CHƯƠNG 12

Sáng hôm sau, lúc tôi sang nhà chính, Teddy đang chờ tôi ở chỗ cửa kéo bằng kính trông ra hiên, tay cầm một cuốn sổ nhỏ và bút chì. “Chào buổi sáng, và chào mừng quý khách đến với nhà hàng của tôi,” cậu nói. “Xin hỏi quý khách có bao nhiêu người tới dự tiệc?”

“Chỉ có một thôi, thưa ngài”

“Mời đi lối này.”

Tất cả số thú nhồi bông của cậu đã được đặt ngồi trên ghế quanh bàn ăn. Teddy dẫn tôi tới chiếc ghế còn trống ở giữa Godzilla và Voi xanh. Cậu kéo ghế và đưa cho tôi khăn giấy. Tôi nghe thấy tiếng của Caroline ở tầng trên, vẻ như chị ấy đang vội vã đi qua đi lại trong phòng ngủ. Nghe như chị sẽ lại muộn giờ rời khỏi nhà.

Teddy kiên nhẫn đứng chờ bên cạnh tôi, bút và giấy cầm sẵn trong tay, chờ tôi gọi món. “Chúng tôi không có thực đơn đâu” cậu nói. “Chúng tôi có thể làm bất kì món gì quý khách yêu cầu.”

“Nếu vậy thì tôi sẽ dùng trứng bác. Cùng với thịt xông khói và bánh pancake và mỳ spaghetti và kem.” Cậu cười hi hí, thế là tôi lại tiện đà đùa tiếp. “Và cà rốt, hamburger, tacos và dưa hấu nữa.”

Cậu ôm bụng cười nắc nẻ. Đứa trẻ này biết cách khiến tôi có cảm giác mình giống như Kate McKinnon trên chương trình Saturday Night Live, kiểu như mọi việc tôi làm đều mang lại tiếng cười. “Nếu quý khách đã muốn như vậy” cậu nói, và sau đó loạng choạng đi ra chỗ hòm đồ chơi để lấp đầy lên đĩa thức ăn những món đồ chơi bằng nhựa.

Điện thoại bàn đổ chuông, và Caroline gọi với xuống với tôi. “Để nó chuyển sang hòm thư thoại đi. Chị không kịp nghe nữa đâu!”

Sau ba lần đổ chuông, cuộc gọi chuyển sang hòm thư thoại, và tôi nghe được tiếng tin nhắn đang được ghi lại. “Chào buổi sáng! Tôi là Diana Farrell từ trường tiểu học Spring Brook..”

Đây là tin nhắn thứ ba của họ trong một tuần. Caroline lao vào bếp, vội vã bắt máy trước khi đầu dây bên kia dập máy. “Xin chào, tôi là Caroline.” Chị nhìn về phía tôi với một vẻ mặt cáu kỉnh—em tin nổi cái hệ thống giáo dục điên khùng này không?—và mang điện thoại vào trong phòng nghỉ. Trong lúc đó, Teddy mang cho tôi một đĩa chất cao các món đồ chơi bằng nhựa: mấy quả trứng, mì Ý và một vài viên kem. Tôi lắc đầu và giả vờ giận dỗi. “Tôi dám chắc đã gọi món thịt xông khói cơ mà!”

Teddy cười và chạy băng sang phía hòm đồ chơi, rồi quay lại cùng một dải thịt xông khói bằng nhựa. Tôi đang cố nghe lỏm cuộc gọi của Caroline, nhưng chị không nói gì nhiều. Nó cũng giống như cuộc trò chuyện xảy ra vào Thời gian yên tĩnh trong phòng ngủ của Teddy, chỉ có một người nói chính. Chị chỉ nói, “Đúng rồi, đúng rồi” và “Tất nhiên” và “Không, cảm ơn”.

