CHƯƠNG 11

Phải nói thật là tôi không đời nào tin Teddy lại có thể vẽ nên những bức tranh ấy được. Đa phần người lớn cũng không thể vẽ đẹp như thế—huống hồ một thằng bé năm tuổi vẫn còn ngủ với thú nhồi bông và không thể đếm qua số hai mươi chín.

Nhưng ngoài nó ra thì còn ai vứt những bức vẽ ấy vào thùng rác tái chế kia chứ?

Không lẽ là Ted sao? Hay Caroline?

Không lẽ vợ chồng Maxwell đang học vẽ tranh mỗi khi rảnh rỗi sao?

Tất cả những câu hỏi của tôi lại mở ra thêm nhiều điều nghi vấn hơn nữa, và chỉ một khắc sau, tôi ước gì mình đã không bật dậy khỏi giường. Ước gì tôi cứ để cho chiếc xe chở rác đó đem hết những manh mối này đi, như thế tôi đã chẳng phải bận tâm suy nghĩ cho nhọc óc.

Nhoắng cái ngày thứ Hai đã trôi qua—chơi LEGO, làm món mì nui sốt phô mai, Thời gian yên tĩnh, đi bơi—nhưng đến tối, tôi đã sẵn sàng tìm hiểu nghiêm túc một số việc. Tôi tắm rửa, gội đầu và khoác lên người bộ cánh thuộc loại đẹp nhất của Caroline, một chiếc váy dài qua gối điểm những bông hoa trắng xinh trên nền màu xanh mát. Sau đó, tôi đi bộ hơn một cây rưỡi vào khu trung tâm tới The Raconteur, một hiệu sách bán lẻ ở khu Spring Brook.

Tôi rất ngạc nhiên khi hiệu sách đông đúc vào một tối thứ Hai—một nhà văn sống trong vùng đã tổ chức buổi nghe thử tác phẩm và không khí nom rất huyên náo, giống như tiệc tùng đình đám. Đám đông nhâm nhi rượu vang rót vào ly nhựa và ăn bánh ga-tô đựng trong đĩa giấy. Tôi phải lách qua chỗ đông người để tới khu bán sách nuôi dạy trẻ, nhưng tôi thấy rất may vì không ai để ý đến mình, tôi không muốn nhân viên cửa hàng đến đề nghị giúp đỡ tìm thứ gì đó. Họ mà biết được thứ tôi đang định tìm hiểu, chắc họ sẽ nghĩ tôi là con dở hơi.

Tôi tìm mấy cuốn sách và men theo lối cửa sau đi ra chỗ mái hiên rộng, lát gạch đỏ—ở đó có một quán cà phê đông như nêm, đèn Giáng sinh giăng xung quanh, sáng lấp lánh. Có một quầy bar nhỏ bán đồ ăn vặt và thức uống; có một cô gái tuổi teen, dáng vẻ trông đứng đắn, ngồi trên một chiếc ghế không tựa, tay ôm đàn ghi-ta acoustic, chân đong đưa sau chiếc quần yếm ca bài Tears in Heaven. Nghe bài hát, tôi không khỏi nhớ tới buổi tưởng niệm em gái tôi; đây là một trong số những bài hát được hát đi hát lại trong buổi lễ. Bài hát thi thoảng cũng vang lên trong tâm trí tôi khi đi siêu thị hay ăn ở nhà hàng, và thậm chí sau khi nghe cả nghìn lần, nó vẫn có sức lay động khiến tôi giàn giụa nước mắt. Những bài hát qua giọng cô gái trẻ này thật tươi sáng hơn bản nhạc gốc của Eric Clapton. Có gì đó trong độ tuổi của cô ấy khiến bài hát dường như mang theo hi vọng.

