CHƯƠNG 3

Khâu thu xếp hành lý chỉ mất có mươi phút. Tôi làm gì có quần nọ áo kia, chỉ có dăm ba bộ thay ra thay vào, vài thứ vệ sinh cá nhân và một quyển Kinh thánh. Bác Russell cho một chiếc va li cũ để tôi không phải đựng mọi thứ trong túi đựng rác. Những người bạn cùng ở Safe Harbor đã tổ chức một bữa tiệc chia tay nhỏ với các món Hoa mua mang về và bánh ngọt ở ShopRite. Chỉ ba đêm sau cuộc phỏng vấn, tôi đã rời Philadelphia và quay trở lại Vùng đất Mơ ước, sẵn sàng bắt đầu cuộc sống mới với công việc chăm trẻ.

Chẳng biết trong lòng Ted Maxwell còn lo lắng về việc thuê tôi không, nhưng nếu có thì anh ấy rất giỏi giấu giếm. Anh và Teddy đứng đón tôi ở ga tàu điện ngầm, cậu bé đang cầm theo một bó hoa cúc vàng. “Em chọn hoa,” cậu bảo, "còn bố trả tiền.”

Bố cậu nhất định đòi xách va li của tôi đến ô tô—trên đường về nhà, hai bố con họ đã đưa tôi dạo một vòng quanh khu phố này, chỉ cho tôi hay tiệm bánh pizza ở chỗ này, tiệm sách ở đằng kia và cả tuyến đường sắt cũ rất quen thuộc với dân tập bộ và đạp xe. Không còn chút dấu vết gì của Ted Maxwell ngày hôm nọ—một tay kỹ sư rất kiệm nụ cười, cứ mãi tra tấn tôi bằng tiếng nước ngoài và những chuyến du lịch bốn phương. Ted Maxwell phiên bản mới này vui vẻ và thân thiện (“Xin hãy gọi tôi là Ted!”), thậm chí bộ quần áo hôm nay trông còn thoải mái hơn hôm trước. Anh ấy khoác cái áo của đội bóng thành Barcelona, quần jeans rộng rãi, và mang đôi New Balance 1995 mới cóng.

Chiều muộn hôm đó, Caroline giúp tôi tháo dỡ và sắp xếp đồ đạc vào căn chòi nhỏ. Tôi có hỏi về sự thay đổi bất ngờ của Ted nhưng chị chỉ bật cười. “Chị đã bảo anh ấy sẽ đổi ý mà. Anh ấy thấy Teddy yêu mến em nhiều như thế nào. Nhiều hơn bất cứ ai mà anh chị đã từng phỏng vấn. Đó là quyết định dễ dàng nhất của gia đình chị.”

Chúng tôi cùng ăn tối ở hiên nhà lát đá phía sân sau. Ted nấu món ăn sở trường của mình là tôm và sò điệp nướng, còn chị Caroline pha trà lạnh công thức nhà làm, trong khi Teddy chạy loăng quăng quanh bãi cỏ thật hào hứng, vẻ như cậu vẫn còn không tin việc tôi đã đến sống cùng họ toàn thời gian, mỗi ngày, suốt mùa hè. “Không thể tin nổi, mình không thể tin nổi!” cậu gào lên, rồi sau đó ngã phịch ra bãi cỏ, phấn khích tột cùng.

“Chị cũng không thể tin nổi,” tôi nói với cậu. “Chị rất vui vì được ở đây.”

Trước khi cùng cả gia đình dùng món tráng miệng, họ đã khiến cho tôi cảm thấy mình là một thành viên trong nhà. Caroline và Ted trao nhau cử chỉ âu yếm nhẹ nhàng và thoải mái. Họ ăn ý tiếp lời nói của nhau và lấy thức ăn từ đĩa đối phương, họ cùng nhau kể cho tôi nghe câu chuyện cổ tích đầy lôi cuốn lúc họ gặp nhau tại nhà sách Barnes & Noble ở Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật Lincoln mười lăm năm về trước. Đến hồi nửa câu chuyện, bàn tay Ted theo phản xạ đặt lên đầu gối vợ, còn bàn tay chị đặt lên trên tay anh, những ngón tay đan xen vào nhau.