Tôi giả vờ nhồi nhét những món đồ ăn bằng nhựa vào miệng, giống như một con lợn đang ăn cám. Tôi bắt chước rất nhiều tiếng ụt à ụt ịt, làm Teddy cười như được mùa. Caroline đi vào bếp cùng cái tai nghe không dây và gác nó lại lên giá.

“Đó là Hiệu trưởng trường mới của con,” chị nói với Teddy. “Cô ấy rất muốn được gặp con ngay!”

Sau đó, chị ôm cậu bé thật chặt, thơm má nó và vội vã rời đi, bởi lúc ấy đã là 7 giờ 38 phút và chị muộn lắm rồi.

Sau khi đã “dùng xong” bữa sáng, tôi giả vờ thanh toán hóa đơn bằng tiền giả bộ và hỏi Teddy muốn làm gì tiếp. Và tôi đoán cậu đang rất thích chơi trò giả đò vì cậu mê trò Khu rừng ma thuật.

Chúng tôi theo Đường Gạch Vàng và Đèo Rồng đi xuống Dòng sông Hoàng gia, và sau đó chúng tôi leo lên các cành của Cây đậu thần cho tới khi chúng tôi ở cách mặt đất hơn ba mét. Trên một cành cây có cái hốc nhỏ, và Teddy say mê nhét vào trong đó những viên đá be bé và que nhọn—một kho vũ khí, phòng khi chúng tôi bị quỷ lùn tấn công.

“Quỷ lùn không leo cây được đâu, bởi tay của bọn chúng quá ngắn,” Teddy giải thích. “Thế nên chúng ta có thể giấu ở trong những cành cây này và ném đá vào bọn chúng.”

Chúng tôi dành cả buổi sáng hôm đó mải mê chơi trò, sáng tạo và ứng tác không biết điểm dừng. Trong Khu rừng ma thuật, tất cả mọi điều đều có thể xảy ra, không gì là không thể. Teddy đứng lại trên bờ của Dòng sông Hoàng gia và bảo tôi hãy uống nước sông. Cậu nói dòng sông này có phép thuật có thể giúp chúng tôi không bị bắt.

“Chị đã lấy mấy lít liền cất trong lều rồi,” tôi nói. “Lát nữa về nhà chị sẽ chia cho em.”

“Tuyệt vời!” Cậu thốt lên.

Và sau đó, cậu bé nhảy xuống đường, xung phong dẫn tôi khám phá chặng tiếp theo.

“Mà này” tôi gọi với theo. “Chị thấy mấy bức tranh em để lại cho chị rồi.”

Teddy ngoái đầu lại và mỉm cười, chờ tôi viết tiếp câu chuyện.

“Những bức tranh em để lại trước cửa nhà chị ấy.”

“Tranh của quỷ lùn á?”

“Không, Teddy, tranh vẽ Anya bị chôn cơ. Tranh vẽ thực sự rất đẹp. Có ai giúp em vẽ à?”

“Em không vẽ Anya nữa mà.”

“Không sao đâu. Chị không thấy khó chịu.”

“Nhưng em không vẽ mà.”

“Em để chúng trước cửa nhà chị. Bên dưới một viên đá.”

Cậu bé vung tay tỏ vẻ bực bội. “Chúng ta chỉ chơi trò Khu rừng ma thuật thôi, có được không? Xin chị đấy. Em không thích lẫn sang việc khác.”

“Ừ được.”

Tôi nhận ra có lẽ tôi đã nhắc đến chuyện này không đúng lúc. Sau khi chúng tôi quay về nhà để ăn trưa, tôi cũng không muốn nhắc lại chuyện này nữa. Tôi làm một ít gà chiên, ăn xong Teddy lại lên lầu cho Thời gian yên tĩnh. Tôi chờ một chút, sau đó bám theo cậu bé lên tầng và áp tai vào cửa phòng ngủ. Và tôi có thể nghe thấy tiếng bút chì lướt nhẹ trên trang giấy, soạt, soạt, soạt.

