MÙA HÈ NĂM 1979
Cô loạng choạng đạp xe về nhà giữa đêm hè sáng trưng. Buổi tiệc có hơi cuồng nhiệt hơn so với cô dự đoán, nhưng không vấn đề gì. Xét cho cùng, cô đã trưởng thành, nên cô có thể làm những gì mình thích. Phần dễ chịu nhất của buổi tiệc là được thoát khỏi con bé một lúc. Con bé lúc nào cũng la hét, mà lại cần được đối xử nhẹ nhàng và luôn đòi hỏi những thứ cô không thể cho nó được. Cũng vì con bé mà cô vẫn phải sống ở nhà với mẹ, với bà già chả mấy khi để cô đi xa nhà vài mét, mặc dù cô đã mười chín tuổi. Thật kỳ diệu là cô lại được phép đi chơi tối nay để ăn mừng đêm Hạ chí.
Nếu chưa có con, giờ cô đã có thể ra riêng, cô đã có thể tự kiếm tiền nuôi thân. Cô có thể đi ra ngoài bất cứ khi nào cô thích và trở về nhà khi cô muốn, sẽ không ai nói được một lời nào. Nhưng có con bé rồi thì không thể. Cô rất muốn cho nó đi làm con nuôi, nhưng bà già không nghe, và bây giờ cô mới là người phải trả giá. Nếu mẹ cô muốn giữ đứa trẻ đến như thế, sao bà ấy không tự đi mà chăm sóc nó một mình chứ?
Bà già sẽ rất tức giận khi cô về nhà vào cái lúc đã chớm sang ngày mới thế này. Hơi thở của cô nồng nặc mùi rượu, và cô chắc chắn sẽ bị phạt. Nhưng mà cũng đáng. Cô đã không được vui như thế này kể từ khi đứa nhai đó ra đời.
Cô đạp xe thẳng qua trạm xăng ở ngã tư và tiếp tục bon bon trên đường. Rồi cô rẽ trái về phía Bräcke nhưng bị mất thăng bằng và suýt thì ngã xuống một cái mương. Cô dựng thẳng xe lên rồi đạp mạnh hơn để bắt đầu qua cái dốc đầu tiên. Gió luồn qua tóc cô, và đêm hè sáng sủa hoàn toàn yên tĩnh. Trong một khoảnh khắc, cô nhắm mắt lại và nghĩ về cái đêm sáng trưng mà gã người Đức làm cô có thai. Đó là một đêm cấm tuyệt vời, nhưng không đáng để rốt cuộc cô phải trả giá thế này. Đột nhiên, cô mở mắt ra khi cái xe đạp cán trúng thứ gì đó. Điều cuối cùng cô nhớ là mặt đất lao thẳng về phía cô với tốc độ khủng khiếp.
Trở về đồn cảnh sát Tanumshede, Mellberg lại đắm chìm trong suy nghĩ như thường lệ. Patrik ngồi đối diện ông ta trong phòng ăn trưa, anh cũng không nói gì nhiều mà chỉ suy nghĩ về các sự kiện đã diễn ra lúc sáng. Trời quá nóng để uống cà phê, nhưng anh cần một thứ gì đó kích thích, mà rượu lại chẳng phải là thứ thích hợp. Cả hai người lơ đãng phe phẩy vạt áo cho đỡ nóng. Điều hòa nhiệt độ đã bị hỏng hai tuần nay, và vẫn chưa có ai đến sửa. Buổi sáng thì nhiệt độ còn chấp nhận được, nhưng đến khoảng giữa trưa là bắt đầu nóng đến mức không thể chịu nổi.
“Thế này là thế quái nào?” Mellberg vừa nói vừa cẩn thận cào cào lại mớ tóc cuộn trên đỉnh đầu để che đi chỗ hói.
“Nói thật với ông, tôi cũng chưa nghĩ ra gì cả. Xác một phụ nữ được tìm thấy lại đang nằm trên hai bộ xương. Nếu không phải có người thực sự bị giết, tôi có thể đã nghĩ rằng đây là một trò đùa. Những bộ xương bị đánh cắp từ một phòng thí nghiệm sinh học hay gì đó. Nhưng không thể phủ nhận thực tế là đã có một người phụ nữ bị sát hại. Tôi cũng đã nghe một tay bác sĩ pháp y nhận xét – anh ta nói xương không còn mới. Tất nhiên cũng có thể là do nơi đặt chúng. Chúng có thể đã bị phơi ra trước nắng gió hoặc chúng có thể đã được che chắn. Tôi hy vọng các chuyên viên có thể ước tính xem chúng đã ở đó từ lúc nào.”
“Được rồi, anh nghĩ khi nào ta có thể nhận được báo cáo đầu tiên từ anh ta?” Mellberg cau mày lo lắng.