Thậm chí những lời bất đồng ý kiến giữa hai người cũng toát ra sự dí dỏm và quyến rũ. Đang giữa chừng bữa tối, Teddy thông báo rằng cậu phải đi vào nhà tắm. Tôi đứng lên cùng với cậu, Teddy phẩy tay từ chối. “Em năm tuổi rồi đấy” cậu nhắc nhở tôi. “Nhà tắm là nơi riêng tư.”

“Cừ lắm chàng trai” Ted nói. “Đừng quên rửa tay nhé con!”

Tôi quay về chỗ ngồi, cảm thấy thật ngốc nghếch, nhưng Caroline bảo tôi đừng lo lắng. “Đây là giai đoạn mới của Teddy. Thằng bé đang tập sinh hoạt độc lập.”

“Và tránh xa nhà tù,” Ted nói chen vào.

Caroline cảm thấy khó chịu trước câu nói bông đùa này. Tôi không hiểu ý anh là gì nên người vợ giải thích.

“Vài tháng trước, nhà chị gặp một sự cố. Teddy đã ‘khoe hàng’ với vài đứa trẻ. Ý chị là thằng bé tồng ngồng ra. Hành vi đặc trưng của bé trai nhưng với chị là quá bất thường nên chắc chị đã có phản ứng thái quá.”

Ted cười khoái trá. “Em có thể nghĩ đó là một vụ tấn công tình dục.”

“Nếu thằng bé là một người đàn ông trưởng thành thì đó chính là tấn công tình dục. Ý em chính xác là vậy đó, Ted.” Caroline quay ra nói với tôi. “Nhưng chị đồng tình với ý kiến của em là nên chọn lựa từ ngữ cẩn thận hơn.”

“Thằng bé con vắt mũi còn chưa sạch,” Ted bảo, “thế mà đã là kẻ tấn công tình dục cơ đấy.”

Caroline giận dỗi rút tay chồng ra khỏi đầu gối mình. “Mấu chốt là Teddy đã có một bài học. Bộ phận nhạy cảm là phải riêng tư. Không nên khoe trước mặt người lạ. Sau này, chúng ta phải dạy cho thằng bé biết sự đồng ý và sự đụng chạm không phù hợp là gì, bởi đối với thằng bé, việc học và hiểu những thứ này rất quan trọng.”

“Anh đồng ý cả hai tay,” Ted nói. “Anh hứa với em, Caroline, thằng bé sẽ là cậu bé tinh thông nhất trong lớp. Em không phải lo lắng đâu.”

“Cậu bé thực sự rất đáng yêu” tôi vỗ về chị. “Nhờ có phụ huynh như anh chị, em chắc chắn rằng cậu ta sẽ lớn lên khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần.”

Caroline nắm lấy tay chồng và đặt nó lại đầu gối. “Em biết anh nói đúng. Nói gì đi nữa thì cũng là em lo cho thằng bé. Thấy nó sốc nổi, em làm sao chịu được!”

Trước khi cuộc nói chuyện này đi xa hơn, Teddy đã vội vã quay trở lại bàn ăn, thở không ra hơi, mắt mở tròn thao láo, vẻ đầy hớn hở.

“Vừa nhắc là có mặt ngay!” Ted nói rồi bật cười lớn.

Vừa ăn xong món tráng miệng thì cũng đến giờ xuống bể bơi, tôi đành thừa nhận rằng tôi thực chẳng có bộ áo bơi nào—rằng tôi chưa từng xuống bể từ hồi trung học. Ngay hôm sau, Ted đã tạm ứng trước cho tôi 500 đô-la tiền lương, còn Caroline chở tôi đến trung tâm thương mại mua áo bơi một mảnh. Chiều muộn hôm ấy, chị mang đến căn chòi của tôi với hàng tá các loại áo váy thật bắt mắt còn nguyên móc áo, toàn các nhãn hàng Burberry, Dior và DKNY, tất cả đều còn mới hoặc ít mặc đến. Chị bảo cơ thể đã quá cỡ với chúng rồi, rằng số đo của chị giờ đã quá cỡ quần áo số 8, nên tôi cứ nhận mấy bộ quần áo ấy đi trước khi chị ấy sẽ đem quyên cho tổ chức từ thiện Goodwill.

