Viết lại câu chuyện này thật không dễ dàng gì. Chị dám chắc em sẽ còn cảm thấy khó khăn hơn khi phải đọc nó. Rất nhiều lần chị đã toan bỏ cuộc, nhưng bố em nài nỉ chị viết tiếp, khi những chi tiết vẫn còn tươi mới trong trí nhớ của chị. Bố em tin rằng một ngày nào đó trong tương lai, mười hay hai mươi năm nữa, em sẽ muốn biết sự thật về những gì đã thực sự diễn ra mùa hè năm đó ở Spring Brook. Và bố em muốn em được nghe câu chuyện này từ chị, chứ không phải một chương trình phát thanh thuật lại vụ án vớ vẩn nào đó.
Bởi vì có Chúa chứng giám, trên đời có vô vàn những chương trình phát thanh. Có những câu chuyện giật gân, những dòng tiêu đề câu kéo người xem, những cuộc phỏng vấn pha trò lúc đêm muộn, và vô vàn những ảnh chế gây cười. Nhiều tuần sau đêm em được giải cứu, Dateline, Good Morning America, Vox, TMZ, Frontline và hàng chục nhà đài như thế đã tiếp cận chị. Chị không biết tại sao những người sản xuất chương trình các nhà đài ấy lại có số điện thoại của chị, nhưng tất cả họ đều hứa hẹn giống nhau: để chị kể lại câu chuyện theo góc nhìn của mình, để chị tự biện hộ cho những hành động của mình bằng ngôn từ của mình, với sự can thiệp tối thiểu. Họ cũng hứa hẹn một món tiền lớn nếu chị đồng ý nhận phỏng vấn độc quyền.
Nhưng sau khi thương lượng khá lâu với bố em, cả hai đều quyết định sẽ tránh xa truyền thông. Hai bên đã ra một thông cáo chung rằng em đã được đoàn tụ với gia đình và em cần thời gian để chữa lành và giờ mọi người muốn cho em được yên tĩnh. Sau đó, chị và bố em đã đổi số điện thoại và địa chỉ email, hi vọng rằng mọi người sẽ bỏ quên chúng ta. Mấy tuần lễ liền, và rồi cuối cùng họ cũng để chuyện đó trôi vào quên lãng. Cùng lúc ấy, lại có những câu chuyện nóng hổi hơn. Một kẻ điên xả súng tại cửa hàng bách hóa ở San Antonio. Công nhân vệ sinh ở Philly đình công trong tám tuần. Một ca sinh tám ở Canada. Và cứ thế, trái đất vẫn tiếp tục quay.
Mấy lần đầu khi chị thử tìm cách kể lại câu chuyện này đều chẳng đem lại kết quả gì cho đặng. Chị còn nhớ đã ngồi trước một cuốn sổ trắng trơn và hoàn toàn đờ đẫn. Mãi cho đến bây giờ, thứ dài nhất mà chị từng viết là một bài thu hoạch cuối kì dài năm trang hồi trung học phân tích vở Romeo và Juliet. Thế nên ý tưởng viết một cuốn sách—một cuốn sách dài thực thụ, như bộ tiểu thuyết Harry Potter—cảm tưởng khó như viết một thiên hùng ca vậy. Nhưng khi chị chia sẻ với mẹ Adrian về những khó khăn này, bà đã cho chị vài lời khuyên rất hữu ích. Bà nói chị đừng nên cố viết một cuốn sách, hãy cứ ngồi xuống bên máy tính và kể lại câu chuyện thôi, từng câu một, dùng ngôn ngữ giống như khi ngồi trà nước tán chuyện với bạn bè vậy. Bà bảo cho dù giọng văn không được như J. K. Rowling cũng không sao cả. Giọng văn giống Mallory Quinn đến từ Philadelphia cũng không sao. Và khi đã nắm được tinh thần như vậy, câu chữ bắt đầu tuôn ra như thác lũ. Chị không thể tin trước mắt mình là một tập bản thảo những 85 ngàn từ.
Nhưng nhìn chị này, chị bị phấn khích sớm quá rồi.
Có lẽ chị nên kể lại từ đầu và giải thích vài chuyện.
Ted Maxwell chết trên sàn căn chòi của chị bởi các vết thương do trúng đạn. Vợ của anh ta, Caroline, chết sau đó chỉ nửa giờ, dưới gốc Cây đậu thần. Chị thú nhận đã đâm chị ta để tự vệ bằng mũi tên gãy (nói đúng ra, đó là một mũi tên chuyên dùng bắn nỏ) mà chúng ta tìm được trong rừng trước đó vài tuần. Và thực ra, đáng lẽ chị ta có thể sống sót, chỉ có điều đầu mũi tên đã xé nát động mạch cảnh của chị ta, và khi nhân viên cấp cứu tới nơi thì đã quá muộn.
Em và chị được đưa tới đồn cảnh sát Spring Brook. Em được đưa tới nhà ăn cùng một nhân viên công tác xã hội với đôi mắt lờ đờ cùng một giỏ đồ chơi thú nhồi bông, còn chị được đưa tới một căn buồng không có cửa sổ, với máy quay, micrô và một dàn thanh tra, người sau lại dữ dằn hơn người trước. Để em được an toàn, chị chỉ kể một phần câu chuyện của mình. Chị không nhắc gì tới những bức tranh của mẹ em.