“Ta có thể sẽ nhận được một báo cáo sơ bộ ngay hôm nay, sau đó anh ta sẽ mất vài ngày để kiểm tra mọi thứ chi tiết hơn. Vậy trong thời gian này, ta sẽ phải làm việc với bất cứ bằng chứng nào ta đã có. Những người khác đâu rồi?”
Mellberg thở dài. “Hôm nay Gösta nghỉ. Có một giải đấu golf chết tiệt hay cái gì đại loại thế. Ernst với Martin đang ra ngoài điều tra. Annika thì đang ở trên một hòn đảo Hy Lạp nào đó. Cô ta đã nghĩ rằng trời sẽ mưa suốt cả mùa hè kia. Tội nghiệp. Chẳng vui vẻ gì khi phải rời Thụy Điển với thời tiết tuyệt vời mà ta đang có ngay bây giờ.”
Patrik lại ngạc nhiên nhìn Mellberg và băn khoăn về cái biểu hiện cảm thông bất thường này.
Có chuyện gì đó rất buồn cười đang diễn ra ở đây, chắc chắn vậy. Nhưng giờ anh không có thời gian để lo lắng về chuyện đó. Họ có nhiều thứ quan trọng hơn phải suy nghĩ.
“Tôi biết anh đang nghỉ phép cho đến hết tuần, nhưng anh sẽ không phiền nếu phải đến đây giúp tôi vụ này chứ?” Mellberg hỏi. “Ernst thì thiếu trí tưởng tượng còn Martin thì quá thiếu kinh nghiệm để đảm nhiệm một cuộc điều tra, vậy nên chúng tôi thực sự rất cần sự giúp đỡ của anh.”
Yêu cầu này quá ve vuốt thói hư vinh của Patrik đến mức anh đồng ý ngay tắp lự. Tất nhiên anh sẽ phải chịu một phen bão táp ở nhà, nhưng anh tự trấn an mình rằng sẽ mất chưa tới mười lăm phút để đi về trong trường hợp Erica cần anh gấp. Bên cạnh đó, họ cũng đã bắt đầu trở nên căng thẳng với nhau vì thời tiết nắng nóng, nên chắc sẽ tốt hơn nếu anh ra khỏi nhà.
“Trước tiên tôi muốn tìm hiểu xem liệu có bất kỳ phụ nữ nào được báo mất tích không,” Patrik nói. “Chúng ta nên kiểm tra trên diện rộng, từ Strömstad xuống Göteborg. Tôi sẽ bảo Martin hay Ernst làm việc đó. Tôi nghĩ tôi nghe thấy tiếng chân họ đang đi vào đấy.”
“Tốt, một ý tưởng tuyệt vời. Có tinh thần đấy, cứ tiếp tục vậy nhé!” Mellberg đứng dậy rời khỏi bàn và vui vẻ vỗ vai Patrik. Patrik nhận ra rằng anh sẽ là người làm việc, như thường lệ, trong khi Mellberg lại một lần nữa tranh hết công lao. Nhưng anh không còn khó chịu vì điều đó nữa, thật chẳng đáng.
Thở dài một tiếng, anh đưa cả hai tách cà phê vào máy rửa chén. Hôm nay anh sẽ không phải thoa kem chống nắng nữa.
“Nào, tất cả dậy đi! Tụi mày nghĩ đây là cái nhà trọ hay sao mà cứ nằm ườn ra cả ngày như thế?”
Giọng nói cắt ngang qua lớp sương mù dày đặc và vang vọng chát chúa vào hai bên thái dương gã. Stefan thận trọng mở một mắt nhưng nhắm lại ngay lập tức khi nhìn thấy ánh sáng chói lóa của mặt trời mùa hè.
“Việc quái gì…” Robert, thằng anh lớn hơn Stefan một tuổi, trở mình trên giường và trùm một chiếc gối lên đầu. Cái gối bất ngờ bị giật ra khỏi tay và hắn ngồi dậy, lẩm bẩm.
“Con ngủ một chút ở đây không được à?”
“Hai thằng lười chảy thây ngày nào cũng chỉ biết ngủ. Gần trưa rồi. Nếu ban đêm mày không thức khuya chơi bời, làm những chuyện mà chỉ có Chúa mới biết, thì chắc mày sẽ không ngủ đến nửa ngày vậy đâu. Mẹ thực sự cần có người đỡ đần việc nhà. Hai đứa ăn không ở không, mà đều là đàn ông trưởng thành cả rồi. Mẹ không biết rằng bảo tụi mày giúp bà mẹ tội nghiệp này một tay lại là một yêu cầu quá đáng đấy.”
Solveig Hult đứng khoanh tay. Bà ta béo phì, có nước da xanh xao của một người không bao giờ đi ra ngoài. Tóc bà ta bẩn, những lọn tóc đen rối bù ôm lấy khuôn mặt.