“Còn việc này, em sẽ nghĩ rằng chị hoang tưởng nhưng chị đã mua cho em một thứ.” Chị đưa cho tôi chiếc đèn pin màu hồng nhỏ xíu có hai râu kim loại chìa ra ở một đầu. “Để phòng trường hợp em tập chạy ngoài trời vào buổi tối.”

Tôi bật nó lên, tiếng điện kêu tạch tạch rất to; tôi đánh rơi nó ngay xuống đất vì bị giật mình, thiết bị ấy đập keng xuống nền nhà.

“Em xin lỗi! Em cứ tưởng nó là…”.

“Không, không sao, chị nên cảnh báo em trước. Đây là súng bắn điện tự vệ Vipertek loại nhỏ. Em móc nó vào chùm chìa khóa nhé.” Chị ấy nhặt cái súng điện từ dưới sàn lên rồi giải thích các chức năng. Các nút bấm có ghi chữ ĐÈN và ĐIỆN, ngoài ra còn một nút công tắc an toàn bật lên xuống.

“Nó có thể phóng điện mười ngàn vôn. Chị đã thử cái của mình trên người Ted. Chỉ để xem nó có hoạt động tốt không? Anh ấy đảm bảo giống bị sét đánh.”

Tôi chẳng mấy ngạc nhiên khi biết rằng Caroline mang theo vũ khí phòng thân. Trước đây chị ấy có nói các bệnh nhân bệnh viện cho rằng cựu chiến binh hay có vấn đề về sức khỏe tâm thần. Nhưng nghĩ mãi tôi chẳng hiểu được lý do mình cần súng tự vệ khi đi dạo quanh Spring Brook để làm gì.

“Khu này có nhiều tội phạm không ạ?”

“Hiếm lắm. Nhưng hình như hai tuần trước thì phải? Một cô gái tầm tuổi em đã bị cướp xe. Ngay trong chỗ đỗ xe nhà Wegmans. Cô ấy bị bọn chúng ép lái xe đến cây ATM và rút ra ba trăm đô-la. Nên chị nghĩ thà phòng bị còn hơn phải hối tiếc, em hiểu không?”

Chị ấy đang rất hào hứng mong chờ, tôi chợt nhận ra chị ấy sẽ không thỏa mãn cho đến khi tôi lôi chùm chìa khóa của mình ra và lồng cái thiết bị ấy vào, cảm giác giống y như mẹ tôi đang chăm sóc cho con gái vậy.

“Em rất thích,” tôi nói với Caroline. “Cảm ơn chị.”

Công việc này rất đơn giản, tôi thích nghi với lịch trình mới khá nhanh. Một ngày làm việc thông thường cụ thể như sau:

6 giờ rưỡi: Tôi dậy sớm, không cần đến báo thức, bởi cả khu rừng sẽ bừng dậy với tiếng chim hót líu lo. Tôi mặc chiếc váy dài và tự pha cho mình một tách trà nóng với một bát yến mạch, sau đó ngồi ở hiên nhà và ngắm mặt trời mọc qua bể bơi. Tôi trông thấy các loài động vật hoang dã gặm cỏ ở mép sân: sóc và cáo, thỏ và gấu mèo, thi thoảng lại có hươu. Tôi thấy mình như nàng Bạch Tuyết trong phim hoạt hình. Tôi bắt đầu để những đĩa việt quất và hạt hướng dương ở ngoài trời, khuyến khích bọn thú đến ăn sáng cùng tôi.

7 giờ rưỡi: Tôi băng qua khoảnh sân và vào trong nhà chính bằng cửa trượt ở sân sau. Ted đã đi làm từ sáng sớm nên giờ này anh không có nhà. Nhưng Caroline nhất quyết phải làm bữa sáng nóng hổi cho con trai. Teddy rất mê bánh kẹp nướng nhà làm, chị ấy làm bánh bằng một dụng cụ đặc biệt có hình chuột Mickey. Tôi sẽ dọn dẹp căn bếp trong khi Caroline chuẩn bị đi làm, khi sắp đến giờ vào ca của mẹ, Teddy và tôi sẽ theo chân chị ra đứng ở trước lối đỗ xe và vẫy chào tạm biệt.