Chiều muộn hôm ấy, bác Russell gọi điện và mời tôi đi ăn tối. Tôi vẫn còn mệt nên tôi bảo không muốn đi, nhưng bác Russell nói rằng bác ấy sẽ đi nghỉ hai tuần—nên nhất định phải gặp tối nay. “Bác tìm được một nhà hàng gần nhà cháu. Một quán Cheesecake Factory.”

Suýt chút nữa tôi phì cười bởi lẽ bác Russell là một người rất khắt khe trong khoản ăn uống lành mạnh. Chế độ ăn của bác gần như chỉ toàn thực vật và protein—không ăn đường hay chất đường bột, chỉ thi thoảng ăn một thìa quả carob và mật ong hữu cơ.

“Cheesecake? Bánh phô mai? Bác nghiêm túc chứ?”

“Bác đặt bàn rồi. 7 giờ rưỡi đấy.”

Thế là sau khi Caroline về nhà, tôi tắm xong liền diện một chiếc đầm và trên đường rời khỏi căn chòi, tôi với tay cầm lấy mớ tranh mà Teddy mới vẽ gần đây nhất. Sau đó, tôi dừng lại trước cửa, lưỡng lự. Sau khi chia sẻ câu chuyện với Adrian ở hiệu sách, tôi biết tôi sẽ cần cả tiếng đồng hồ mới kể xong mọi chuyện. Và vì thế tôi quyết định sẽ để những bức tranh ở nhà. Tôi muốn bác Russell cảm thấy tự hào về tôi. Tôi muốn thể hiện hình ảnh của một người phụ nữ mạnh mẽ, và nỗ lực chuyển mình hậu cai nghiện. Tôi không muốn tất cả những lo lắng của mình trở thành một gánh nặng cho bác. Thế là tôi giấu những bức vẽ vào trong táp đầu giường.

Nhà hàng lớn, đông khách, huyên náo sinh động—một nhà hàng Cheesecake Factory điển hình. Cô tiếp tân dẫn tôi tới bàn mà Russell đã chờ sẵn. Bác khoác bộ đồ thể thao xanh navy và xỏ đôi giày HOKA yêu thích, đôi giày bác đã dùng khi tham gia giải chạy marathon của thành phố New York. “Cô gái đây rồi!” Bác ôm tôi và sau đó nhìn tôi từ đầu đến chân. “Có chuyện gì thế, Quinn? Trông cháu có vẻ mệt.”

“Cảm ơn Huấn luyện viên. Trông bác chất quá.”

Chúng tôi ngồi xuống, và tôi gọi một chai nước có ga.

“Bác nói nghiêm túc đấy,” bác tiếp tục. “Cháu ngủ nghê thế nào?”

“Cháu ổn mà. Căn chòi về đêm có hơi ồn ào chút. Nhưng cháu xử lý được.”

“Cháu đã nói với vợ chồng Maxwell chưa? Biết đâu họ có thể có cách gì đó.”

“Họ đề nghị cháu dọn sang nhà chính. Nhưng cháu nói rồi, cháu ổn.”

“Cháu không thể tập luyện nếu không nghỉ ngơi đủ.”

“Chỉ là khó ngủ một đêm gần đây thôi. Thật đấy.”

Tôi cố đổi chủ đề sang tờ thực đơn, dưới mỗi món ăn đều có tính số lượng calo và thông tin dinh dưỡng. “Bác có nhìn thấy món mì Pasta Napolitano không? Tận hai nghìn năm trăm calo.”

Bác Russell gọi một đĩa rau trộn với thịt gà nướng và dầu giấm ăn kèm. Tôi gọi món Glamburger với khoai lang chiên. Chúng tôi trò chuyện một chút về chuyến đi nghỉ sắp tới của bác—hai tuần đi Las Vegas với cô bạn của bác, cô Doreen, một huấn luyện viên cá nhân ở Hiệp hội thanh niên Cơ đốc của bác. Nhưng tôi dám chắc bác vẫn đang có chuyện bận lòng. Sau khi ăn xong, bác lại hướng cuộc nói chuyện về phía tôi.