“Tụi mày gần ba mươi tuổi rồi mà vẫn còn sống bám mẹ. Nào, tụi mày đã thực sự trưởng thành, đúng chứ. Tụi mày có thể trả tiền cho những buổi tiệc tùng mỗi đêm như thế nào đây, mẹ hỏi đấy? Mày không đi làm, mẹ không bao giờ thấy mày đóng góp một tí gì vào tiền chi tiêu trong gia đình. Tất cả những gì mẹ có thể nói là nếu bố tụi mày còn sống, ông ấy sẽ chấm dứt cái lối sống này ngay đấy. Mày đã nghe tin gì từ Trung tâm Việc làm chưa? Tuần trước mày định đi xuống đó rồi cơ mà!”
Bây giờ đến lượt Stefan trùm gối lên mặt. Gã cố gắng chặn lại những lời càu nhàu bất tận – bà ấy giống như mỗi ngày đều phá vỡ kỷ lục của chính mình. Nhưng gối của gã cũng bị giật ra nốt. Gã ngồi dậy, vẫn còn hơi say, đầu bưng bưng giống như có một binh đoàn đang đi diễu hành trong đó.
“Mẹ cất bữa sáng đi lâu rồi. Chúng mày tìm được gì trong tủ lạnh để ăn thì tự đi mà tìm.”
Cái mông to béo của Solveig lạch bạch đi ra khỏi căn phòng nhỏ mà hai anh em ở chung, và bà ta đóng sầm cửa lại. Chúng không dám ngủ tiếp, nhưng lấy ra một gói thuốc lá và mỗi người châm một điếu. Chúng có thể bỏ bữa ăn sáng, nhưng thuốc thì không, thuốc vực tinh thần của chúng lên và cho chúng cảm giác bỏng rát dễ chịu trong cổ họng.
“Chuyện quái gì xảy ra đêm qua ấy nhỉ?” Robert cười và nhả những vòng khói lo lửng trong không khí. “Tao đã nói với mày là chúng nó có những món đồ tuyệt cú ở nhà mà. Hắn là giám đốc của cái công ty gì gì ở Stockholm ấy. Ơn Chúa, những kẻ như thế có đủ khả năng mua những món đồ tốt nhất.”
Stefan không trả lời. Không giống thằng anh, gã không bao giờ thấy kích động trong các vụ đột nhập. Thay vào đó, gã thường trải qua những ngày trước và sau một phi vụ với một khối sợ hãi to đùng, lạnh ngắt đầy ứ trong dạ dày. Nhưng gã luôn làm theo lời Robert – không bao giờ gã nghĩ rằng mình có thể làm khác đi.
Vụ đột nhập hôm qua là cú đậm nhất của chúng trong suốt một thời gian dài. Hầu hết mọi người đã thận trọng hơn, ít để lại những thứ đắt tiền trong căn nhà mùa hè của mình – họ chủ yếu tận dụng những món đồ cũ chứ không vứt đi, hoặc tìm trong chợ đồ cũ những thứ họ thấy đèm đẹp mà thực ra không đáng một xu. Nhưng ngày hôm qua hai anh em đã lấy được hẳn một cái ti-vi mới, một đầu DVD, một máy Nintendo, và kha khá đồ trang sức của người phụ nữ sống trong ngôi nhà đó. Robert sẽ bán các món đó thông qua mối quen, cũng sẽ kiếm được một khoản kha khá. Nhưng cũng chẳng giữ tiền được lâu. Tiền ăn trộm luôn nóng bỏng trong túi, và sau một vài tuần thì thể nào cũng hết sạch. Chúng nướng hết vào cờ bạc, chơi bời đàn đúm rồi chiêu đãi bạn bè, và các khoản chi tiêu cần thiết khác. Stefan nhìn vào cái đồng hồ đắt tiền gã đang đeo. May là bà mẹ không thể nhận ra được đấy là những món đồ đắt tiền. Nếu bà ấy biết giá của cái đồng hồ này, những lời cằn nhằn sẽ không bao giờ dừng lại.
Đôi khi gã cảm thấy bị mắc kẹt như một con chuột lang trên cái bánh xe, cứ quay vòng vòng năm này qua năm khác. Không có thay đổi gì to tát kể từ khi gã và anh trai còn choai choai, và giờ gã cũng thấy không có khả năng nào để thay đổi. Điều duy nhất có ý nghĩa trong đời gã cũng là điều duy nhất gã giữ bí mật với Robert. Bản năng sâu thẳm bên trong mách bảo gã rằng tâm sự với thằng anh cũng chẳng ích gì. Robert sẽ biến nó thành một thứ gì đó bẩn thỉu bằng những nhận xét thô bỉ.
Trong một giây Stefan cho phép bản thân hình dung mái tóc mềm mại biết bao của cô chạm vào bên má thô ráp của gã, và bàn tay nhỏ nhắn biết bao của cô nằm gọn trong tay gã.
“Này, đừng có ngồi đó mà mơ mộng. Mình còn có việc phải làm đấy.”