8 giờ: Trước khi bắt đầu một ngày mới nghiêm chỉnh, chúng tôi sẽ phải hoàn thành mấy việc nhỏ. Trước tiên, tôi cần chuẩn bị quần áo cho Teddy, tuy nhiên việc này rất đơn giản vì cậu bé luôn mặc trang phục giống nhau. Cậu có một tủ quần áo khổng lồ toàn mấy bộ dễ thương của Gap Kids nhưng cậu luôn muốn mặc áo sơ mi kẻ ngang tím. Caroline dần dần thấy mệt mỏi với việc giặt giũ cái áo ấy nên đã đi đến cửa hàng The Gap và mua hẳn năm cái giống hệt nhau. Chị ấy lúc nào cũng chiều chuộng cậu nhưng lại yêu cầu tôi “khuyến khích nhẹ nhàng” những lựa chọn khác. Lúc trải quần áo của cậu ra, tôi đã định gợi ý một vài lựa chọn khác nhau nhưng cậu ấy lại luôn chọn cái có những dòng kẻ ngang màu tím ấy. Sau đó, tôi sẽ giúp cậu đánh răng, tôi sẽ đợi bên ngoài nhà tắm trong khi cậu sử dụng bồn cầu, cuối cùng chúng tôi mới sẵn sàng bắt đầu một ngày mới.

8 giờ rưỡi: Tôi luôn sắp xếp những hoạt động lớn hoặc đi ra ngoài mỗi sáng. Chúng tôi sẽ cùng nhau đến thư viện để tham gia chương trình Giờ kể chuyện, hoặc sẽ đến siêu thị mua các loại nguyên liệu về nướng bánh quy. Teddy là đứa dễ hài lòng và không bao giờ phản đối các gợi ý của tôi. Khi tôi bảo tôi phải lên phố mua kem đánh răng, cậu phản ứng như thể chúng tôi sẽ cùng đến Công viên giải trí Six Flags. Có cậu bé bên mình quả là một niềm vui—vừa thông minh, vừa tình cảm, và đôi khi bật ra nhiều câu hỏi cân não: Ngược với hình vuông là hình gì? Sao tóc con gái lại dài thế ạ? Có phải mọi thứ trên thế giới đều “có thật” không ạ? Tôi chưa bao giờ thấy mệt khi nghe cậu huyên thuyên. Cậu giống như đứa em trai bé bỏng của tôi vậy.

12 giờ: Sau hoạt động buổi sáng, tôi sẽ chuẩn bị bữa trưa đơn giản, gồm có mì nui sốt phô mai hoặc bánh mì vòng kiểu pizza hoặc là gà rán miếng. Teddy sẽ về phòng ngủ trong khung giờ Thời gian yên tĩnh, còn tôi có một tiếng nghỉ ngơi. Tôi sẽ đọc sách hoặc nghe đài trên điện thoại. Hoặc thi thoảng tôi chỉ nằm ườn trên ghế sô pha và chợp mắt khoảng hai mươi phút. Cuối cùng, Teddy sẽ xuống nhà và lay tôi dậy, cậu sẽ cho xem một hoặc hai bức tranh vừa vẽ. Thường cậu sẽ tái hiện các hoạt động yêu thích của chúng tôi—cậu sẽ vẽ lại hình ảnh chúng tôi đi bộ trong rừng hoặc chơi đùa ở sân sau hoặc thơ thẩn trong căn chòi của tôi. Tôi treo những bức vẽ này trên cửa tủ lạnh—một triển lãm trưng bày sự tiến bộ trong hội họa của đứa trẻ.

2 giờ chiều: Đây là khoảng thời gian nóng nhất trong ngày nên chúng tôi sẽ ở trong nhà chơi trò Cầu trượt và Cầu thang hoặc Bẫy chuột, rồi chúng tôi bôi kem chống nắng và lao ra bể bơi. Teddy không biết bơi (và tôi cũng không giỏi bơi cho lắm), nên tôi luôn cho cậu mặc áo phao trước khi xuống nước. Sau đó, chúng tôi sẽ chơi đuổi bắt hoặc chơi đấu kiếm bằng phao bơi xốp hình ống.