Tôi đi ra chỗ quầy bar và gọi một ly trà với một cái bánh mì ngọt, và chợt nhận ra tôi không thể cầm cho hết được. Thêm nữa, tất cả các bàn đều đã chật kín, và dường như chẳng thấy có người nào sắp rời đi. Song, tôi không thể tin được mình lại may mắn đến dường nào khi nhìn thấy Adrian ngồi một mình góc bàn dành cho hai người, say sưa đọc một cuốn trong bộ Chiến tranh giữa các vì sao.

“Tôi ngồi cùng được không?”

Và rất buồn cười—lần này anh chàng lại không nhận ra tôi, không nhận ra ngay tức thì, không nhận ra khi tôi mặc chiếc váy 500 đô-la lộng lẫy của Caroline. “À được! Tất nhiên rồi! Mallory! Cậu khỏe chứ?”

“Tôi không nghĩ chỗ này lại đông đến thế.”

“Ở đây lúc nào chẳng đông,” Adrian nói. “Đây là nơi đình đám thứ ba ở Spring Brook đấy.”

“Vậy hai chỗ khác là ở đâu?”

“Số một là nhà hàng Cheesecake Factory, hiển nhiên rồi. Số hai là nhà hàng buffet món nóng của Wegmans.” Anh chàng nhún vai. “Dân ở đây không có nhiều hoạt động về đêm lắm.”

Cô gái ôm đàn ghi-ta đã hát xong bài Tears in Heaven. Mọi người vỗ tay chiếu lệ, trong khi Adrian lại vỗ thật to và lâu, và cô bé nhìn về phía chúng tôi với vẻ mặt khó chịu. “Em họ của mình, Gabriella,” anh chàng nói. “Nó mới mười lăm tuổi, cậu tin nổi không? Nó hiên ngang bước vào đây cùng một cây đàn ghi-ta và họ đồng ý giao việc cho nó.”

Gabriella ghé sát người vào micrô và nói rằng cô chuẩn bị chuyển sang nhạc của nhóm The Beatles, và sau đó cô bắt đầu hát một phiên bản rất ngọt ngào bài Blackbird. Tôi liếc sang cuốn sách Adrian đang đọc. Bìa sách là hình ảnh Chewbacca bắn laser vào một đội quân rô-bốt, và tiêu đề cuốn sách được in bằng dòng chữ lớn phủ bạc: Wookiee báo thù.

“Cuốn đó có gì hay không?”

Adrian nhún vai. “Nó không theo mô-típ truyền thống thì phải!? Thế nên truyện được viết khá tự do. Nhưng nếu cậu thích phần Evok báo thù, cậu sẽ thích cuốn này.”

Tôi không kiềm chế được—tôi bắt đầu bật cười. “Cậu thú vị thật đấy. Trông cậu giống một tay thợ làm vườn. Cậu có nước da nâu giòn và móng tay lem nhem bùn đất. Nhưng hóa ra cậu lại là công tử con nhà có điều kiện và là một con mọt của Chiến tranh giữa các vì sao.

“Mình đã dành cả mùa hè để nhổ cỏ rồi. Giờ mình cần một thú vui để thoát khỏi thực tại chứ.”

“Tôi hiểu. Tôi xem kênh Hallmark cũng vì lẽ đó.”

“Thật thế sao?”

“Không đùa đâu. Tôi đã xem hết cả năm phần phim Manh mối tử thần. Thú thật tôi chẳng kể chuyện này với nhiều người đâu, thế nên tôi tin là cậu sẽ giữ bí mật cho tôi.”

Adrian bắt tay chữ X trước ngực. “Cậu có thể hoàn toàn yên tâm,” anh chàng nói. “Cậu đang đọc sách gì vậy?” Tôi không cần đáp lại bởi mớ sách tôi lấy đã để cả trên bàn, và Adrian có thể đọc được tên ở gáy sách: Tâm lý bất thường ở trẻ emBách khoa toàn thư về các hiện tượng siêu nhiên. “Đây là cách cậu thư giãn sau một ngày dài trông trẻ sao?”

“Nếu tôi kể cậu nghe lí do tôi đọc những cuốn sách này, nhiều khả năng cậu sẽ nghĩ tôi đang bị điên.”