Robert đứng dậy với điếu thuốc đung đưa bên khóe miệng và đi ra cửa trước. Như thường lệ, Stefan theo sau, gã chỉ biết làm có vậy.
Trong bếp Solveig ngồi ở chỗ bà ta vẫn thường ngồi. Từ khi Stefan còn bé, từ khi ông bố xảy ra chuyện, gã đã thấy bà mẹ ngồi trên cái ghế bên cửa sổ và những ngón tay bà luôn hăm hở nghịch bất cứ thứ gì để trên cái bàn trước mặt. Trong những ký ức xa xôi nhất của gã, bà mẹ thật đẹp, nhưng năm tháng qua đi, mỡ đã dần dần tích lũy từng lớp dày trên khuôn mặt và cơ thể bà.
Solveig trông như thể đang xuất thần – những ngón tay bà sống cuộc sống của riêng chúng, không ngừng kéo giật mọi thứ lên rồi lại nhẹ nhàng vuốt phẳng chúng ra. Suốt gần hai mươi năm qua, bà cứ xáo lộn những cái album ảnh chết tiệt đó lên, phân loại rồi lại phân loại chúng. Bà đã mua những album mới rồi lại sắp xếp những bức ảnh và những mẩu tin được cắt ra từ báo. Đẹp hơn, tao nhã hơn. Gã không ngu đến mức không hiểu rằng đó là cách bà cố kéo dài khoảng thời gian từng hạnh phúc, nhưng chắc chắn một ngày nào đó bà sẽ nhận ra thời ấy đã qua lâu rồi.
Những bức ảnh từ thời mà Solveig còn đẹp. Thời hoàng kim của đời bà là khi bà kết hôn với Johannes Hult, con trai út của Ephraim Hult, ông mục sư danh tiếng của nhà thờ tự do và chủ sở hữu của trang trại phát đạt nhất vùng. Johannes đẹp trai và giàu có. Solveig thì nghèo, nhưng bà đã từng là cô gái xinh đẹp nhất vùng Bohuslän – thời đó mọi người đều nói vậy. Và nếu cần thêm bằng chứng, thì các bài báo mà bà đã giữ lại khi bà được trao vương miện Nữ hoàng Tháng Năm hai năm liên tiếp là đủ để chứng minh. Những bài báo và nhiều bức ảnh đen trắng thời son trẻ ấy chính là thứ mà bà đã bảo quản cẩn thận và sắp xếp mỗi ngày trong suốt hai mươi năm qua. Bà biết rằng cô gái ấy vẫn ở đâu đó bên dưới những lớp mỡ này. Qua những bức ảnh bà có thể giữ cho cô gái ấy sống mãi, mặc dù mỗi năm qua đi cô ấy lại càng tuột ra xa hơn.
Ngoái nhìn ra sau lần cuối, Stefan bỏ lại mẹ mình ngồi trong bếp và theo Robert ra khỏi cửa. Như Robert đã nói, chúng còn có việc phải làm.
Erica nghĩ đến việc ra ngoài đi dạo, nhưng rồi cô nghĩ trong thời điểm này có lẽ đó không phải là một ý tưởng hay, khi mà mặt trời đang lên cao nhất và cái nóng thì vào lúc dữ dội nhất. Cô vẫn luôn ăn vận lộng lẫy trong suốt thai kỳ cho đến khi mùa nóng ùa tới. Kể từ lúc đó, cô cứ như một con cá voi đẫm mồ hôi, cố tìm cách làm mát trong tuyệt vọng. Patrik, Chúa phù hộ cho anh, đã đưa ra ý tưởng mua cho cô một cái quạt bàn, và giờ thì đi đến chỗ nào trong nhà cô cũng mang theo nó cứ như khư khư giữ kho báu. Hạn chế duy nhất là cô phải cắm điện cho nó, nên cô không thể ngồi xa hơn tầm dây dẫn, thế nên các lựa chọn của cô cũng bị giới hạn.
Nhưng ngoài hiên, vị trí ổ cắm thật vừa vặn, và cô có thể nằm trên xô-pha, cái quạt được đặt trên bàn trước mặt. Không có tư thế nào khiến cô thoải mái được quá năm phút, nên cô cứ phải xoay trở liên tục để tìm được tư thế ngồi thích hợp. Đôi khi cô cảm nhận được một cái đá vào mạng sườn, hoặc cái gì đó như một cú đấm từ bên trong. Thế là cô buộc phải đổi tư thế một lần nữa. Cô không biết mình sẽ phải chịu đựng một tháng thai kỳ tiếp theo như thế nào nữa.
Khi cô mang thai thì cô và Patrik mới chỉ ở bên nhau được nửa năm, nhưng lạ thay điều này không làm cả hai người khó chịu. Cả hai đều đã chín chắn hơn một chút, họ cũng đã chắc chắn hơn về những điều mình muốn, và không thấy có lý do gì để phải chờ đợi nữa. Chỉ có điều bây giờ cô lại bắt đầu thấy bất an. Có lẽ họ còn chưa kịp sẻ chia nếp sống thường ngày với nhau thì đã phải đón nhận cái thai này. Điều gì sẽ xảy ra với mối quan hệ của họ khi bất ngờ lại có thêm một người lạ tí hin đòi hỏi tất cả sự chú ý mà họ từng dành cho nhau?