“Thế Spring Brook thế nào? Các cuộc gặp mặt với nhóm người nghiện ẩn danh của cháu ổn chứ?”

“Đấy là cuộc gặp của một đám người già, bác Russell ạ. Cháu không có ý gì đâu.”

“Cháu vẫn đi mỗi tuần một lần đấy chứ?”

“Không cần đâu. Cháu ổn định rồi mà.”

Tôi dám chắc bác không thích nghe tôi trả lời như vậy, nhưng bác không đáp trả gì hết.

“Thế còn bạn bè thì sao? Cháu có kết thân với ai chưa?”

“Tối qua, cháu có hẹn gặp một người bạn đấy.”

“Cháu quen người bạn đó thế nào?”

“Cậu ấy là sinh viên trường Rutgers, và cậu ấy về nhà nghỉ hè.”

Người bảo trợ của tôi nheo mắt với vẻ đầy quan ngại. “Giờ hẹn hò vẫn hơi sớm, Quinn ạ. Cháu mới chỉ cắt cơn nghiện có mười tám tháng thôi.”

“Bọn cháu chỉ là bạn thôi.”

“Vậy là cậu ấy biết cháu đã cắt cơn nghiện?”

“Vâng, bác Russell, đó là chuyện đầu tiên mà bọn cháu nói với nhau. Cháu kể cho cậu ấy nghe cháu đã suýt sốc thuốc sau xe Uber ra sao. Sau đó, chúng cháu nói chuyện về những đêm cháu ngủ ở ga tàu.”

Bác nhún vai, kiểu như đây là những chủ đề rất nhạy cảm để lôi ra thảo luận vào lúc này. “Bác đã bảo trợ cho rất nhiều sinh viên. Môi trường kí túc—những đứa bạn đại học, những bữa liên hoan say khướt—chính là mảnh đất nuôi dưỡng những con nghiện.”

“Bọn cháu đã có một buổi tối khá tĩnh lặng ở một hiệu sách. Chúng cháu uống nước ngọt có ga và nghe nhạc. Sau đó, cậu ấy đưa cháu về nhà Maxwell. Rất là vui.”

“Lần tới gặp cậu ấy, cháu nên kể cho cậu ấy biết sự thật. Đây là một phần danh tính của cháu, Mallory ạ, cháu cần chấp nhận nó. Càng để chờ lâu sẽ càng khó hơn.”

“Đó là lí do bác mời cháu ra đây à? Để nhắc nhở cháu sao?”

“Không, bác mời cháu tới đây bởi vì Caroline đã gọi cho bác. Cô ấy lo lắng về cháu.”

Tôi không khỏi ngỡ ngàng. “Thật thế sao?”

“Cô ấy nói rằng cháu bắt đầu công việc rất tuyệt vời. Cô ấy gọi cháu là một cỗ máy đầy năng lượng, Quinn ạ. Cô ấy thực sự rất hài lòng với những gì cháu đã làm. Nhưng một vài ngày gần đây, cô ấy bảo đã nhận thấy có sự thay đổi. Và bất cứ khi nào bác nghe được câu này…”

“Cháu không dùng thuốc đâu, bác Russell.”

“Tốt, được rồi, nếu vậy thì tốt.”

“Chị ấy có nói là cháu đang dùng thuốc không?”

“Cô ấy nói cháu cư xử rất lạ. Cô ấy nhìn thấy cháu ở bên ngoài vào lúc bảy giờ sáng, lục lọi thùng rác nhà cô ấy. Như thế là sao vậy?”

Tôi nhận ra chắc hẳn Caroline đã nhìn thấy tôi qua cửa sổ phòng ngủ của chị ấy. “Không có gì cả. Chỉ là cháu vứt nhầm mấy thứ. Cháu phải lấy lại. Quan trọng lắm.”

