CHƯƠNG 5

Hai ngày cuối tuần trôi qua êm ả. Caroline và Ted vẫn thường lên kế hoạch tổ chức sinh hoạt gia đình—họ sẽ lái xe đến bờ biển trong Ngày đi biển, hoặc họ sẽ đưa Teddy đến bảo tàng trong thành phố. Họ luôn rủ tôi đi cùng nhưng tôi không bao giờ nhận lời, bởi tôi không muốn quấy quả thời gian riêng tư của họ. Thay vào đó, tôi chỉ quanh quẩn trong căn chòi, làm như thể bận rộn bởi tôi chẳng muốn rảnh tay rảnh chân… Vào tối thứ Bảy, phần đa nam thanh nữ tú khắp nước Mỹ đang đàn đúm, tán tỉnh, đùa cợt và bù khú với nhau thì tôi đang nai lưng ra trước bồn cầu với hộp thuốc tẩy Clorox dạng xịt, chà sát từng kẽ trên nền phòng tắm. Chủ nhật cũng không khá khẩm hơn. Tôi đã thử tìm đến các nhà thờ ở khu này nhưng cho đến giờ chẳng có tích sự gì. Tôi luôn là người trẻ nhất, cách họ đến hai chục năm tuổi, tôi ghét cái kiểu các giáo dân khác nhìn tôi như là trường hợp dị thường trong vườn bách thú.

Thi thoảng, tôi lại bị cám dỗ tham gia mạng xã hội, kích hoạt lại tài khoản Instagram và Facebook, nhưng tất cả cố vấn trong chương trình hỗ trợ cai nghiện đều cảnh báo tôi tránh xa. Họ cho rằng bản thân những trang mạng đó cũng tiềm tàng nguy cơ gây nghiện, rằng chúng gây ra nhiều hệ lụy đối với sự tự tin của thanh niên. Vậy nên tôi cố làm cho mình tất bật với những niềm vui thực sự và đơn giản, chẳng hạn như tập chạy, nấu ăn và đi dạo.

Song, tôi thấy vui nhất là khi hai ngày cuối tuần kết thúc và tôi lại có thể quay trở lại với công việc. Sáng thứ Hai, tôi đến nhà chính và thấy Teddy đang chui dưới bàn bếp, chơi với mấy con thú nông trại bằng nhựa.

“Chào em, Gấu Teddy yêu! Em thế nào?”

Cậu giơ con bò nhựa lên và kêu mu… mu…

“Thật hay đùa thế này, em bị biến thành bò rồi ư? Chà chà, thế thì hôm nay chị sẽ biến thành cô-trông-bò! Hào hứng quá đi mất!”

Caroline phóng như bay qua căn bếp, chộp lấy chìa khóa xe và điện thoại với tập hồ sơ dày cộp giấy tờ. Chị hỏi tôi có thể ra tiền sảnh nói chuyện một lúc được không. Khi chúng tôi đã ở khoảng cách an toàn so với Teddy, chị giải thích rằng cậu bé đã tè ướt giường và tấm ga trải nệm đang ở trong máy giặt. “Lát nữa em mang chúng cho vào máy sấy sau khi giặt xong giúp chị nhé? Chị đã lồng bộ ga mới vào giường cho thằng bé rồi.”

“Chắc chắn rồi. Cu cậu có ổn không chị?”

“Teddy ổn. Chỉ hơi xấu hổ một chút. Dạo gần đây nó hay như thế. Chắc do căng thẳng của việc chuyển nhà.” Chị ấy cầm lấy cái cặp xách để ở tủ ngoài hành lang và nhấc nó lên vai. “Đừng nói là chị đã tiết lộ nhé. Thằng bé không muốn em biết.”

“Em sẽ không nói gì đâu.”

“Cảm ơn em, Mallory. Em đúng là cứu tinh!”