Tất nhiên là niềm say mê mù quáng, điên cuồng của những ngày đầu bên nhau đã phai nhạt. Giờ họ đã xây dựng một nền tảng thực tế hơn, nhìn thấu suốt hơn vào những mặt tốt và xấu của nhau. Nhưng nếu như sau khi cô sinh em bé, chỉ còn sót lại mỗi mặt xấu thì sao? Đã bao nhiêu lần cô phải nghe số liệu thống kể về những mối quan hệ tan vỡ ngay trong năm đầu tiên họ có con rồi? Thôi được rồi, giờ thì lo lắng về nó cũng chẳng ích gì. Những gì xảy ra thì đã xảy ra rồi, và không thể phủ nhận thực tế là cả cô và Patrik đều nóng lòng mong chờ sự xuất hiện của đứa con này đến từng thớ thịt. Cô hy vọng rằng cảm giác khao khát sẽ đủ để đưa họ vượt qua được những thay đổi lớn lao sắp tới.
Erica vừa chực nằm thì chuông điện thoại lại reo. Vất vả lắm cô mới khó nhọc rời được xô-pha, hy vọng người gọi đến đủ kiên nhẫn để đừng dập máy vội.
“A lô?… Ôi, chào, Conny… Ôi, em khỏe, cảm ơn anh, chỉ là béo ra nên thấy nóng quá… Ghé qua chơi ấy ạ? Chắc chắn rồi, tất nhiên… Đến uống cà phê nhé… Nghỉ lại qua đêm hả? Ờ…” Erica thầm thở dài. “Tất nhiên, sao không nhỉ? Khi nào anh tới? Tối nay à? Không sao, không vấn đề gì cả. Anh có thể ngủ trong phòng khách.”
Cô mệt mỏi gác máy. Có một nhược điểm lớn khi sở hữu một ngôi nhà mùa hè ở Fjällbacka. Tất cả các thể loại họ hàng và bạn bè – những người đã chẳng có tí liên lạc gì suốt mười tháng lạnh trong năm – sẽ xuất hiện đầy bất ngờ. Họ chả bao giờ quan tâm đến việc gặp cô trong tháng Mười một, nhưng vào tháng Bảy họ lại thấy có cơ hội được ở miễn phí trong một ngôi nhà có hướng nhìn ra biển. Erica từng nghĩ là năm nay cô và Patrik đã được thoát rồi, bởi đã nửa tháng Bảy trôi qua mà không thấy ai nói năng gì. Nhưng giờ ông anh họ Conny nói rằng anh ta đang trên đường từ Trollhättan đến Fjällbacka cùng vợ và hai đứa con. Chỉ ngủ lại một đêm thôi, nên cô nghĩ là mình có thể xử lý được. Cô chưa bao giờ thấy thích cả hai người anh em họ của mình, nhưng cô lại được nuôi dạy là không thể từ chối họ, ngay cả khi muốn làm vậy. Cô nghĩ cả hai bọn họ đều là những kẻ ăn bám.
Nhưng Erica vẫn thấy khoan khoái vì cô và Patrik đã có một ngôi nhà ở Fjällbacka để họ có thể tiếp khách, dù đó là những vị khách được mời hay không. Sau khi bố mẹ cô qua đời, em rể cô đã cố bán căn nhà này. Nhưng cô em gái Anna cuối cùng cũng đã mệt mỏi với việc bị hắn ngược đãi cả thể xác lẫn tinh thần. Cô đã ly dị Lucas, giờ cô và Erica cùng sở hữu căn nhà. Do Anna vẫn sống tại Stockholm với hai đứa con nên Patrik và Erica có thể chuyển vào trong căn nhà ở Fjällbacka. Đổi lại thì họ phải lo liệu tất cả các chi phí. Cuối cùng rồi họ cũng sẽ phải đưa ra các thỏa thuận lâu dài về căn nhà, nhưng lúc này thì Erica thấy hài lòng khi được sở hữu nó. Và cô háo hức với việc được sống ở đây quanh năm.
Erica nhìn quanh xem có gì phải làm nữa không, nếu cô muốn ngôi nhà tương đối gọn gàng khi khách đến. Cô tự hỏi Patrik sẽ nói gì về cuộc xâm lược này, nhưng rồi cô nhún vai. Nếu anh đã sẵn lòng bỏ cô một mình ở đây và đi làm việc vào giữa kỳ nghỉ của họ, thì cô chắc chắn có thể tự đưa ra quyết định là sẽ đón khách. Cô quên rằng mình từng nghĩ là sẽ tốt hơn nếu không có anh quấn chân cả ngày.