“Cô ấy nói cháu nói mấy chuyện liên quan đến hồn ma. Cháu nghĩ có thể con trai cô ấy bị ma nhập sao?”

“Không, cháu chưa bao giờ nói như thế. Chị ấy hiểu lầm ý cháu rồi.”

“Cô ấy nói cháu trở nên thân thiết với một kẻ nghiện ngập sống cạnh nhà.”

“Ý bác là bà Mitzi á? Cháu nói chuyện với bà Mitzi có hai lần. Trong bốn tuần. Thế mà gọi là thân thiết à?”

Bác Russell ra hiệu cho tôi nói nhỏ lại. Bởi vì thậm chí trong gian phòng đông đúc, ồn ã, một vài người xung quanh đã quay sang nhìn chúng tôi chăm chăm. “Bác có mặt ở đây là để giúp đỡ, được chưa nào? Cháu có chuyện gì muốn kể không?”

Tôi có thể kể cho bác nghe được sao? Thật sự tôi có thể thổ lộ hết những lo lắng của mình về Annie Barrett thật sao? Không, tôi không thể. Bởi vì tôi biết tất cả những khúc mắc của mình đều nghe rất nực cười. Và tôi chỉ muốn người bảo trợ thấy tự hào về tôi.

“Hãy nói chuyện món tráng miệng đi. Cháu đang nghĩ sẽ ăn bánh phô mai sô-cô-la hạt phỉ.”

Tôi đưa tờ thực đơn ép phẳng cho bác, nhưng bác không cầm. “Đừng lảng sang chuyện khác. Cháu cần công việc này. Nếu cháu bị đuổi, cháu sẽ không thể quay lại Safe Harbor được đâu. Họ có một danh sách chờ dài dằng dặc.”

“Cháu sẽ không quay lại Safe Harbor đâu. Cháu sẽ làm việc thật thật tốt, và Caroline sẽ say sưa kể về cháu với tất cả những người hàng xóm của chị ấy, và qua mùa hè, cháu dám cá chị ấy sẽ tiếp tục thuê cháu. Hoặc cháu sẽ làm việc cho một gia đình khác ở Spring Brook. Kế hoạch là như thế.”

“Thế còn ông bố thì sao? Ted là người thế nào?”

“Thế nào là thế nào ạ?”

“Anh ta tốt tính chứ?”

“Vâng.”

“Có tốt quá không? Có thể là hơi gần gũi quá?”

“Bác vừa nói gần gũi là ý thế nào ạ?”

“Cháu biết bác đang nói chuyện gì mà. Đôi khi những người này không nhận thức được ranh giới. Hoặc giả họ nhìn thấy ranh giới đó nhưng họ không quan tâm.”

Tôi nhớ đến bài học bơi cách đây hai tuần, cái đêm Ted khen ngợi hình xăm của tôi. Tôi nhớ anh đã đặt một tay lên vai tôi, nhưng đâu phải anh sờ mông tôi đâu. “Anh ấy không động chạm gì cả, bác Russell. Anh ấy ổn mà. Cháu cũng ổn. Tất cả mọi người đều ổn. Giờ chúng ta gọi món tráng miệng đi được không?”

Lần này, bác miễn cưỡng đón lấy tờ thực đơn. “Cháu đang định gọi món gì ấy nhỉ?”

“Sô-Cô-la hạt phỉ.”

Bác lật mặt sau của tờ thực đơn, tới phần liệt kê tất cả các thông tin dinh dưỡng. “Một nghìn bốn trăm calo? Cháu đùa đấy à.”

“Và chín mươi hai gram đường.”

“Ôi, trời đất ơi, Quinn. Chắc hẳn tuần nào cũng có người chết trong cái nhà hàng này mất. Nhất định có người bị đột quỵ trên đường đi ra lấy xe. Nhất định ngoài bãi đỗ xe phải có nhân viên y tế, chờ sẵn để giúp họ hồi sức.”