Hoạt động buổi sáng yêu thích nhất của Teddy là khám phá “Khu rừng Ma thuật” ở phía sau nhà. Hàng cây cao dựng thành một vòm thực vật dày đặc trên đầu, thế nên vào một ngày nắng đậm rực thì không khí trong rừng vẫn mát lạnh. Những lối mòn quanh co và khuất nẻo đã được chúng tôi đặt tên riêng. Đường Gạch Vàng là tuyến đường bằng phẳng cứng ngắc bắt đầu từ phía sau căn chòi và chạy song song với mọi căn nhà nằm trên phố Edgewood. Chúng tôi men theo cho đến chỗ tảng đá mòn xám thật to được gọi là Trứng Rồng, rồi rẽ hướng vào Đèo Rồng, đó là một lối mòn nhỏ hơn uốn éo qua lùm cây gai mọc um tùm. Hai chị em phải đi thành một hàng, hai bàn tay chìa ra trước để không bị cào xước. Con đường này dẫn chúng tôi đến một thung lũng nối với Con sông Hoàng gia (một lạch nước chảy chậm bốc mùi thối, hiếm khi nào sâu đến thắt lưng) và Cầu Rêu (một thân cây dài mục ruỗng nối đôi bờ nước, phủ đầy tảo và các loại nấm kỳ lạ). Chúng tôi đi rón rén trên thân gỗ đó và tiếp tục men theo đường mòn dẫn đến Cây Đậu Thần Khổng Lồ—cái cây cao nhất trong khu rừng, với những cành tua tủa vươn lên chạm tới bầu trời.

Teddy thường thích mô tả như vậy. Cậu hay thêu dệt nhiều câu chuyện tưởng tượng khi chúng tôi đi bộ đường dài, kể về những chuyến phiêu lưu của Hoàng tử Teddy và Công chúa Mallory, hai chị em dũng cảm bị Hoàng gia chia cắt và đang cố gắng tìm đường về nhà. Thi thoảng, cả hai đi bộ cả buổi sáng mà không thấy một bóng người. Đôi khi lại thấy một hai người dắt chó đi dạo. Nhưng hiếm khi thấy đứa trẻ nào, tôi tự hỏi liệu đấy có phải lý do khiến Teddy thích khu rừng nhiều đến vậy không.

Song, tôi không nhắc đến giả thuyết này với Caroline.

Sau khoảng hai giờ loay hoay trong khu rừng, hai chị em đã đói bụng, nên cả hai quay trở lại nhà ăn trưa, tôi làm vài miếng bánh mì kẹp phô mai nướng. Sau đó, Teddy lên lầu vào quãng Thời gian yên tĩnh. Tôi chợt nhớ ra ga giường của cậu vẫn còn nằm trong máy sấy, nên tôi đã đi lên phòng giặt đồ trên tầng hai.

Trên đường đi ngang qua phòng của Teddy, tôi bỗng nghe thấy tiếng cậu bé đang tự nói chuyện. Tôi dừng lại và áp tai lên cánh cửa, nhưng chỉ nghe hội thoại rời rạc. Giống như đang nghe một bên nói chuyện qua điện thoại, khi mà chỉ có một người thao thao bất tuyệt. Thi thoảng, có những khoảng dừng trong lời nói của cậu, một vài câu dài hơn những câu khác.

“Có thể? Nhưng em…”

“Em không biết.”

“...................................”

“Đám mây? Kiểu như khủng ấy à? Phồng phồng sao?”

“............................................................”

“Em xin lỗi. Em không hiểu…”

“...................................................................................................................................................................................................................”

“Ngôi sao? Được, ngôi sao!”

“...................................................................................................................................................................................................................”

“Thật nhiều sao trời, em hiểu rồi.”

“...................................................................................................................................................................................................................”

Tôi tò mò, cảm thấy thôi thúc phải gõ cửa—nhưng điện thoại dưới nhà reo lên, nên tôi rời khỏi cửa phòng cậu và vội vã xuống tầng một.