Ernst và Martin đã quay trở lại đồn khi được gọi, Patrik quyết định thúc giục họ bắt đầu vào việc. Anh gọi hai người vào văn phòng, và họ ngồi xuống những cái ghế trước bàn làm việc của anh. Anh không thể không nhận thấy rằng Ernst đang tức đỏ mặt vì một thanh tra trẻ hơn lại được chỉ định dẫn dắt cuộc điều tra, nhưng Patrik chọn cách lờ đi. Đây là chuyện mà Mellberg sẽ phải xử lý. Trong trường hợp xấu nhất, nếu như người đồng nghiệp từ chối làm việc với anh, Patrik có thể xoay xở mà không cần đến sự giúp đỡ của Ernst.
“Tôi chắc các anh đã nghe nói về sự việc.”
“Đúng vậy, bọn tôi có nghe trên đài phát thanh cảnh sát rồi,” Martin nói. Không giống Ernst, anh còn trẻ và tràn đầy nhiệt huyết, anh ngồi thẳng trên ghế với một cuốn sổ trên đùi và bút cầm sẵn.
“Xác một phụ nữ bị giết được tìm thấy tại Khe Vua ở Fjällbacka. Cô ta trần truồng, khoảng hai mươi đến ba mươi tuổi. Bên dưới cái xác thì thấy hai bộ xương người không rõ nguồn gốc, tuổi tác. Trong lúc còn chưa xác minh được rõ, Karlström ở đội Điều tra Hiện trường có nói với tôi là những bộ xương đó cũng không còn mới. Vậy nên ngoài những trận ẩu đả trong quán rượu như thường lệ và bọn lái xe say xỉn thì hình như ta có khá nhiều việc phải làm đấy, mà thường thì ta cũng đã bận ngập cổ rồi. Với lại cả Annika và Gösta đều đang đi nghỉ, nên ta sẽ phải xắn tay áo lên mà bắt tay vào làm ngay thôi. Thực sự thì tuần này tôi cũng đang nghỉ, nhưng tôi bằng lòng đến đây làm việc. Mellberg đã đề xuất tôi chỉ huy cuộc điều tra này. Ai có câu hỏi nào nữa không?”
Câu này chủ yếu nhắm vào Ernst, ông ta không dám đối diện với anh. Thay vào đó ông ta chắc chắn sẽ càu nhàu về những chuyện này sau lưng Patrik.
“Anh muốn tôi làm gì?” Martin giống như một con ngựa hiếu động, giờ đã nóng lòng xoay cây bút bên trên cuốn sổ.
“Tôi muốn anh bắt đầu bằng cách kiểm tra SIS*, những báo cáo về phụ nữ mất tích trong khoảng, để xem nào, hai tháng vừa rồi đi. Tốt hơn là cứ mở rộng khung thời gian cho đến khi có thêm tin tức từ phòng thí nghiệm pháp y. Mặc dù tôi ngờ rằng thời gian tử vong còn gần đây hơn nữa, có thể chỉ một vài ngày trước thôi.”
“Anh chưa nghe gì à?” Martin hỏi.
“Nghe gì?”
“Cơ sở dữ liệu đang hỏng. Ta sẽ phải quên SIS đi và làm mọi thứ theo cách cũ thôi.”
“Chết tiệt. Đúng lúc thật. Ờ, theo Mellberg thì hình như ta không có bất kỳ báo cáo mất tích đặc biệt nào, từ trước khi tôi nghỉ. Vậy, tôi đề nghị các anh đảo một vòng quanh các quận gần đây xem sao. Bắt đầu với quận gần nhất đi. Hiểu rồi chứ?”
“Được rồi. Thế tôi phải kiểm tra đến tận đâu?”
“Đến khi ta tìm thấy đúng người. Và phải qua Uddevalla lấy một bản mô tả sơ bộ của nạn nhân để mang đi mà điều tra đấy.”
“Vậy tôi phải làm gì?” Giọng Ernst không có vẻ gì là hăng hái.
Patrik liếc qua các ghi chú nhanh của anh sau cuộc trò chuyện với Mellberg.
“Tôi muốn ông bắt đầu bằng cách nói chuyện với những người sống ở gần lối vào Khe Vua. Tìm hiểu xem họ có nhìn hoặc nghe thấy bất cứ điều gì trong đêm qua hoặc sáng sớm nay không. Khe Vua đầy du khách vào ban ngày, vì vậy thi thể, hoặc nói chính xác hơn là các thi thể, phải được chuyển vào đó trong khoảng thời gian ban đêm hoặc sáng sớm. Ta có thể đặt ra giả thuyết rằng các thi thể được mang đến đó qua lối đi lớn hơn – nhưng thủ phạm khó có thể đối phó được với những bậc thang nếu đi từ phía quảng trường Ingrid Bergman. Cậu bé phát hiện ra xác người phụ nữ vào khoảng sáu giờ, vậy ông nên tập trung vào khoảng thời gian từ chín giờ tối đến sáu giờ sáng. Tôi nghĩ rằng tôi phải xuống kho lưu trữ và nhìn khắp lượt một cái. Có gì đó về hai bộ xương đang cố bật ra khỏi trí nhớ của tôi. Tôi có cảm giác rằng tôi biết nó là gì, nhưng… các anh có nghĩ đến cái gì không? Không có điều gì gợi lên trong trí nhớ của các anh ư?”