Cô phục vụ bàn của chúng tôi nhìn Russell xem thực đơn. Đó là một cô bé tuổi teen, miệng mỉm cười tươi tắn. “Có vẻ có người muốn thử bánh phô mai đây!”

“Không đời nào,” bác nói. “Nhưng cô bạn của tôi sẽ dùng một chút. Cô ấy còn khỏe, còn trẻ và còn cả cuộc đời đang chờ phía trước.”

Sau khi ăn xong món tráng miệng, bác Russell nhất định đòi lái xe đưa tôi về nhà Maxwell. Thế là tôi sẽ không phải băng qua đường cao tốc khi trời đã tối. Lúc chúng tôi đỗ xe trước cửa, đồng hồ đã điểm chín giờ rưỡi.

“Cảm ơn đã mời cháu ăn bánh phô mai,” tôi nói. “Chúc bác có một kì nghỉ thật tuyệt vời.”

Tôi mở cửa xe, trong khi bác Russell gọi giật tôi lại. “Nghe này, cháu có chắc là cháu ổn không đấy?”

“Bác định hỏi cháu thêm bao nhiêu lần nữa đây?”

“Thế nói bác nghe tại sao cháu lại run.”

Tại sao tôi lại run à? Bởi vì tôi đang hồi hộp. Tôi sợ tôi sẽ đi về căn chòi và lại phát hiện ra thêm những bức vẽ mới trên hè—đó là lí do tôi run rẩy. Nhưng tôi không định giải thích bất kì điều gì với bác Russell.

“Cháu vừa mới ăn 50 gam chất béo bão hòa. Cơ thể cháu đang bị sốc chứ sao!”

Vẻ mặt bác tỏ ra ngờ vực. Đây là một thế lưỡng nan thường thấy ở những người bảo trợ: Một mặt bạn cần phải tin tưởng người được bảo trợ, cần phải thể hiện là mình tin tưởng và có niềm tin tuyệt đối với việc cai nghiện của họ. Nhưng khi họ bắt đầu có những lối hành xử lạ—khi họ bắt đầu run rẩy trong xe vào một tối mùa hè nóng nực—bạn phải sắm vai một người khắt khe. Bạn cần phải hỏi những câu hỏi cực gắt.

Tôi mở hộc đựng đồ trên xe của bác, thấy trong đó vẫn cất đầy que thử. “Bác có muốn kiểm tra cháu thử không?”

“Không, Mallory. Tất nhiên là không rồi.”

“Rõ ràng là bác đang lo lắng mà.”

“Đúng là bác lo, nhưng bác tin tưởng cháu. Mấy que thử đó không phải cho cháu.”

“Cứ để cháu làm thử đi. Để cháu chứng minh là cháu ổn.”

Bác có một chồng cốc giấy lăn lóc trên sàn ở phía sau xe, thế là tôi cúi người với lấy một cái. Bác Russell cầm lấy một que thử ở trong hộc và chúng tôi xuống xe. Hơn hết, tôi chỉ muốn có người đi cùng về căn chòi. Tôi sợ phải lủi thủi quay về.

Khoảnh sân sau ngập ngụa bóng tối. Tôi vẫn chưa thay bóng đèn đã cháy trên mái hiên. “Chúng ta đang đi đâu đây?” Bác Russell hỏi. “Chỗ của cháu ở đâu?”

Tôi chỉ về phía rặng cây. “Đằng sau đây. Bác sẽ thấy ngay.”

Chúng tôi tiến lại gần hơn, và tôi bắt đầu nhận ra được dáng dấp căn chòi. Tôi đã cầm sẵn chìa khóa trong tay, thế là tôi thử bắn khẩu súng điện Viper, nó chớp lên một tiếng to, và nháy lên một tia sáng chiếu rọi cả sân sau.