Chị không kể lại chi tiết mẹ em đã cho chị những manh mối ra sao để chị hiểu được những chuyện đã xảy ra. Thực tế thì, chị không hề nhắc tới mẹ em. Chị vờ như toàn bộ là do tự chị phát hiện ra những bí mật của vợ chồng Maxwell.
Thanh tra Briggs và các đồng nghiệp tỏ ra nghi ngờ. Họ khẳng định chị còn giấu giếm gì đó, nhưng chị vẫn giữ nguyên các sự kiện theo ý mình. Và họ bắt đầu nói chuyện với chị bằng giọng điệu đanh hơn, những câu hỏi của họ đặt ra ngày một đối nhau chan chát, nhưng chị vẫn trả lời bằng những đáp án thật thật giả giả y như vậy. Sau vài tiếng đồng hồ, chị đã tin chắc mình sẽ bị buộc tội giết hại hai người, rằng phần đời còn lại của chị sẽ ngồi bóc lịch trong tù.
Nhưng đến khi mặt trời mọc, họ xác định được câu chuyện của chị chí ít có một số sự thật quan trọng.
Một nhân viên công tác xã hội khẳng định Teddy Maxwell, thực sự có đặc điểm giải phẫu của một bé gái năm tuổi.
Một đứa trẻ tên là Flora Baroth đã được ghi nhận mất tích tại Trung tâm quốc gia chuyên về trẻ em mất tích và bị bóc lột, trong khi Teddy Maxwell có tất cả các đặc điểm nhận dạng trùng khớp với cô bé đó.
Và qua tìm kiếm thông tin trên mạng, hồ sơ nhà đất cho biết rằng vợ chồng Maxwell từng mua một căn nhà gỗ bên hồ Seneca chỉ sáu tháng trước khi Flora mất tích.
Xem nhanh hộ chiếu của Ted và Caroline (tìm thấy ở ngăn kéo trong phòng ngủ chính) khẳng định họ chưa từng tới Tây Ban Nha.
Và khi nhận được điện thoại, bố em, József, đã xác nhận một số chi tiết quan trọng trong câu chuyện của chị—bao gồm nhãn hiệu và mẫu mã chiếc xe Chevy Tahoe của vợ ông, những thông tin chưa từng được công bố.
Vào lúc 7 giờ rưỡi sáng ngày hôm sau, thanh tra Brigg đã sang cửa hàng Starbucks ở bên cạnh và mua cho chị một ly trà thảo mộc với một chiếc bánh sandwich trứng và phô mai. Chị ta cũng mời Adrian vào phòng thẩm vấn cùng bọn chị. Anh chàng đã chờ ở ngoài sảnh cả đêm trên chiếc ghế băng dài bằng thép không mấy dễ chịu. Anh chàng ôm chặt lấy chị, nhấc bổng chị lên. Và sau khi cả hai thôi không khóc nữa, chị phải kể lại cho anh nghe toàn bộ câu chuyện từ đầu đến cuối một lần nữa.
“Anh xin lỗi đã không tới sớm hơn,” anh chàng nói.
Hóa ra Adrian là người đã nhấc máy gọi 911—sau khi tới căn chòi của chị và phát hiện ra Ted Maxwell chết trên sàn nhà.
“Đáng lẽ ra anh không nên đi Ohio,” anh chàng nói tiếp. “Nếu anh ở lại Spring Brook với em, đã chẳng có chuyện như thế này.”
“Hoặc cũng có thể cả hai đứa mình cùng chết. Anh không nên để bản thân bị ám ảnh với những viễn cảnh đáng tiếc như thế mãi, Adrian ạ. Anh không thể tự trách mình.”
Quãng đường lái xe từ hồ Seneca tới Spring Brook mất năm tiếng đồng hồ, nhưng sáng hôm đó bố em đã đi hết có ba tiếng rưỡi. Chị có thể hình dung ra những suy nghĩ trong đầu khi bố em lao như bay trên đường cao tốc. Adrian và chị vẫn đang đồn cảnh sát, chia nhau ăn không ngừng mấy thứ đồ ăn vặt ngọt đẫm đường cho tỉnh ngủ thì bố em tới. Chị vẫn còn nhớ chính xác khoảnh khắc thanh tra Brigg dẫn bố em vào phòng. Bố em dong dỏng cao và gầy, với mái tóc bờm xờm, một bộ râu không được cắt tỉa, và đôi mắt trũng sâu ngấn nước. Lúc ban đầu, chị cứ ngỡ có khi đó là một tên tội phạm ở buồng giam bên cạnh. Nhưng bố em mặc đồ giống nông dân, đi ủng lao động và mặc quần Dickies, cùng một chiếc áo sơ mi dạ cài khuy. Và bố em khuỵu gối, nắm lấy tay chị và bắt đầu nức nở.