Ted và Caroline đều có điện thoại di động nhưng họ cương quyết giữ lại điện thoại bàn cho Teddy để cậu bé có thể bấm gọi 911 trong trường hợp khẩn cấp. Tôi nhấc máy; người gọi điện giới thiệu mình là Hiệu trưởng trường mẫu giáo Spring Brook. “Có phải bà Caroline Maxwell đấy không?”

Tôi bảo mình chỉ là người trông trẻ nên bà ấy nhấn mạnh không có việc gì khẩn cấp cả. Bà ấy chỉ gọi để chào mừng gia đình Maxwell tham gia hệ thống trường học với tư cách cá nhân. “Tôi muốn nói chuyện với phụ huynh trước ngày tựu trường. Thông thường họ có điều lo lắng không yên.”

Tôi ghi lại tên và số điện của bà ấy, hứa sẽ chuyển lời nhắn đến Caroline. Một lúc sau, Teddy bước vào bếp với bức tranh mới. Cậu úp bức vẽ xuống dưới bàn và trèo lên ghế. “Em ăn một quả ớt chuông xanh được không?”

“Được chứ.”

Ớt chuông xanh là món ăn nhẹ khoái khẩu của Teddy nên Caroline mua hàng tá để trong tủ. Tôi lấy một quả từ trong tủ lạnh ra, rửa sạch nó dưới vòi nước lạnh và khoét bỏ cuống. Sau đó, tôi cắt rời phần đầu quả, tạo thành một vòng tròn, sau đó thái tiếp phần còn lại thành những miếng nhỏ vừa ăn.

Chúng tôi ngồi xuống bàn ăn. Trong lúc cậu bé đang nhai ớt chuông một cách vui vẻ thì tôi bỗng chú ý đến bức tranh. Đó là hình một người đàn ông đang bước thụt lùi về phía khu rừng rậm rạp như mê lộ. Người đó đang nắm cổ chân một người phụ nữ, kéo lê cái thi thể không còn sức sống trên mặt đất. Phía đằng sau, giữa những hàng cây là mặt trăng lưỡi liềm và những ngôi sao nhỏ lấp lánh.

“Teddy ơi? Đây là gì thế?”

Cậu bé nhún vai. “Một trò chơi ạ.”

“Trò chơi gì thế?”

Cậu cắn một miếng ớt chuông, vừa nhai vừa nói. “Anya nghĩ ra một câu chuyện, còn em sẽ vẽ lại.”

“Giống trò Nhìn tranh đoán chữ hả?”

Teddy cười hì hì và phun ra vài vụn ớt chuông khắp bàn. “Nhìn tranh đoán chữ?!?” Cậu ngả người ra ghế, cười ngặt nghẽo, trong khi tôi lấy khăn bếp lau sạch vết bẩn. “Anya không chơi trò Nhìn tranh đoán chữ được!”

Tôi nhẹ nhàng dỗ dành và cho cậu uống một ngụm nước.

“Thế kể lại từ đầu đi xem nào,” tôi bảo, cố cất giọng nhẹ nhàng. Tôi không muốn để lộ ra trong giọng nói có phần hoảng sợ. “Giải thích cho chị hiểu trò chơi này như thế nào đi.”

“Em đã nói rồi mà, chị Mallory. Anya sẽ kể một câu chuyện, còn em phải vẽ lại. Có thế thôi. Cả trò chơi chỉ có thế.”

“Thế người đàn ông này là ai?”

“Em không biết.”

“Người này có làm đau Anya không?”

“Làm sao em biết được? Đây không phải trò Nhìn tranh đoán chữ! Anya không thể chơi được mấy trò dùng bảng đâu!”