Adrian gấp cuốn sách Wookie báo thù lại và đặt nó sang bên, hướng toàn bộ sự chú ý về phía tôi. “Tất cả những câu chuyện yêu thích của mình đều bắt đầu với lời cảnh báo đó.” anh chàng nói. “Kể mình nghe đi nào.”

“Đó thực sự là một chuyện rất dài.”

“Mình không bận gì hết.”

“Tôi đang cảnh báo trước. Có thể hiệu sách sẽ đóng cửa trước khi tôi kịp kể xong.”

“Hãy kể từ đầu và đừng bỏ qua một chi tiết nào,” anh chàng nói. “Cậu không thể biết trước chi tiết nào là chi tiết quan trọng đâu.”

Thế là tôi kể cho anh chàng nghe về buổi phỏng vấn với vợ chồng Maxwell, về căn chòi dành cho khách, về lịch trình hàng ngày của tôi với Teddy. Tôi mô tả những tiến bộ trong các bức vẽ của Teddy và những cuộc trò chuyện kì lạ xảy ra trong phòng ngủ của cậu bé. Tôi nhắc đến những cuộc chuyện trò giữa tôi với Mitzi và với vợ chồng Maxwell. Tôi hỏi anh ta có biết gì về chuyện của Annie Barrett hay không, và anh ta cam đoan với tôi rằng mọi đứa trẻ ở Spring Brook đều biết chuyện đó. Dường như mụ chính là con ngáo ộp trong mắt người dân địa phương, mụ luôn rắp tâm biến những đứa trẻ đi lạc vào rừng sau khi trời tối thành con mồi.

Và sau gần một giờ nói chuyện (và sau khi cô em họ của anh chàng đã cất đàn và đi về, sau khi tất cả những bàn xung quanh không còn một mống khách và chỉ còn lại mình tôi với Adrian, và nhân viên quán đang lau dọn bàn), tôi với tay vào trong túi và đưa cho anh ta xem thứ tôi vừa phát giác gần đây—những bức tranh lấy được từ thùng rác.

Adrian lật giở từng bức tranh với vẻ sửng sốt. “Cậu nói là Teddy vẽ những bức tranh này sao? Teddy lên năm ấy sao?”

“Loại giấy đó là từ tập giấy vẽ của Teddy. Và tôi nghe thấy tiếng cậu bé vẽ trong phòng. Cậu ta ra khỏi phòng với vết bút chì lem đầy các ngón tay. Điều duy nhất mà tôi có thể nghĩ ra là…” tôi gõ gõ vào cuốn Bách khoa toàn thư về các hiện tượng siêu nhiên. “Có thể cậu bé đang kết nối với ai đó. Có thể đó là linh hồn của Annie Barrett.”

“Cậu nghĩ Teddy bị ma nhập sao?”

“Không. Trường hợp này không giống như trong phim Quỷ ám. Annie không phải đang tìm cách tiêu diệt linh hồn của Teddy hay độc chiếm thân xác cậu bé. Bà ấy chỉ muốn mượn tay cậu bé thôi. Bà ấy dùng nó trong khoảng Thời gian yên tĩnh, khi chỉ có một mình cậu bé trong phòng ngủ. Còn những lúc khác trong ngày, bà ấy để cậu bé yên.”

Tôi ngừng lại để Adrian có thể cười cợt hoặc trêu tôi, nhưng anh chàng không làm gì cả, thế là tôi trình bày nốt giả thiết của mình: “Annie Barrett là một họa sĩ giỏi. Bà ấy đã tự vẽ lấy. Nhưng đây là lần đầu tiên bà ấy mượn tay người khác để vẽ. Thế nên mấy lần thử vẽ đầu tiên khá là tệ. Chúng chỉ là những đường nét nguệch ngoạc. Nhưng sau một vài trang, bà đã vẽ tốt hơn. Bà đã kiểm soát được và bắt đầu vẽ thêm nhiều chi tiết hơn. Những khoảng sáng, khoảng tối trên bề mặt tranh. Bà ấy đang điều khiển công cụ mới của mình—là bàn tay của Teddy ấy.”