Chị có thể viết cả một cuốn sách kể lể những gì xảy ra sau đó, nhưng chị sẽ cố tóm lược lại thôi. Em và bố quay lại hồ Seneca, còn Adrian cũng quay lại New Brunswick để hoàn thành nốt năm cuối ở trường Rutgers. Anh chàng gợi ý cho chị tới sống cùng anh, sinh hoạt miễn phí trong căn hộ của anh trong lúc suy nghĩ về bước tiếp theo của cuộc đời. Nhưng cả thế giới của chị đã bị đảo lộn, và chị sợ phải gắn bó sâu sắc với bất kì điều gì trong lúc nhạy cảm này. Thế là chị chuyển tới phòng khách ở nhà người bảo trợ tại Norristown.
Có thể em không nghĩ một cụ ông sáu mươi tám tuổi sẽ là một người sống chung lí tưởng, nhưng bác Russell rất kiệm lời và ưa sạch sẽ; bác ấy tích trữ vô vàn các loại bột protein khác nhau trong tủ đồ khô. Chị xin việc ở một cửa hàng bán giày chạy, để có đồng ra đồng vào. Các nhân viên khác ở cửa hàng tham gia một câu lạc bộ chạy bộ không chuyên, nhỏ thôi, và chị bắt đầu tham gia cùng với họ, hai hoặc ba buổi sáng mỗi tuần. Chị tìm được một nhà thờ tốt với chừng hai, ba mươi giáo dân. Chị cũng bắt đầu quay lại các buổi gặp mặt của những người cai nghiện, chia sẻ câu chuyện và trải nghiệm của mình với mục tiêu là giúp đỡ những người khác.
Chị muốn tới thăm em vào tháng Mười, để chúc mừng sinh nhật em lên sáu, nhưng các bác sĩ của em khuyên không nên. Họ nói rằng em vẫn còn quá mỏng manh và dễ tổn thương, và em vẫn đang trong quá trình “sắp xếp lại” thân phận thật. Họ cho phép được nói chuyện qua điện thoại, nhưng chỉ khi em đề nghị trước, và em chưa bao giờ tỏ ý muốn được nói chuyện với chị.
Thế nhưng, bố em vẫn gọi một hoặc hai lần mỗi tháng để cập nhật cho chị biết những tiến triển của em, và bọn chị trao đổi email qua lại khá thường xuyên. Chị biết được rằng em và bố sống chung trong một căn nhà trên nông trại rộng lớn cùng bác trai, bác gái và các anh chị họ của em. Thay vì bắt đầu đi học mẫu giáo, em tham gia vào rất nhiều chương trình trị liệu khác nhau: liệu pháp hội họa, liệu pháp trò chuyện, liệu pháp âm nhạc, dùng con rối và đóng vai, thực hiện đủ thứ nhiệm vụ. Các bác sĩ của em rất kinh ngạc khi em hoàn toàn không có kí ức gì về chuyện bị dựng dậy, kéo vào trong rừng và bị đẩy lên cây. Họ kết luận rằng não bộ của em đã ngăn chặn những kí ức đó như một cách để phản ứng trước tổn thương.
Bố em là người duy nhất biết những chuyện thực sự đã xảy ra trong khu rừng đêm hôm đó. Chị đã kể cho bố em nghe toàn bộ câu chuyện, và tất nhiên câu chuyện đó thật điên rồ, nhưng khi chị đưa cho bố em xem bản chụp những bức vẽ của mẹ em, với phong cách hội họa khó có ai bắt chước được, bố em tin chắc chị đang nói thật.
Các bác sĩ của em đã kể cho em những thông tin cô đọng. Em biết được rằng em sinh ra là con gái, được đặt tên là Flora, và bố mẹ thật của em là József và Margit. Em biết được rằng Ted và Caroline là những kẻ bệnh hoạn, họ đã gây ra rất nhiều lỗi lầm, và lỗi lớn nhất của họ là tách em khỏi bố mẹ ruột. Sai lầm lớn thứ hai của họ là cho em mặc đồ con trai và đổi tên của em từ Flora thành Teddy. Tiếp đến, các bác sĩ giải thích rằng em có thể lựa chọn được gọi là Flora hoặc Teddy hoặc một cái tên khác hoàn toàn mới; và em có thể chọn ăn mặc như con trai hoặc như con gái hoặc cả hai, mỗi bên một chút. Không ai gây áp lực bắt em phải nhanh chóng đưa ra quyết định. Em được khuyến khích từ từ thích ứng và làm những gì mà em thấy đúng. Các bác sĩ đã cảnh báo rằng nhiều khả năng em sẽ phải mất nhiều năm giằng xé xác định giới tính của mình, nhưng các bác sĩ đã nhầm. Chỉ trong vòng tám tuần lễ, em đã bắt đầu mượn váy của các chị họ và tết tóc và đáp lại khi được gọi “Flora”, thế nên thật ra em không bị bối rối nhiều. Thẳm sâu bên trong, chị nghĩ em vẫn luôn biết em là một bé gái.
