thế sẽ giúp pha loãng độc tố trong hệ thần kinh. Tôi thấy hổ thẹn với bản thân, mười chín tháng tỉnh táo, thế rồi lại rình rập tủ thuốc của một bà lão. Chuyện quái gì đang xảy ra với tôi thế này? Tôi xả nước bồn cầu, giữ tay vào cần gạt cho tới khi tất cả được cuốn trôi đi.

Khi tôi quay lại bếp, Mitzi đang ngồi chờ ở bàn cùng với một cái bảng gỗ có chữ và số trên bề mặt. Tôi nhận ra nó là một kiểu bảng cầu cơ—nhưng không giống cái bộ bằng bìa các-tông mỏng manh mà bọn tôi vẫn chơi trong những đêm ngủ cùng nhau hồi còn bé một chút nào. Bảng này là một phiến gỗ thích dày được khắc những biểu tượng thần bí. Trông nó chẳng giống món đồ chơi mà trông giống một cái thớt hơn.

“Ta nghĩ là như thế này,” Mitzi nói. “Nếu linh hồn này muốn nói với cháu điều gì đó, chúng ta hãy bỏ qua người trung gian đi. Bỏ qua Teddy và liên hệ trực tiếp với cô ấy.”

“Giống như kiểu gọi hồn ấy ạ?”

“Ta thích gọi là ‘tụ họp’ hơn. Nhưng không phải ở đấy. Chúng ta sẽ có kết quả tốt hơn nếu làm ở chòi của cháu. Ngày mai nhé?”

“Cháu phải trông Teddy.”

“Đúng, ta biết, chúng ta cần Teddy tham gia. Linh hồn này thiết thân với thằng bé. Chúng ta sẽ có nhiều cơ hội liên lạc được với cô ấy nếu thằng bé tham gia với chúng ta.”

“Không được đâu, bác Mitzi, cháu không làm thế được.”

“Sao lại không?”

“Bố mẹ cậu bé sẽ giết cháu mất.”

“Ta sẽ nói chuyện với họ.”

“Không, đừng, đừng làm thế,” tôi nói với bà, và giọng tôi trở nên hoảng loạn. “Bác đã hứa là sẽ không kể gì với họ rồi mà. Làm ơn đi, bác Mitzi, cháu không thể đánh mất công việc này được.”

“Sao cháu phải lo lắng thế nhỉ?”

Tôi thuật cho bà nghe về Nội quy trong nhà mà tôi cam kết buổi phỏng vấn—tôi được thuê để dạy sao cho khoa học, chứ không phải truyền bá tôn giáo hay mấy chuyện mê tín. “Cháu không thể đưa Teddy đến một buổi gọi hồn được. Thằng bé hắt hơi cháu còn chẳng được nói ‘Chúa phù hộ’ nữa là.”

Mitzi gõ gõ ngón tay lên những bức tranh. “Những bức vẽ này không bình thường đâu, cô gái ạ. Có thứ gì đó quái đản đang diễn ra trong căn nhà đó.”

Tôi lấy lại những bức vẽ và nhét chúng vào trong túi, rồi cảm ơn bà đã mời cà phê. Tim tôi lại đập nhanh trở lại—trống ngực đánh rộn ràng hơn. Tôi cảm ơn Mitzi đã cho lời khuyên và mở cửa sau để về. “Bác đừng tiết lộ với họ nhé, có được không ạ? Cháu tin tưởng bác sẽ giữ bí mật chuyện này.”

Bà bọc tấm bảng gỗ bằng một cái bao khâu bằng vải nhung đen. “Ta vẫn giữ nguyên đề nghị nếu như cháu đổi ý. Và ta đoán chắc rằng cháu sẽ nghĩ lại.”

Tôi quay trở lại căn chòi vào lúc tám giờ và đến bốn giờ sáng hôm sau tôi vẫn còn tỉnh như sáo. Không thể nào chợp mắt. Uống ly cà phê đó quả là sai lầm. Tôi đã thử dùng đủ mẹo vặt như mọi khi—hít thở sâu, uống một ly sữa ấm, tắm nước nóng thật lâu—nhưng đều vô ích. Bọn muỗi vo ve không ngừng, và cách duy nhất để khiến chúng im lặng là kéo chăn che kín đầu, chỉ để lộ đôi chân trần. Tôi cảm thấy quá thất vọng với bản thân. Tôi không thể tin được mình lại mở cái tủ thuốc chết tiệt đó. Tôi xoay trái xoay phải, ám ảnh với hai phút ở trong nhà tắm của Mitzi, cố gắng xác định chính xác khoảnh khắc não bộ của tôi bật chế độ tự hoạt động. Tôi đã nghĩ mình có thể khống chế cơn nghiện, nhưng hiển nhiên tôi vẫn là Mallory chứng nào tật nấy, vẫn sục sạo tủ thuốc tìm cách để được phê pha.

Tôi bừng dậy khi đồng hồ báo thức điểm bảy giờ, cảm thấy chếnh choáng và xấu hổ với bản thân—và hạ quyết tâm sẽ không sa ngã thêm một lần nào nữa.

Không uống cà phê nữa, không bao giờ.

Không để ám ảnh với mấy bức vẽ nữa.

Và không đả động đến Annie Barrett nữa.

May mắn thay, khi tôi sang nhà lớn, có một sự cố mới giúp tôi thấy phân tâm. Những cây bút chì than Teddy yêu thích chẳng hiểu sao lại biến đi mất, cậu bé không tìm thấy ở đâu cả. Chúng tôi đi bộ ra cửa hàng họa cụ để mua một bộ mới, và ngay khi trở về nhà, cậu bé vội vã chạy lên lầu cho khoảng Thời gian yên tĩnh. Tôi vẫn thấy kiệt sức sau một đêm thức trắng, thế là tôi bước vào phòng nghỉ và nằm lăn ra sô pha. Tôi chỉ định chợp mắt một lúc, nhưng một lần nữa Teddy lại lay tôi tỉnh giấc.

“Chị lại ngủ quên rồi!”

Tôi nhảy bật dậy. “Chị xin lỗi, Gấu yêu.”

“Chúng ta có đi bơi không ạ?”

“Có chứ. Em đi mặc đồ đi.”

Tôi cảm thấy khỏe hơn cả vạn lần. Giấc ngủ ngắn vừa đủ để tôi nạp lại năng lượng, vừa đủ giúp tôi quay lại trạng thái bình thường. Teddy chạy đi lấy đồ bơi, và tôi nhìn thấy cậu bé để một bức tranh vừa vẽ xong úp lại trên bàn cà phê. Và tôi biết tôi nên mặc kệ nó ở đó. Cho bố hay mẹ nó giải quyết. Nhưng tôi không thể nhịn được. Sự tò mò đã khuất phục được tôi. Tôi lật tờ giấy lên, và đây thực sự giống như giọt nước tràn ly.

Nghe này, tôi biết có nhiều kiểu bố mẹ khác nhau—người tự do, người bảo thủ, người vô thần, người hữu thần, người kè kè bên con, người say mê công việc đến bỏ bê con, và cả những người hoàn toàn độc hại với con. Và tôi biết tất cả những kiểu phụ huynh khác nhau này sẽ có những suy nghĩ cực kì khác nhau về cách tốt nhất để nuôi dạy con. Nhưng khi tôi xem xét kĩ bức tranh và nhìn thấy Anya nhắm nghiền mắt lại và hai bàn tay siết chặt quanh cổ—ừm, tôi nghĩ tất cả ông bố bà mẹ đều đồng tình rằng chuyện này thực sự không ổn chút nào, phải không?