Hoặc chúng tôi sẽ trèo lên chiếc bè phao lớn và chơi trò đóng kịch mấy vở như Castaway hoặc Titanic.

5 giờ chiều: Caroline về nhà, tôi sẽ thuật lại một ngày với Teddy trong lúc chị bắt đầu chuẩn bị bữa tối. Sau đó, tôi sẽ ra ngoài tập chạy, trong quãng đường từ bốn đến mười hai cây số, phụ thuộc vào yêu cầu của bác Russell. Tôi sẽ chạy ngang qua những khách bộ hành trên vỉa hè hoặc mấy người đang tưới nước cho thảm cỏ, rồi họ sẽ nghĩ tôi là dân Spring Brook. Thậm chí một vài bác hàng xóm sẽ vẫy tay và nói lời chào, như thể từ trước đến nay tôi vẫn sống ở đây, như thể chắc tôi là con gái của ai đó trong vùng vừa mới từ giảng đường trở về nhà trong kì nghỉ hè. Tôi thích cảm giác này—cảm giác là một phần của cộng đồng—như thể tôi cũng có nơi để thuộc về.

7 giờ tối: Tập chạy xong, tôi sẽ tắm qua loa trong căn phòng tắm nhỏ xíu ấy, rồi chuẩn bị cho mình một bữa ăn đơn giản trong gian bếp be bé của căn chòi. Một hoặc hai lần một tuần, tôi sẽ dạo bộ xuống phố ngắm nghía các hàng quán ở đây. Hoặc tôi sẽ tham gia buổi gặp mặt ở tầng hầm của một ngôi nhà thờ Dòng Mẹ Chúa Cứu Chuộc. Nhóm người chủ trì phiên gặp thường mang vẻ thiện lành và những người tham gia đều thân thiện nhưng tôi luôn là người trẻ nhất, khoảng cách tuổi tác ít nhất cũng mười năm, nên tôi không mong có thể kết bạn với nhiều người. Tôi chắc chắn sẽ không tham gia cuộc gặp “tăng hai”, mọi người bước ra khỏi nhà thờ đến quán Panera Bread để than vãn về chuyện con cái, tài sản, công việc… Sau chỉ khoảng hai tuần sống cùng với gia đình Maxwell, được bao bọc an toàn khỏi mọi cám dỗ, tôi còn không chắc mình có nhu cầu gặp gỡ nữa không. Tôi nghĩ tôi có thể tự xử lý mọi thứ.

9 giờ tối: Đến giấc này, tôi thường yên vị trên giường, đọc một cuốn sách mượn ở thư viện hoặc xem phim trên điện thoại. Để tưởng thưởng cho bản thân, tôi đã đăng ký một tài khoản của kênh Hallmark hòng thỏa thuê xem phim tình cảm lãng mạn không giới hạn với giá 5,99 đô-la mỗi tháng, tiêu cả đêm với sự phấn chấn say mê. Để rồi khi tắt đèn và ngả đầu trên gối, tôi đắm chìm trong cảm giác dễ chịu của câu chuyện cổ tích trong phim—về hạnh phúc của một gia đình được đoàn tụ và những tên vô lại bị tống cổ đi, về những kho báu được phát hiện và lòng tự tôn được ca tụng.

Có thể những điều này nghe thật nhàm chán. Bởi đấy chẳng phải chuyện lớn lao gì. Tôi nhìn nhận mình không có chủ ý thay đổi thế giới hay mang đến cách thức chữa trị bệnh ung thư. Nhưng sau bao rắc rối, tôi thấy mình đã có một bước tiến lớn, tôi tự hào về bản thân. Tôi có nơi ở riêng và mức lương cố định. Tôi tự nấu những bữa ăn giàu dinh dưỡng và tiết kiệm được hai trăm đô-la một tuần. Tôi ý thức được công việc chăm sóc Teddy rất quan trọng. Và tôi cảm thấy giá trị bản thân tăng lên bởi niềm tin của Ted và Caroline dành cho tôi.