Một vài ngày trước lễ Halloween, chị nhận điện thoại và ngạc nhiên vô cùng khi nghe thấy giọng nói của mẹ chị. Mẹ gọi tên chị và ngay lập tức bật khóc. Hóa ra mẹ vẫn dõi theo câu chuyện của chúng ta trên bản tin thời sự và đã mất nhiều tuần cố tìm cách liên lạc với chị—nhưng với tất cả sự cố gắng né tránh giới truyền thông, chị đã khiến không ít người tìm mình cứ ngỡ là bặt vô âm tín. Mẹ nói rằng mẹ rất tự hào khi chị đã cai nghiện thành công, bà nói rất nhớ chị và còn hỏi chị có thể tranh thủ quay về nhà ăn tối với gia đình không. Chị chỉ có thể giữ được bình tĩnh đủ lâu để hỏi mẹ “Khi nào?” và bà nói, “Giờ con đang làm gì?”
Cuối cùng, mẹ chị cũng đã cai thuốc và mẹ trông rất khỏe mạnh. Chị khá bất ngờ khi biết rằng mẹ đã tái hôn. Người đàn ông mới bước vào đời mẹ, chú Tony mà chị đã nhìn thấy ở trên thang, dọn lá cây trên máng nước ấy là một người tuyệt vời. Họ đã gặp nhau trong một nhóm hỗ trợ sau khi chú Tony mất con trai vì dùng thuốc methamphetamine. Chú có công việc đàng hoàng, là quản lý ở một cửa hàng sơn Sherwin-Williams và chú đã dành hết năng lượng thừa vào việc sửa sang lại nhà cửa. Chú đã sơn sửa phòng ốc trong nhà và quét sơn lại tất cả tường gạch ở bên ngoài. Phòng tắm đã được cải tạo hoàn toàn, có vòi tắm sen và bồn tắm mới, còn phòng ngủ cũ của chị đã được chuyển đổi thành một phòng tập có xe đạp và máy chạy bộ. Bất ngờ lớn nhất mà chị biết được đó là mẹ chị đã bắt đầu tập chạy! Suốt thời trung học, Beth và chị chưa từng một lần lôi được bà khỏi ghế, nhưng giờ bà có thể đi được một cây số trong vòng năm phút. Giờ bà mua cả quần tập Lycra, đồng hồ sức khỏe Fitbit và đủ thứ linh tinh khác.
Mẹ và chị ngồi trong gian bếp và nói chuyện hết buổi chiều, nói tới tận đêm muộn. Chị định kể cho mẹ nghe toàn bộ câu chuyện về gia đình Maxwell nhưng bà đã biết gần hết tất tần tật. Bà có một tập tài liệu dày cộm các bản in những câu chuyện mà bà đọc được trên mạng. Bà cắt hết các bài báo trên tờ Inquirer và dán chúng vào một cuốn sổ. Bà bảo rằng bà đã được nhiều người quan tâm chú ý, rằng tất cả hàng xóm cũ đều tự hào vì con gái bà. Mẹ chị đã lưu một danh sách tất cả những người gọi điện tới nhà hi vọng liên lạc lại với chị—bạn thời trung học, đồng đội và huấn luyện viên cũ, các bạn sống cùng ở Safe Harbor. Mẹ chị đã cẩn thận ghi lại hết tên và số điện thoại của họ. “Con nên gọi cho họ, Mallory. Hãy cho họ biết tình hình của con. À! Suýt nữa thì mẹ quên người lạ lùng nhất!” Mẹ đi tới chỗ tủ lạnh và nhấc viên nam châm, để lấy một tấm danh thiếp: Tiến sĩ Susan Lowenthal ở Trường Y khoa Perelman, Đại học Pennsylvania. “Thực ra là cô này gõ cửa nhà mình! Cô ấy nói rằng từng gặp con trong một dự án nghiên cứu gì đó? Và cô ấy đã mất nhiều năm để tìm tung tích của con. Cô ấy nói thế là sao nhỉ?”
Chị nói với bà rằng chị cũng không rõ nữa, và sau đó bỏ tấm danh thiếp vào trong ví và lảng sang chuyện khác. Chị vẫn chưa có đủ can đảm để bấm số điện thoại đó. Chị không chắc muốn nghe những gì tiến sĩ Lowenthal phải nói với mình. Chắc chắn chị không muốn có thêm sự chú ý hay nổi tiếng.
Ngay lúc này, chị chỉ muốn sống cuộc sống của người bình thường.
Tới cuối tháng Bảy—tròn một năm kể từ khi chúng ta rời Spring Brook—chị đã sẵn sàng để chuyển tới sống ở khu kí túc xá cho người hậu cai nghiện thuộc Đại học Drexel. Chị đã cai thuốc được ba mươi tháng và cảm thấy quá trình hồi phục rất tốt. Sau một năm cân nhắc kĩ lưỡng các bước đi tiếp theo, chị đã xác định sẽ theo học đại học và muốn trở thành giáo viên.
Chị muốn phục vụ trong ngành giáo dục tiểu học, tốt nhất là dạy ở lớp mẫu giáo. Chị liên lạc với bố em lần thứ một trăm và hỏi liệu có thể ghé thăm vào mùa hè không. Và lần này kì diệu thay, các bác sĩ của em bảo được. Họ cảm thấy em đang thích ứng tốt với cuộc sống mới và đồng ý là có thể việc chúng ta kết nối lại sẽ đem tới kết quả khả quan.