Patrik buông tay và nhướng mày lên chờ đợi một câu trả lời, nhưng Martin và Ernst chỉ lắc đầu. Anh thở dài. Đúng vậy, chẳng có gì để làm ngoài việc đi đến cái hầm mộ…
Patrik ngồi sâu bên trong đồn cảnh sát Tanumshede, vừa đào xới các tài liệu cũ vừa băn khoăn tự hỏi không biết anh có bị người ta ghét không, mà kể cả có thời gian cân nhắc cho kỹ thì cũng chắc gì anh đã biết. Bụi phủ trên hầu hết các vỏ hồ sơ, nhưng ơn trời chúng có vẻ vẫn đang nằm đúng thứ tự. Hầu hết hồ sơ được lưu trữ theo trình tự thời gian, và mặc dù không biết chính xác mình đang tìm gì, anh vẫn chắc rằng nó phải ở chỗ nào đó quanh đây.
Anh ngồi khoanh chân trên sàn đá và lần lượt soát từng hộp một. Hàng chục phận người lướt qua tay anh, và sau một lúc, anh chú ý thấy có bao nhiêu con người và bao nhiêu gia tộc cứ tái xuất hiện trong hồ sơ cảnh sát. Cứ như thể một cuộc đời tội lỗi đã được truyền từ bố mẹ cho con cái và thậm chí đến cháu chắt, anh nghĩ thế khi nhìn thấy những cái họ đó cứ hiện ra hết lần này đến lần khác.
Điện thoại di động của anh reo lên và anh thấy trên màn hình hiển thị tên người gọi đến là Erica.
“Chào, em yêu, mọi việc ổn cả chứ?” Anh biết câu trả lời sẽ như thế nào. “Ừ, anh biết là trời nóng. Cứ ngồi cạnh cái quạt đi, cũng có việc gì khác để làm đâu… Erica, bọn anh có một vụ án mạng ở đây, mà Mellberg muốn anh chỉ đạo cuộc điều tra. Em có giận anh không nếu anh đi làm một vài ngày?”
Patrik nín thở. Anh biết là anh nên gọi cô từ trước để nói rằng mình phải làm việc, nhưng như một người đàn ông điên hình, anh đã né tránh vấn đề, cố gắng hoãn lại điều không thể tránh khỏi. Mặt khác, cô cũng biết rõ nghề của anh đòi hỏi những gì. Mùa hè là mùa bận rộn nhất của các cảnh sát Tanum, và họ đã phải thay phiên nhau đi nghỉ mát. Thậm chí không có gì đảm bảo rằng họ có thể nghỉ vài ngày liên tiếp – tất cả phụ thuộc vào việc có bao nhiêu gã say rượu, bao nhiêu vụ đánh nhau, và cả những rắc rối khác do khách du lịch gây ra mà đồn cảnh sát phải xử lý. Và án mạng, tất nhiên, phải được ưu tiên hơn tất cả những thứ khác.
Erica nói gì đó mà suýt nữa anh bỏ lỡ.
“Em nói đến thăm á? Ai cơ? Anh họ em?” Patrik thở dài. “Không, anh nói gì được chứ? Chắc rồi, sẽ tuyệt hơn nếu chúng ta được ở riêng tối nay, nhưng nếu họ đã trên đường rồi… Anh hy vọng là họ chỉ ở một đêm thôi? Được rồi, vậy anh sẽ mua ít tôm để đãi họ. Món gì đơn giản thôi, để em đỡ phải nấu nướng. Anh sẽ về nhà vào khoảng bảy giờ. Hôn em.”
Anh nhét điện thoại vào túi rồi tiếp tục lướt qua nội dung trong những cái hộp ở trước mặt mình. Một hồ sơ được đánh dấu Mất tích
làm anh chú ý. Một vài người năng nổ đã có lần thu thập tất cả những báo cáo mất tích lấy được từ những cuộc điều tra của cảnh sát. Patrik biết đây chính là thứ anh đang tìm kiếm. Những ngón tay anh bám đầy bụi bẩn nên anh phải chùi vào quần trước khi mở tập hồ sơ mỏng. Sau khi đọc vài phút, trí nhớ của anh đã được khơi gợi lại. Đáng lẽ anh phải nhớ ra ngay lập tức, khi mà trong một quận chỉ có vẻn vẹn ngần đấy người thực sự bị mất tích và không được tìm thấy. Anh đã bắt đầu đến tuổi rồi. Ít nhất bây giờ anh cũng đã có các báo cáo liên quan ở ngay trước mặt, và anh có cảm giác rằng không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi mà hai người phụ nữ cùng bị báo cáo mất tích vào năm 1979 và không có ai nhìn thấy họ nữa. Rồi giờ thì có hai bộ xương xuất hiện ở Khe Vua.