“Vậy tại sao những trang vẽ này lại ở trong thùng rác?”

“Có thể là Anya vứt chúng. Hoặc có thể là Teddy, tôi không chắc nữa. Thằng bé trở nên rất bí hiểm về những bức vẽ của mình.”

Adrian xem lại một lượt các bức tranh thêm lần nữa, lần này anh chàng xem chúng kĩ càng hơn. Anh chàng xoay ngược một số bức tranh, tìm kiếm hàm ý sâu sắc hơn ẩn trong những nét vẽ nguệch ngoạc. “Cậu có biết chúng nhắc ta nhớ đến cái gì không? Những hình đố trên tạp chí Highlights. Họa sĩ thường giấu nội dung thật sự ở sau nền của bức tranh. Kiểu như mái của một căn nhà thật ra lại là một chiếc ủng hoặc một cái pizza hay cây gậy khúc côn cầu, cậu nhớ mấy cái tranh kiểu đó không?”

Tôi biết những hình đố mà anh chàng đang nhắc tới—em gái và tôi từng rất thích chúng—nhưng tôi nghĩ những bức tranh này truyền tải nội dung một cách thẳng thắn hơn nhiều.

Tôi chỉ bức tranh vẽ người phụ nữ gào khóc thống thiết. “Tôi nghĩ đây là một bức tự họa. Tôi nghĩ Annie đang vẽ lại câu chuyện mình bị sát hại.”

“Ừm, có một cách đơn giản để biết những gì cô nghĩ có đúng không. Hãy đi tìm một bức ảnh thật của Annie Barrett. Đem so sánh ảnh của bà ấy với người phụ nữ trong bức tranh này. Thử xem có trùng khớp không!?”

“Tôi tìm thử rồi. Trên mạng chẳng có gì hết.”

“Ừm, thật may cho cậu, cứ đến hè mẹ mình lại làm việc ở thư viện công cộng của Spring Brook. Ở đó, họ có một kho lưu trữ khổng lồ về lịch sử thành phố. Có cả một căn hầm chứa đầy tư liệu. Nếu ai đó có giữ ảnh của Annie Barrret, thì chính là họ.”

“Thế cậu nhờ mẹ cậu được không? Bác ấy sẽ không phiền chứ?”

“Cậu đùa sao? Đó là lí tưởng sống của mẹ mình. Bà là một giáo viên và là một thủ thư bán thời gian. Nếu mình kể với bà rằng cậu đang nghiên cứu lịch sử địa phương, bà sẽ trở thành người bạn thân mới của cậu ngay.”

Anh chàng hứa sẽ nhờ mẹ giúp ngay sáng hôm sau, và tôi cảm thấy thoải mái hơn nhiều, bởi vì tôi đã chia sẻ được những vướng mắc của mình. “Cảm ơn Adrian. Tôi rất mừng vì cậu không nghĩ tôi bị điên.”

Anh chàng nhún vai. “Mình nghĩ chúng ta phải cân nhắc mọi khả năng có thể. Khi loại bỏ điều không thể thì tất cả những gì còn lại, dù khó tin đến đâu, nhất định sẽ là sự thật. Đó là câu nói của Spock trong Du hành giữa các vì sao phần 6, nhưng là đạo lời của Sherlock Holmes.”

“Ôi trời,” tôi nói. “Cậu đúng là một con mọt sách.”

Chúng tôi đi bộ về nhà khi trời đã tối đen, lối đi trên vỉa hè lúc này thuộc về chúng tôi. Khu dân cư có cảm giác an toàn, vắng lặng và bình yên. Adrian đóng vai hướng dẫn viên, giới thiệu nhà của mấy người bạn thời trung học sừng sỏ nhất của anh, kiểu như Anh chàng đã làm lật chiếc SUV của bố mẹ và Cô nàng phải chuyển trường sau một video bê bối trên TikTok. Tôi có cảm giác anh ta biết tất cả mọi người ở Spring Brook, rằng những năm tháng trung học của anh giống như một bộ phim dài tập dành cho tuổi ô mai đầy hào nhoáng trên Netflix, những bộ phim ùm bà lằng với các nhân vật xinh lung linh và kết quả của một trận bóng cấp trường mang ý nghĩa quyết định vận mệnh cả một đời.