Đặc biệt là sự tin tưởng ở Ted. Ban ngày, hầu như tôi chẳng giáp mặt anh bởi anh thường đến văn phòng lúc sáu giờ ba mươi phút sáng. Thi thoảng, tôi bắt gặp anh vào buổi tối sau khi chạy bộ về. Anh ngồi ôm máy tính xách tay ở ngoài sân sau cùng một ly rượu vang, hoặc anh sẽ bơi vài vòng, chợt vẫy chào và hỏi thăm tôi tập chạy thế nào. Hoặc anh sẽ hỏi một ngày của tôi với Teddy ra sao. Hay anh sẽ hỏi ý kiến của tôi về một thương hiệu tiêu dùng bất kì, ví như Nike, PetSmart, Gillette, L. L. Bean, và nhiều hãng khác. Ted có nói công ty của anh chuyên thiết kế và lập trình “phần mềm Back-end” (gồm máy chủ, ứng dụng và cơ sở dữ liệu) cho các tập đoàn lớn trên thế giới, anh đang tìm những đối tác mới, “Em nghĩ gì về Urban Outfitters?” hoặc “Em đã từng ăn ở Cracker Barrel chưa? Hỏi xong, anh ấy sẽ lắng nghe câu trả lời của tôi, như thể những ý kiến của tôi thực sự có khả năng ảnh hưởng đến quyết định kinh doanh của Ted. Thú thật, việc này có vẻ đáng tự hào ấy chứ! Ngoài bác Russell ra, chưa có ai thực sự quan tâm đến ý nghĩ của tôi cả. Thế nên, tôi luôn cảm thấy vui vẻ khi được gặp anh Ted, cảm thấy có trách nhiệm khi được mời qua nói chuyện.

Điều khôi hài cực kỳ ở chỗ kẻ duy nhất chuyên gây rắc rối cho tôi cũng như không hề tồn tại: Anya. Đứa bạn thân tưởng tượng của Teddy hình thành một thói quen khó chịu là luôn làm trái lời hướng dẫn của tôi. Ví như một bữa nọ, tôi yêu cầu Teddy nhặt quần áo bẩn của cậu lên và bỏ vào giỏ đựng đồ. Hai tiếng sau tôi quay lại phòng ngủ của cậu, đống quần áo vẫn nằm vung vãi dưới nền nhà. “Anya bảo Mẹ nên làm việc đó,” cậu bé nói với tôi. “Anya nói đó là việc của mẹ.

Một lần khác, tôi đang làm đậu phụ cắt vuông rán giòn cho bữa trưa, nhưng Teddy lại đòi ăn hamburger. Tôi bảo rằng cậu không được ăn. Tôi nhắc nhở cậu bé rằng gia đình cậu không ăn thịt đỏ bởi như thế rất có hại cho môi trường, viện cớ rằng chăn nuôi gia súc là lý do lớn nhất gây ra khí thải hiệu ứng nhà kính. Tôi đưa cho cậu một đĩa đậu phụ kèm cơm, Teddy chỉ gẩy gẩy bằng nĩa. “Anya nghĩ em sẽ cực thích ăn thịt,” cậu nói. “Anya còn bảo ăn đậu phụ như ăn rơm ăn rác.”

Hiện tại, tôi không phải là chuyên gia trong lĩnh vực tâm lý trẻ em nhưng tôi hiểu hành động của Teddy: sử dụng Anya làm lý do để trốn tránh. Tôi hỏi Caroline để xin lời khuyên, chị chỉ nói rằng chúng ta cần kiên nhẫn, vấn đề sẽ tự tiêu biến. “Thằng bé đang khá hơn rồi đấy,” chị ấy một mực nói. “Bất cứ khi nào về nhà, chị cũng nghe nó nói ‘chị Mallory thế này rồi thế kia’. Chị không còn nghe thấy cái tên Anya trong suốt một tuần.”

Ngược lại, anh Ted lại thúc giục tôi phải có lập trường cứng rắn hơn. “Anya đúng là cái gai trong mắt. Cô kia không theo quy tắc ở nhà này, nhưng chúng ta thì có. Lần tới khi nó nêu ý kiến, hãy nhắc nhở với Teddy rằng Anya không có thực.”