Cậu bé lại ngả người ra ghế, lại cười khúc khích, một nụ cười sảng khoái vô tư lự mà chỉ có trẻ con mới làm được. Tôi nghĩ nụ cười ấy đã xua tan mọi lo lắng trong tôi. Rõ ràng không có gì khiến Teddy ưu phiền. Cậu bé dường như cũng hạnh phúc như bất cứ đứa trẻ nào mà tôi đã gặp. Cậu tạo ra người bạn tưởng tượng kì lạ, cùng chơi những trò chơi tưởng tượng kì lạ—thế thì sao chứ?

Cậu bé vẫn đang đánh đu trên ghế khi tôi đứng dậy mang theo bức tranh thả bước quanh bếp. Chị Caroline vẫn có một tập tài liệu trong ngăn kéo để tôi đặt tranh của Teddy vào, như thế chị có thể sao chụp lại toàn bộ tranh vẽ vào máy tính.

Thế nhưng Teddy nhìn ra ngay hành động của tôi.

Cậu bé dừng cười khúc khích và lắc đầu.

“Bức vẽ đó không phải cho Mẹ hay Bố đâu. Anya nói muốn chị giữ nó.”

Tối hôm đó, tôi đi bộ hơn một cây số rưỡi ra trung tâm thương mại đến cửa hàng Best Buy, tôi đã dùng một phần lương mua một chiếc máy tính bảng giá rẻ. Tôi quay lại căn chòi lúc tám giờ. Tôi khóa cửa lại và thay bộ đồ ngủ rồi lên giường ngay với món đồ mới tậu. Chỉ mất có vài phút để cài đặt máy tính bảng và kết nối wifi với nhà Maxwell.

Từ khóa “Annie Barrett” hiện ra mười sáu triệu kết quả, gồm: đăng ký tổ chức đám cưới, các công ty kiến trúc, các cửa hàng trên Etsy, các bài hướng dẫn tập yoga, và hàng tá hồ sơ cá nhân trên LinkedIn. Tôi tìm kiếm lại với từ khóa “Annie Barrett + Spring Brook” và “Annie Barrett + Nghệ sĩ” và “Annie Barrett + đã chết + bị giết” nhưng không có tên miền nào hiện ra. Trên mạng không lưu bất cứ hồ sơ nào về sự tồn tại của cô ấy.

Ngoài kia, ngay trên phía đầu tôi có thứ gì đó đập mạnh vào ô cửa sổ. Tôi biết chắc đó là một con ngài màu nâu béo tốt bay khắp rừng. Chúng có màu sắc và hình hài giống như vỏ cây nên có thể ngụy trang dễ dàng—nhưng từ hướng cửa sổ phòng này, thứ tôi nhìn thấy là cái bụng dưới được chia từng đốt nhơn nhớt, ba đôi chân và cái cặp râu rung rinh. Tôi lắc cửa kính hất chúng xuống, nhưng chúng cứ bay đi trong tích tắc lại quay lại. Tôi cứ lo chúng sẽ tìm thấy khe hở nào đó trên cửa sổ rồi luồn lách qua, và rồi từng đàn nườm nượp bay đến và bu nhung nhúc quanh giường ngủ của tôi.

Bên cạnh chiếc đèn ngủ là bức vẽ Anya bị kéo lê trong rừng. Tôi tự hỏi liệu mình có nên giữ nó không. Có lẽ tôi nên đưa nó lại cho chị Caroline ngay khi chị vừa về nhà. Hoặc tốt hơn hết, tôi có thể vo tròn nó lại rồi nhét vào trong thùng rác. Tôi không chịu được cái lối Teddy vẽ tóc cô ấy, mái tóc dài đen bẩn thỉu, kéo lê lết ở đằng sau cơ thể như một đoạn ruột người. Bỗng có thứ gì trên táp đầu giường rung bần bật, tôi bật dậy như lò xo, phóng ra khỏi giường trước khi nhận ra đó chỉ là điện thoại của mình—có cuộc gọi đến với chuông báo cài ở mức to.

“Quinn!” Bác Russell nói. “Bác gọi có muộn quá không?”