Lát sau, anh chàng chỉ một căn nhà ở góc phố và bảo rằng đó là nơi Tracy Bantam lớn lên.

“Tôi có biết người đó không nhỉ?”

“Hậu vệ dẫn bóng của đội Các quý cô sư tử ấy. Đội bóng rổ của trường Penn State. Mình nghĩ hai người biết nhau đấy.”

“Trường Penn State to lắm,” tôi nói. “Có năm mươi nghìn sinh viên cơ mà.”

“Mình biết, chỉ là mình nghĩ tất cả hội thể dục thể thao đều chơi với nhau.”

Tôi không đáp lời Adrian ngay. Anh chàng đang cho tôi một cơ hội tuyệt vời để thành thật. Tôi nên thú nhận với anh chàng rằng đó là một trò đùa ngu ngốc, một trò chơi mà tôi đã qua lại với người lạ. Nói rõ sự thật trước khi mối quan hệ của hai chúng tôi tiến xa hơn. Tôi nghĩ có thể anh chàng sẽ hiểu.

Chỉ có điều tôi không thể nói với Adrian một phần mà không để lộ hết toàn bộ sự thật. Nếu tôi thú nhận rằng thật ra tôi chưa từng học đại học, tôi sẽ phải giải thích cho anh chàng biết mấy năm gần đây tôi đã làm gì—và tôi chưa sẵn sàng nhắc tới chuyện đó, không phải bây giờ, không phải khi chúng tôi đang nói chuyện với nhau vui vẻ đến nhường này. Thế là tôi đổi chủ đề.

Chúng tôi đi tới Lâu đài hoa, nhưng Adrian nói sẽ đưa tôi về nhà, và tôi không từ chối. Anh chàng hỏi tôi là người ở đâu và ngạc nhiên khi biết rằng tôi lớn lên ở Nam Philly, rằng tôi có thể nhìn thấy công viên Citizens Bank từ cửa sổ phòng ngủ. “Trông cậu có vẻ không giống như dân ở thành phố đó.”

Tôi cố bắt chước sao cho giống nhất tông giọng của võ sĩ Rocky Balboa: “Nè Adrian! Anh nghĩ tất thảy bọn tui đều nói kiểu vầy sao?”

“Không phải tại giọng của cậu. Là cách cậu thể hiện ra ngoài ấy. Cậu rất tích cực. Cậu không uể oải như những người khác.”

Ôi, Adrian. Tôi nghĩ đến bản thân. Anh chẳng biết tôi thế nào đâu.

Anh chàng chợt hỏi, “Bố mẹ cậu vẫn ở Nam Philly chứ?”

“Chỉ có mẹ tôi thôi. Họ chia tay từ hồi tôi còn nhỏ, và bố tôi chuyển tới Houston. Tôi không biết nhiều về ông ấy.”

Tất cả những điều này là thật, nên tôi nghĩ câu trả lời của mình tương đối thuyết phục, nhưng rồi sau đó Adrian hỏi tới chuyện anh chị em.

“Chỉ có một người, Beth.”

“Là chị hay em?”

“Em. Em ấy mười ba tuổi.”

“Em ấy tới xem cậu thi đấu chứ?”

“Xem luôn. Chỉ mất ba tiếng ngồi ô tô, chuyến một chiều, nhưng nếu mà chạy gần nhà, mẹ và em tôi sẽ luôn đến xem.” Và giọng tôi nghẹn lại—tôi không biết tại sao mình lại thốt ra những lời này. Tôi muốn thành thật với anh chàng, muốn có một mối quan hệ thực sự, ấy thế nhưng hết lời nói dối này đến lời nói dối khác cứ thi nhau cất lên.