Adrian gợi ý biến chuyến đi thăm này trở thành một kì nghỉ—kì nghỉ lớn cùng nhau đầu tiên của chị và anh. Bọn chị vẫn giữ liên lạc suốt cả năm qua, anh chàng đã hoàn thành các lớp học ở trường Rutgers. Anh chàng tốt nghiệp vào tháng Năm và được nhận vào Tập đoàn Comcast, làm việc trong một tòa nhà chọc trời lớn ở quận Center City, Philadelphia. Adrian đề nghị bọn chị sẽ tới thăm em ở ngoại ô New York, sau đó tiếp tục di chuyển theo hướng bắc tới thác Niagara và Toronto. Anh chàng đã bố trí một thùng giữ nhiệt to đựng đầy đồ ăn vặt và chuẩn bị một danh sách bài hát để nghe trên đường, còn chị mang một túi đầy nhóc quà đến cho em.
Em sống ở phía tây hồ Seneca, ở một thị trấn tên là Deer Run, và nơi ở mới của em khác hẳn Spring Brook. Ở đây không có cửa hàng Starbucks hay những trung tâm mua sắm hay đại siêu thị- chỉ có những cánh rừng và đất nông trại trải dài, nhà cửa thưa thớt và ở cách xa nhau. Mấy cây số cuối trên hành trình của bọn chị là đi trên một con đường trải đá dăm ngoằn ngoèo dẫn tới cánh cửa của Trang trại Baroth. Bố và bác của em nuôi dê và gà, còn bác gái của em bán sữa, trứng và phô mai cho những du khách giàu có trên hồ Finger. Căn nhà mới của em là một ngôi nhà gỗ dài với hai tầng, được lợp mái ngói màu xanh. Bầy dê được thả ăn cỏ trong một bãi quây ở gần ngôi nhà, và chị nghe thấy tiếng gà cục tác trong kho lúa. Lạ lùng thay, nơi này cảm thấy thật thân thuộc với chị, mặc dù chắc chắn chị chưa từng đến bất kì đâu giống như vậy.
“Em sẵn sàng chưa?” Adrian hỏi.
Chị hồi hộp chẳng thốt nên lời. Chị chỉ ôm chặt túi quà, bước lên những bậc thang dẫn tới cửa chính nhà em và nhấn chuông. Chị hít một hơi thật sâu, sẵn sàng tinh thần sẽ kinh ngạc khi nhìn thấy em dưới hình hài một bé gái. Chị sợ rằng mình sẽ có những phản ứng kì cục, những phản ứng có thể khiến em hoặc chị hoặc cả hai phải chín thẹn.
Nhưng là bố em ra mở cửa. Bố em bước ra ngoài và chào đón chỉ bằng một cái ôm. Bố em đã tăng cân hơn, tạ ơn Chúa. Có lẽ là khoảng bảy hay mười cân. Bố em mang quần bò đứng, với chiếc áo dạ mềm và đôi ủng đen. Lúc đầu, bố em bắt tay Adrian, nhưng sau đó cũng ôm cả anh ấy nữa.
“Vào nhà đi, vào nhà đi,” bố em vừa nói vừa cười to. “Thật mừng là bọn em đã đến!”
Bên trong căn nhà, tất cả đồ đạc đều là đồ gỗ màu trầm, mộc mạc, với những ô cửa sổ lớn nhìn ra đồng cỏ xanh mát. Bố em dẫn bọn chị vào Phòng Lớn, đó là một kiểu phòng khách kết hợp bếp và phòng ăn với một cái lò sưởi bằng đá thật to và cầu thang uốn lượn dẫn lên tầng hai. Bài lá và mảnh ghép xếp hình rải vương vãi lên hết đồ đạc. Bố em xin lỗi vì sự bừa bộn đó; bố em nói hai bác của em bị gọi đi vì có việc khẩn cấp, và họ để bố em ở nhà trông chừng lũ trẻ con. Chị nghe thấy tiếng mọi người đang chơi ở tầng trên, la hét, cười đùa, giọng của năm đứa trẻ nhao nhao tranh nhau nói. Bố em có vẻ cáu quạu, nhưng chị trấn an bảo không sao cả. Chị nói thật tuyệt khi biết rằng em có bạn chơi cùng.
“Anh sẽ gọi Flora xuống ngay thôi,” bố em nói. “Nhưng trước tiên hãy nghỉ chút đã.” Bố em lấy cà phê cho Adrian và một cốc trà thảo mộc cho chị. Bố em cũng mang ra một đĩa những chiếc bánh mì ngọt nho nhỏ với nhân mơ. “Đây là món bánh kolache,” bố em nói. “Nào, nếm thử xem.”
Khả năng nói tiếng Anh của bố em đã khá hơn rất nhiều so với một năm trước. Nhưng vẫn có những âm điệu không thể lẫn đi đâu được—âm “th” nghe như “d” và âm “w” sẽ phát âm thành “v”—nhưng với một người mới định cư ở đây có vài năm, chị nghĩ bố em học tiếng Anh cũng cừ đấy. Chị để ý thấy một bức tranh lớn treo phía trên lò sưởi, vẽ cảnh mặt hồ tĩnh lặng trong một ngày nắng ấm yên bình. Chị hỏi đó có phải là tác phẩm của mẹ em không, và bố em nói phải, và sau đó bố em dẫn bọn chị đi quanh Phòng Lớn, giới thiệu các bức tranh khác của mẹ em. Chúng được treo trong bếp, trong phòng ăn, trên cầu thang—thật sự là treo khắp nơi trong căn nhà. Mẹ em rất tài năng, và bố em rất tự hào về mẹ.