Đúng là câu nói cửa miệng của bác Russell. Mới có tám giờ bốn mươi lăm phút tối nhưng bác ấy luôn nghĩ rằng bất cứ ai nghiêm túc về sự cân đối của cơ thể nên lên giường tắt đèn vào lúc chín rưỡi.

“Không ạ,” tôi đáp. “Có chuyện gì thế ạ?”

“Bác gọi hỏi thăm gân kheo của cháu. Hôm nọ cháu báo bị căng cơ.”

“Bây giờ khá hơn rồi bác.”

“Tối nay, cháu đi được bao xa?”

“Gần sáu cây rưỡi. Hết ba mốt phút.”

“Cháu mệt à?”

“Không, cháu khỏe.”

“Cháu đã sẵn sàng ép bản thân thêm chút chưa?”

Tôi cứ dán mắt vào bức vẽ, nhất là núi tóc đen rối bời bị kéo lê phía sau cơ thể người phụ nữ.

Trẻ con sao lại đi vẽ mấy thứ này chứ?

“Quinn?”

“À vâng—cháu xin lỗi.”

“Mọi thứ có ổn không?”

Tôi nghe tiếng muỗi vo ve bèn đưa tay giáng vào má phải của mình thật mạnh. Tôi nhìn xuống lòng bàn tay, hi vọng nhìn thấy cái bụi lông đen vương lại nhưng lòng bàn tay lại sạch không.

“Cháu khỏe. Chỉ hơi oải thôi.”

“Cháu vừa nói cháu không mệt mà.”

Giọng bác ấy hơi có chút dao động như thể đột nhiên phát hiện ra có điều không ổn.

“Gia đình họ đối đãi cháu thế nào?”

“Họ rất tuyệt ạ.”

“Còn đứa trẻ thì sao? Tommy? Tony? Toby?”

“Là Teddy. Cậu bé đáng yêu lắm. Chúng cháu rất vui.”

Một thoáng vụt quá, tôi đắn đo không biết có nên kể với bác Russell sự tình về Anya không, nhưng tôi không biết bắt đầu từ đâu. Nếu tôi thổ lộ mọi lẽ, chắc chắn bác ấy sẽ nghĩ tôi lại đang dùng chất kích thích.

“Cháu có gặp triệu chứng gì không?” Bác hỏi.

“Triệu chứng gì ạ?”

“Đãng trí? Hay quên?”

“Không, mà cháu chỉ nhớ mang máng thôi.”

“Bác hỏi nghiêm túc đấy, Quinn. Trong tình trạng thế này, điều đó bình thường mà. Do căng thẳng về công việc mới, về điều kiện sinh hoạt mới.”

“Trí nhớ cháu vẫn ổn mà. Cháu không mắc phải những vấn đề đó trong thời gian dài rồi.”

“Tốt, tốt, tốt.” Tôi nghe thấy tiếng bác ấy gõ lên máy tính, điền thông tin điều chỉnh vào thời khóa biểu tập luyện của tôi. “Mà nhà Maxwell có bể bơi phải không? Cháu được phép dùng chứ?”

“Tất nhiên là có rồi.”

“Cháu biết chiều dài bể đó chứ? Bằng sân bóng chày không?”

“Có lẽ hơn chín mét?”

“Bác đang gửi email đính kèm vài đoạn YouTube cho cháu. Là các bài tập bơi. Tập luyện chéo đơn giản ít ảnh hưởng. Hai, ba lần một tuần, được chứ?”

“Vâng, được ạ.”

Vẫn có gì đó trong giọng nói của tôi làm bác thấy bất an. “Và nhớ gọi cho bác nếu cháu cần gì nhé? Bác đâu có ở tít bên Canada đâu. Bác cách chỗ cháu có bốn mươi phút đi xe thôi mà.”

“Đừng lo lắng, bác huấn luyện viên. Cháu ổn mà.”