Tôi quyết định sẽ tiếp cận kiểu trung lập ở giữa hai thái cực này. Một chiều nọ, khi Teddy ở trên tầng trong Thời gian yên tĩnh, tôi đã nướng một khay bánh quy Snickerdoodle yêu thích của cậu bé. Lúc cậu xuống dưới nhà với một bức vẽ mới, tôi đã mời cậu ngồi xuống bàn. Tôi mang bánh quy ra và hai cốc sữa lạnh, vu vơ bảo cậu hãy kể đôi điều về Anya.

“Chị hỏi thế là sao?” Cậu nghi ngờ ngay lập tức.

“Hai người gặp nhau ở đâu? Màu sắc yêu thích của chị ấy là gì? Chị ấy bao nhiêu tuổi?”

Teddy nhún vai, như thể những câu hỏi đó không cách nào trả lời được. Ánh mắt cậu bé đảo quanh bếp như kiểu đột nhiên trở nên miễn cưỡng khi phải giao tiếp bằng mắt.

“Chị ấy có việc làm không?”

“Em không biết.”

“Chị ấy làm gì cả ngày?”

“Em không chắc.”

“Chị ấy đã bao giờ ra khỏi phòng ngủ của em chưa?”

Teddy liếc sang nhìn cái ghế trống trơn phía bàn bên kia.

“Thi thoảng.”

Tôi nhìn vào cái ghế.

“Bây giờ chị Anya có ở đây không? Chắc là đang ngồi cùng chúng ta hả?”

Cậu bé lắc đầu. “Không.”

“Chị ấy có muốn ăn một cái bánh quy không?”

“Chị ấy không có ở đây, chị Mallory ạ.”

“Em và Anya thường nói những chuyện gì?”

Teddy cúi gằm mặt nhìn chiếc đĩa cho đến khi cả khuôn mặt cậu chỉ còn cách chiếc bánh quy vài phân, “Em biết chị ấy không có thật,” cậu thì thầm. “Chị không cần phải chứng minh.”

Giọng cậu bé buồn rầu và thất vọng, đột nhiên tôi thấy có lỗi như vừa bắt nạt một thằng nhóc năm tuổi thừa nhận trên đời này làm gì có ông già Noel.

“Nghe chị này, Teddy, em gái chị, Beth, cũng có một người bạn giống như Anya vậy. Bạn của con bé tên là Cassiopeia, cái tên cũng hay ấy nhỉ? Ban ngày, Cassiopeia làm việc cho Disney ở chương trình trượt băng nên phải di chuyển nhiều nơi trên thế giới. Thế nhưng tối nào cô ấy cũng sẽ quay về phía Nam Philadelphia ở lại căn nhà liền kề và ngủ trên sàn trong phòng ngủ của bọn chị. Chị phải cẩn thận không giẫm phải cô ấy, bởi vì cổ vô hình kia mà!”

“Thế chị Beth có nghĩ Cassiopeia có thật không?”

“Bọn chị giả vờ Cassiopeia có thật. Nó có tác dụng, bởi lẽ Beth không bao giờ lấy Cassiopeia ra làm lý do để làm trái quy tắc. Như vậy hợp lý phải không?”

“Chắc là vậy,” Teddy nói rồi trườn người ra khỏi ghế giống như tự nhiên thấy đau trong người. “Em phải vào nhà tắm. Em phải đi ị đây.” Nói rồi, cậu trèo xuống ghế và vội vã chạy ra khỏi nhà bếp.

Cậu vẫn chưa đụng đến miếng bánh nào. Tôi bọc những chiếc bánh quy lại bằng miếng bọc Saran. Bọc cả ly sữa lại và cho vào trong tủ lạnh để uống sau. Sau đó, tôi đến bồn rửa sạch đống bát đĩa. Khi mọi thứ xong xuôi, Teddy vẫn ở trong nhà tắm. Tôi ngồi ở bàn và nhận ra mình vẫn chưa chiêm ngưỡng bức tranh mới nhất của cậu, nên tôi với tay cầm lấy tờ giấy và lật ngược lại.