Chị hỏi em có còn vẽ nữa không, em có còn hứng thú với hội họa nữa không, và bố em trả lời là không. “Các bác sĩ có trao đổi về Thế giới của Teddy và Thế giới của Flora. Và giữa hai thế giới đó không có nhiều điểm trùng khớp cho lắm. Thế giới của Teddy có những bể bơi. Thế giới của Flora có hồ Finger. Thế giới của Teddy là vẽ vời rất nhiều. Thế giới của Flora có rất nhiều anh chị cùng con bé chăm nuôi thú vật.”
Chị hơi nhát sợ khi hỏi câu tiếp theo, nhưng chị biết chị sẽ hối hận nếu không hỏi.
“Thế còn Anya thì sao? Cô ấy có phải là một phần trong thế giới của Flora không?”
Bố em lắc đầu. “Không, Flora không còn nhìn thấy Anya của con bé nữa.” Và chỉ thoáng qua thôi, nhưng chị nghĩ giọng bố em có vẻ thất vọng. “Nhưng tất nhiên như vậy tốt hơn. Nên như thế.”
Thực lòng chị chẳng biết đáp sao, thế là chị nhìn ra bên ngoài, nhìn mấy con dê đang nhẩn nha trên bãi cỏ. Chị vẫn nghe được tiếng anh chị họ của em đang chơi ở tầng trên, và rồi đột nhiên chị nhận ra tông giọng và nhịp điệu thân quen từ em. Giọng nói của em giống hệt như trong trí nhớ của chị. Các anh chị của em đang diễn lại cảnh trong phim Phù thủy xứ Oz. Em là Dorothy và một cô chị họ của em là thị trưởng Munchkinland, và cô bé đó hít khí Heli trong bóng bay để làm cho giọng của mình trở nên buồn cười. “Đi xem phù thủy thôi,” tiếng cô bé nheo nhéo, và tất cả bọn em cười rào rào.
Sau đó, năm đứa tụi em vừa lao rầm rầm xuống tầng dưới vừa nghêu ngao bài Ta đi xem Phù thủy thôi nào. Đứa lớn nhất chừng mười hai hay mười ba tuổi, còn cô bé nhỏ nhất mới tập tễnh biết đi, ba đứa còn lại thì ở trong khoảng giữa giữa. Và mặc dù tóc của em đã dài ra và em đang mặc một chiếc váy màu xanh tươi sáng, chị vẫn nhận ra em ngay lập tức. Nét mặt của em vẫn như cũ. Những biểu cảm quanh gương mặt đã khác—nhưng những đường nét mềm mại và dịu dàng thì vẫn như xưa. Em đang cầm một cây gậy chỉ huy, giơ cao quá đầu.
“Flora, Flora, chờ đã,” bố em gọi. “Chúng ta có khách. Chị Mallory và anh Adrian. Từ New Jersey, con nhớ không?”
Những đứa trẻ khác đứng lại và há hốc miệng nhìn bọn chị, nhưng em thì không.
“Bọn cháu đang định ra ngoài,” đứa trẻ lớn nhất giải thích. “Bọn cháu sẽ tới Thành phố Ngọc Bích và em ấy là Dorothy.”
“Flora có thể ở nhà,” József nói. “Để ai khác làm Dorothy đi.”
Tất cả chúng bắt đầu phản đối, liệt kê một loạt lí do tại sao làm thế là bất công và không hợp lý, nhưng József đuổi tất cả ra ngoài. “Flora ở lại. Những đứa khác quay lại sau đi. Nửa tiếng nữa. Ra ngoài chơi.”
Em ngồi bên cạnh bố trên ghế, nhưng vẫn không chịu nhìn chị. Chiếc váy xanh và mái tóc đã dài hơn một chút thực sự làm thay đổi hoàn toàn nhận thức của chị về em. Chỉ cần một vài chi tiết nhỏ tinh tế là đủ để bộ não tự làm nốt phần việc còn lại, tự động hiểu mọi thứ theo hướng ngược lại. Em đã từng là một bé trai. Giờ, em là một bé gái.
“Flora, trông em rất xinh,” chị nói.
“Xinh đẹp,” Adrian nói. “Em cũng nhớ anh nữa, phải không?”
Em gật đầu nhưng vẫn cứ nhìn xuống sàn. Nó khiến chị nhớ lại lần đầu gặp em, trong buổi phỏng vấn xin việc ấy. Em đang vẽ tranh, từ chối giao tiếp bằng ánh mắt. Và chị đã phải mất công một chút để dỗ dành em bắt đầu mở lời. Cảm giác như chúng ta lại trở thành hai người xa lạ, giống như chúng ta đang bắt đầu lại từ đầu.