Nhưng khi bước đi bên dưới ánh trăng, bên cạnh anh chàng làm vườn ngọt ngào và điển trai này, thật dễ để tôi đầu hàng trước những mộng tưởng hão huyền. Quãng quá khứ của tôi so với hiện thời ở đây cách xa vời vợi đến vạn dặm.

Khi chúng tôi tới nhà Maxwell, xung quanh đã tối đen. Lúc đó là quá mười rưỡi, và chắc hẳn mọi người đã đi ngủ cả. Chúng tôi men theo con đường nhỏ lát đá bao quanh hông của nhà chính, phía sau nhà thậm chí còn tối hơn, chỉ có ánh sáng xanh lờ mờ dưới hồ bơi hắt ra.

Adrian nheo mắt nhìn về phía bên kia khoảnh sân, đảo mắt qua hàng cây tìm căn chòi. “Chỗ của cậu ở đâu vậy?”

Tôi cũng không nhìn thấy nó. “Đâu đó đằng sau hàng cây. Tôi để đèn ngoài hè, nhưng tôi đoán bóng đèn cháy mất rồi.”

“Hừm. Kì quặc thật đấy.”

“Thật à?”

“Sau tất cả những chuyện cậu kể, mình không biết nữa.”

Chúng tôi băng qua sân cỏ tới căn chòi, và Adrian đứng chờ trên thảm cỏ trong lúc tôi bước theo những bậc thang tiến lên cửa chính. Tôi thử mở cửa và cửa vẫn khóa, thế là tôi với tay tìm chìa khóa. Đột nhiên, tôi thấy thật may khi Caroline nhất mực bắt tôi gài khẩu súng điện Viper vào móc khóa. “Có khi tôi sẽ thử xem xét bên trong một chút. Cậu chờ tôi được không?”

“Được, không vấn đề gì.”

Tôi mở khóa, thò tay vào trong, gạt công tắc điện của bóng đèn ngoài hè—cháy thật. Nhưng đèn bên trong thì vẫn bật được, và căn chòi trông vẫn nguyên trạng như lúc tôi đi. Không có gì trong bếp, không có gì trong nhà tắm, tôi thậm chí còn quỳ xuống và liếc nhìn một lượt bên dưới gầm giường.

“Ổn cả chứ?” Adrian gọi to.

Tôi bước trở ra bên ngoài. “Ổn cả. Tôi chỉ cần thay một bóng đèn mới thôi.”

Adrian hứa sẽ gọi điện khi anh chàng có thêm thông tin về Annie Barrett. Tôi nhìn theo, chờ anh chàng băng qua sân và vòng qua hông nhà chính, rồi đi khuất hẳn.

Và khi tôi quay người định trở vào trong căn chòi, chân tôi sượt qua một hòn đá xám thô sần to cỡ bằng một quả bóng tennis. Tôi cúi xuống nhìn và nhận ra mình đang đứng trên mớ giấy, ba tờ giấy có phần rìa rách lem nhem, và hòn đá đang chặn bên trên để giữ yên. Quay lưng lại với cửa căn chòi, tôi cúi người và nhặt chúng lên.

Sau đó, tôi đi vào bên trong, khóa cửa, và ngồi bên mép giường, lần lượt lật từng trang. Chúng giống như ba bức tranh mà Ted Maxwell đã xé tan thành từng mảnh—ba bức tranh mà anh ta đã thề là tôi sẽ không bao giờ nhìn thấy lần nữa. Chỉ có điều chúng đã được một bàn tay khác vẽ lại. Những bức tranh này đậm hơn và chi tiết hơn. Chúng được đồ nhiều chì và than đến mức tờ giấy cong oằn cả lên. Một gã đang đào mộ huyệt. Một phụ nữ bị kéo lê trong rừng. Và ai đó đang ngước mắt nhìn lên từ dưới đáy của một cái hố sâu hoắm.