“Chúa ơi,” bác Russell nói. “Cái quái gì thế hả?”

“Caroline cho cháu một khẩu súng điện.”

“Ở Spring Brook làm gì có tội phạm. Cháu cầm súng điện theo làm cái gì?”

“Chị ấy là một người mẹ, bác Russell ạ. Chị ấy lo lắng nhiều thứ. Cháu hứa với chị ấy sẽ mang theo nó cùng với chùm chìa khóa.”

Trên chiếc Viper có một cái đèn pin bằng bóng đèn LED nhỏ xíu, thế là tôi dùng nó để rọi một vòng mái hiên của căn chòi: không có viên đá nào mới và cũng không có bức vẽ nào mới. Tôi mở khóa và bật đèn, rồi dẫn bác Russell đi vào trong căn chòi. Bác đưa mắt nhìn quanh gian phòng, có vẻ như đang hài lòng với những gì tôi đã làm cho nơi ngả lưng của mình, nhưng bác Russell là một cựu binh, và tôi biết bác cũng đang kiểm tra xem có dấu hiệu bất thường nào không. “Nơi này đẹp thật đấy, Quinn. Cháu tự làm đấy à?”

“Không, là anh chị Maxwell trang trí trước khi cháu chuyển vào.” Tôi cầm lấy cái cốc giấy trong tay bác. “Chờ cháu một chút. Bác cứ tự nhiên nhé.”

Có thể bạn sẽ nghĩ chuyện này thật kinh tởm—trở về nhà sau một bữa tối ngon miệng và cho nước tiểu vào một cái cốc giấy rồi đưa cho người bảo trợ để bác ấy phân tích những gì có trong đó. Nhưng nếu đã từng trải qua cơ sở cai nghiện, bạn sẽ quen với việc này nhanh thôi. Tôi đi vào nhà tắm và làm việc cần làm. Sau đó, tôi rửa tay và đi ra cùng với mẫu nước tiểu.

Bác Russell đang chờ với vẻ bồn chồn. Do phòng khách của tôi cũng chính là phòng ngủ, thế nên tôi nghĩ bác cảm thấy hơi bất tiện một chút, giống như kiểu bác đang phá vỡ một quy tắc nào đó giữa người bảo trợ và người được bảo trợ. “Bác làm thế này là vì cháu tự nguyện đấy nhé,” bác nhắc tôi. “Chứ thực lòng bác không có gì phải lo cả.”

“Cháu biết.”

Bác nhúng que thử vào cốc, giữ im cho tới khi nó ngấm no nước, sau đó bác đặt nó nằm ngang miệng cốc, và chúng tôi chờ kết quả. Bác nói thêm một chút về kì nghỉ sắp tới, về kì vọng sẽ leo bộ được xuống đáy hẻm núi Grand Canyon nếu đầu gối bác chịu được. Nhưng chúng tôi không phải chờ quá lâu. Que thử hiện một vạch nếu âm tính và hai vạch nếu dương tính—và kết quả âm tính luôn luôn hiện ra rất nhanh.

“Hoàn toàn sạch sẽ, giống như cháu nói.”

Bác cầm cái cốc, mang nó quay vào nhà tắm, và xả nước tiểu vào bồn cầu. Sau đó, bác vò nát nó và nhét sâu vào trong thùng đựng rác của tôi, cùng với que thử. Cuối cùng bác rửa tay, từ tốn và theo trình tự, bằng nước ấm. “Bác rất tự hào về cháu, Quinn ạ. Khi nào về, bác sẽ gọi. Hai tuần, được chứ?”