“Chị nghe nói tháng tới em sẽ bắt đầu vào lớp Một. Em hào hứng chứ?”
Em chỉ nhún vai.
“Chị cũng sẽ bắt đầu học tiếp. Chị sẽ là một sinh viên năm nhất. Ở Đại học Drexel. Chị sẽ học chuyên ngành Sư phạm và muốn trở thành giáo viên dạy mẫu giáo.”
Bố em có vẻ thực lòng cảm thấy vui thay cho chị. Bố em nói, “Thật là một tin tốt!” và bố em nói liền mấy phút về chuyện từng học ngành Nông nghiệp hồi ở Hungary, tại Đại học Kaposvár. Và chị có cảm giác bố em đang gắng nói thật nhiều dù không đâu vào đâu để xua đi sự tĩnh lặng đầy gượng gạo.
Thế là chị đã thử tiếp cận theo một cách khác.
“Chị có mang quà đấy.” Chị đưa cái túi đi chợ sang phía em, và chị thề, chị chưa từng thấy đứa trẻ nào lại sợ hãi khi nhận quà đến vậy. Có thể nói, em đã giật bắn ra sau, tránh xa cái túi, giống như em nghĩ ở trong đó toàn rắn là rắn.
“Flora, chị có quà kìa,” bố em bảo. “Mở ra đi nào con!”
Em bóc giấy gói món quà đầu tiên—một hộp bút chì nước với đầy đủ các màu sắc trong dải màu. Chị giải thích rằng những cây bút này sẽ giống như chì màu bình thường, nhưng nếu em thêm vào một giọt nước, em có thể tô lan màu ra xung quanh, và nó sẽ cho hiệu ứng giống như tranh vẽ bằng màu nước. “Cô bán hàng nói rằng chúng sẽ vui ra phết đấy. Nếu em muốn thử tập vẽ lại.”
“Và màu sắc trông rất đẹp,” bố em nói. “Thật là một món quà ý nghĩa và chu đáo!”
Em mỉm cười và nói “cảm ơn”; sau đó, em bóc giấy gói món quà tiếp theo—sáu quả căng bóng màu vàng được xếp gọn trong một cái hộp lót giấy lụa trắng.
Em chỉ nhìn chị chằm chằm, chờ chị giải thích.
“Em không nhớ à, Flora? Chúng là quả khế. Chị mua ở siêu thị ấy. Em còn nhớ cái hôm chúng ta mua một quả khế không?” Chị quay sang bố em. “Sẽ có những hôm, bọn em thực hiện hoạt động buổi sáng bằng cách đi bộ tới siêu thị, và em sẽ để Flora mua bất cứ thứ gì mà em ấy muốn. Bất kì loại đồ ăn nào, nhưng phải là một món mà bọn em chưa từng thử, và phải có giá dưới 5 đô-la. Thế rồi một ngày em ấy đã nhặt một quả khế. Và bọn em nghĩ quả khế thật sự tuyệt diệu nhỉ! Đó là thứ ngon nhất mà bọn em từng ăn!”
Chỉ đến lúc đó, em mới bắt đầu gật gù, giống như câu chuyện nghe có vẻ quen quen, nhưng chị không chắc có thật là em đã nhớ ra hay không nữa. Nhưng đến lúc này thì chị bắt đầu cảm thấy xấu hổ. Chị muốn lấy lại túi quà—chị thực lòng không muốn em mở món quà cuối cùng—nhưng đã quá muộn. Em giật giấy gói ra và để lộ một cuốn sổ nhỏ có ghi là CÔNG THỨC CỦA MALLORY mà chị đã in ở tiệm photocopy. Chị đã gõ ra nguyên liệu và hướng dẫn cách làm của tất cả các món tráng miệng mà chúng ta đã từng cùng làm với nhau—bánh cupcake và bánh brownie nhân kem phô mai, những chiếc bánh quy ma thuật và bánh pudding sô-cô-la. “Để lỡ em muốn ăn lại. Để lỡ em muốn thử nếm lại những món ăn ưa thích của hai chúng ta.”
Và em cảm ơn, vẻ rất lịch sự, nhưng chị dám chắc cuốn sổ đó sẽ bị bỏ lại trên giá và không bao giờ được chạm tới.
Đột nhiên, chị thấy lòng quặn thắt khi hiểu rõ vì sao các bác sĩ lại không muốn chị tới thăm em—đó là bởi vì em không muốn chị tới thăm. Em đang cố quên chị. Em không thực sự biết rõ những chuyện đã xảy ra ở Spring Brook—nhưng em biết đó là chuyện không hay, em biết đó là chủ đề sẽ khiến người lớn cảm thấy không thoải mái, em biết mọi người sẽ vui vẻ hơn nếu nói chuyện khác. Thế là em đã gác lại quá khứ, em đang thích nghi với cuộc sống mới. Và chị chợt nhận ra, rõ ràng đến mức phũ phàng, rằng chị sẽ không bao giờ là một phần trong cuộc sống mới đó.
Cánh cửa trước tung mở và các anh chị của em đang tiến vào trong nhà, chúng vừa hân hoan hát “Đinh-hoong! Phù thủy đã chết!” vừa bước rầm rầm lên tầng hai. Em quay sang bố với một vẻ mặt cầu cạnh, trong khi khuôn mặt bố em ửng hồng. Bố em đang xấu hổ. “Như thế thật là mất lịch sự” bố em thì thầm. “Mallory và Adrian đã đi rất xa để tới thăm chúng ta. Họ còn mang cho con rất nhiều quà nữa.”
Nhưng chị quyết định sẽ không để em khó xử nữa.
“Không sao đâu ạ.” Rồi chị quay sang phía em và bảo, “Chị không sao đâu. Chị rất mừng khi em có nhiều bạn chơi cùng, Flora ạ. Chị cảm thấy rất là vui. Em nên lên trên nhà và chơi cùng họ đi. Và chúc em vào lớp Một thật nhiều may mắn, được chứ?”
Em mỉm cười và đáp, “Cảm ơn.”
Và chị rất mong được ôm em một cái nữa, nhưng chị phải chấp nhận đón lấy một cái vẫy tay nhanh từ phía bên kia căn phòng. Sau đó, em nhảy lên cầu thang, đuổi theo sau các anh chị của mình. Chị nghe thấy tiếng của em vui sướng hòa cùng lũ trẻ trong đoạn nhạc cuối cùng, tiếng em hét to lấn át cả tiếng của chúng: “Đinh-đoong, mụ phù thủy xấu xa chếttttttt rồi!” Và tiếp đó, tất cả bọn em lại ré lên cười, còn bố em thì vẫn đang dán ánh nhìn xuống đất.
Bố rót thêm trà và cà phê cho bọn chị và nói rằng rất mong bọn chị sẽ ở lại ăn trưa. Bố em giải thích rằng bác Zoe của em đã làm món paprika, một món thịt dê hầm ăn cùng mì trứng. Nhưng chị đáp rằng có lẽ bọn chị nên lên đường thôi. Chị giải thích, bọn chị sẽ lái xe tới Canada, rằng bọn chị sẽ tham quan thác Niagara và Toronto. Adrian và chị chỉ ở lại thêm một chút cho phải phép, và sau đó bọn chị thu dọn đồ lên đường.
Bố em nhận ra chị cảm thấy thất vọng. “Chúng ta có thể thử lại sau vài năm nữa,” bố em hứa. “Sau khi con bé lớn hơn. Sau khi con bé biết được toàn bộ sự thật. Anh biết con bé sẽ có những điều khúc mắc, Mallory ạ.”
Chị cảm ơn bố em vì đã cho phép chị ghé thăm. Rồi chị thơm lên má bố em và chúc bố em gặp nhiều may mắn.
Khi bọn chị ra tới bên ngoài, Adrian vòng tay ôm lấy eo chị.
“Không sao đâu,” chị nói. “Em ổn mà.”
“Cô bé có vẻ sống rất tốt, Mallory ạ. Cô bé có vẻ hạnh phúc. Cô bé sống trên một nông trại trù phú cùng gia đình giữa thiên nhiên. Nơi này thật là tuyệt vời.”
Và chị biết tất cả những điều anh chàng nói đều đúng, ấy thế nhưng.
Chị nghĩ có lẽ là chị đã hi vọng một điều gì khác.
Bọn chị theo con đường trải đá dăm ngoằn ngoèo quay lại chỗ Adrian đỗ xe. Anh chàng đi vòng ra phía bên ghế lái và mở khóa cửa. Lúc chị đang đưa tay định mở cửa, thì nghe thấy tiếng bước chân nhè nhẹ đuổi theo từ phía sau, và chị cảm nhận được sức nặng của cơ thể em lao ầm vào hông chị. Chị quay lại và em ôm chặt hai cánh tay quanh eo chị, vùi mặt em vào lòng chị. Em không nói gì cả, nhưng em cũng không cần nói gì. Chị chưa bao giờ cảm thấy mừng đến như vậy trước một cái ôm.
Sau đó, em buông tay và chạy ngược vào trong nhà, nhưng đó là sau khi em đã nhét một tờ giấy được gập kín vào tay chị—một bức vẽ cuối cùng để chào tạm biệt. Và đó là lần cuối cùng chị gặp em.
Nhưng chị biết bố em nói đúng.
Một ngày nào đó trong tương lai, mười hay hai mươi năm nữa, em sẽ tò mò về quá khứ của mình. Em sẽ đọc những bài viết trên Wikipedia về vụ bắt cóc năm nọ, em sẽ tìm ra tất cả những đồn đoán xung quanh vụ án liên quan tới em, thậm chí em có thể nhận ra một hay hai điểm không thống nhất trong báo cáo chính thức của cảnh sát. Có thể em sẽ tự hỏi vì sao vợ chồng Maxwell lại lừa được nhiều người đến vậy trong một thời gian rất dài, hoặc tại sao một đứa từng nghiện ngập mới 21 tuổi đầu lại có thể giải mã được hết những mảnh ghép đặng tìm ra đáp án. Em sẽ có những thắc mắc về những gì đã thực sự xảy ra ở Spring Brook.
Và từ giờ cho tới ngày đó, cuốn sách này sẽ chờ em lần giở.
Chị cũng sẽ chờ nữa.