Sau khi bác rời đi, tôi khóa cửa và thay đồ ngủ, bụng no căng nhờ món bánh phô mai ngon tuyệt và cảm thấy khá tự hào về bản thân. Tôi đã để máy tính bảng sạc ở trong bếp, và vì lúc này còn sớm, tôi nghĩ nên xem một bộ phim. Nhưng khi tôi đi ra bàn bếp để lấy máy tính, tôi nhìn thấy những bức tranh mà tôi vẫn luôn khiếp sợ—chúng không được dằn đá ở ngoài cửa nữa mà được ghim bằng nam châm trên tủ lạnh.

Tôi giật những bức tranh khỏi tủ lạnh, nam châm rơi ngay xuống sàn. Những trang giấy ẩm hơi nước và hơi âm ấm, giống như vừa được lấy từ trong lò nướng ra. Tôi đặt úp chúng xuống mặt bàn để không phải nhìn thấy.

Rồi sau đó, tôi vội vã chạy quanh căn chòi, khóa chặt cả hai cửa sổ. Tiếp sau đây sẽ là một đêm nóng nực và ngột ngạt, và có thể sẽ lại là một đêm trắng, nhưng sau khi phát hiện ra những thứ kia, tôi không dám liều lĩnh để cửa mở nữa. Tôi lật tấm thảm lên và kiểm tra cánh cửa sập trên sàn nhà—nó vẫn được đóng đinh chắc chắn. Kế đó, tôi lôi xềnh xệch chiếc giường dùng để chặn cửa chính. Nếu có ai đó định mở, cánh cửa sẽ đập vào chân giường và đánh thức tôi.

Theo như quan sát của tôi, những bức tranh này có mặt trên tủ lạnh có thể bằng một trong ba cách:

1: Do vợ chồng Maxwell. Tôi dám chắc họ có chìa khóa để mở cửa căn chòi. Tôi đoán có khả năng là Ted hoặc Caroline vẽ những bức tranh này và sau đó—khi tôi ra ngoài ăn tối với bác Russell—một trong hai người họ đã vào chòi của tôi và để những bức tranh lại trên tủ lạnh. Nhưng tại sao họ phải làm thế? Tôi không nghĩ ra được bất kì một khả năng nào có vẻ hợp lý để diễn giải một trong hai người họ làm việc này. Tôi là người chịu trách nhiệm cho sự an toàn và phát triển khỏe mạnh của con trai họ. Tại sao họ lại muốn thao túng tâm lý của tôi, khiến tôi cảm giác như mình sắp sửa phát điên?

2: Teddy. Có thể đứa trẻ lên năm dịu dàng này đã lấy trộm chìa khóa dự phòng từ bố mẹ nó, sau đó lẻn ra khỏi phòng ngủ, lén lút vượt qua sân sau, và mang những bức tranh này vào trong căn chòi của tôi. Nhưng nếu muốn tin vào giả thiết này, ta cũng phải tin rằng Teddy trở nên am hiểu nghệ thuật một cách kì diệu—để từ một đứa bé chỉ biết về những hình người que đã thông thạo mà vẽ nên những bức vẽ ba chiều rất chân thực, với cách đánh bóng tạo khối hết sức thuyết phục, chỉ trong vài ba ngày.

3: Anya. Tôi không biết đã có điều gì xảy ra trong phòng ngủ của Teddy vào khoảng Thời gian yên tĩnh—nhưng lỡ như Anya thực sự đang điều khiển cậu bé thì sao? Chiếm lấy thân xác và dùng tay của cậu để vẽ nên những bức tranh này? Và rồi bằng một cách nào đó “mang” những bức vẽ đã hoàn chỉnh tới căn chòi của tôi?

Tôi biết, tôi biết: giả thiết đó nghe thật điên rồ.

Nhưng khi cân nhắc cả ba giả thiết trên, so sánh chúng với nhau, ta mới ngộ ra: Cách lí giải khó tin nhất dường như lại là cách lí giải có khả năng xảy ra nhất.

Và đêm hôm đó—trong lúc trằn trọc, cố gắng để chìm vào giấc ngủ—tôi đã tìm ra một cách để chứng minh là mình đã đúng.