Anh đem tập hồ sơ lên lầu và đặt nó trên bàn.
Những con ngựa là lý do duy nhất khiến cô ở lại. Với bàn tay thành thạo, cô chải lông cho con ngựa thiến nâu với những động tác dứt khoát. Lao động thể chất đóng vai trò như một cái van an toàn cho cô thoát khỏi dăm nỗi thất vọng của mình. Thật tồi tệ khi đã mười bảy tuổi mà chẳng có bất kỳ điều gì để nói về cuộc sống riêng tư của mình. Ngay khi đến tuổi trưởng thành, cô sẽ cút khỏi cái lỗ này. Rồi cô sẽ chấp nhận lời đề nghị từ tay nhiếp ảnh gia đã mời mọc khi cô đang đi bộ ở khu trung tâm Göteborg. Khi trở thành người mẫu ở Paris và kiếm được hàng đống tiền, cô sẽ nói cho tất cả bọn họ biết họ có thể nhét cái sự dạy dỗ khốn kiếp của họ vào đâu. Tay nhiếp ảnh gia đã nói với cô rằng cứ mỗi năm qua đi thì giá trị làm mẫu của cô sẽ lại giảm đi. Cả một năm trong đời cô sẽ bị lãng phí trước khi cô có cơ hội làm người mẫu, chỉ vì ông già muốn cô học hành tử tế. Mà để sải bước trên sàn diễn cần gì học hành nhiều. Sau này, khi khoảng hai mươi lăm tuổi và đã bắt đầu già, cô sẽ kết hôn với một triệu phú. Rồi cô sẽ cười vào lời ông già đe dọa xóa tên cô khỏi di chúc. Một ngày nào đó cô có thể đi mua sắm và tiêu pha một khoản tương đương với toàn bộ cái gia tài khốn kiếp của ông ta.
Ông anh trai phi thường tuyệt diệu của cô cũng chẳng làm cho mọi chuyện dễ dàng hơn. Sống với anh ta và Marita thì dễ chịu hơn ở nhà, nhưng cũng không nhiều nhặn gì. Anh ta lúc nào chẳng đúng. Anh ta không bao giờ làm gì sai, trong khi cô thì luôn luôn phải chịu trách nhiệm cho tất cả mọi thứ.
“Linda?”
Rõ là, ngay cả ở đây trong chuồng ngựa mà cô cũng không được yên.
“Linda?” Tiếng gọi trở nên gấp gáp hơn. Anh ta biết cô đang ở đây, thế thì cô có giả điếc cũng chẳng ích gì.
“Đừng có lồng lên như ngựa thế. Có chuyện gì?”
“Thực sự thì em không cần nói chuyện với anh bằng cái giọng đó đâu. Anh không nghĩ là quá đáng khi yêu cầu em nền nã một chút.”
Cô lẩm bẩm vài câu chửi thề đáp lại, nhưng Jacob bỏ qua.
“Thực ra anh chỉ là anh trai em, chứ có phải bố em đâu, anh đã bao giờ nghĩ về điều đó chưa?” cô nói.
“Anh biết rất rõ, nhưng chừng nào em còn sống trong nhà anh, anh vẫn phải có trách nhiệm với em.”
Chỉ vì gần gấp đôi tuổi cô mà Jacob cứ nghĩ mình biết tuốt. Anh ta vênh váo bộ tịch thế cũng phải thôi, vì anh ta sống phong lưu quá mà. Bố đã nói nhiều lần rằng Jacob chắc chắn là một đứa con trai khiến bố tự hào, và rằng anh ta sẽ chăm nom cẩn thận sản nghiệp của gia đình. Linda cho rằng một ngày nào đó anh trai cô sẽ được thừa kế toàn bộ gia sản. Cho đến lúc đó anh ta có đủ khả năng để giả vờ như tiền không hề quan trọng, nhưng Linda đã nhìn thấu anh ta. Mọi người đều ngưỡng mộ Jacob vì anh ta giúp đỡ những đứa trẻ có vấn đề. Đồng thời họ biết rõ rằng cuối cùng thì anh ta cũng sẽ được thừa kế cả khối bất động sản lẫn tiền tài. Rồi sau đó để xem anh ta còn tiếp tục công việc lý tưởng này được bao lâu, sẽ thú vị lắm đây.
Linda không thể ngăn mình cười khúc khích. Nếu Jacob biết chuyện cô đã lén ra ngoài vào ban đêm thì chắc anh ta phát điên mất, và nhất là nếu anh ta biết người mà cô hẹn hò là ai, người mà cô nghe lời dạy bảo là ai. Nói chuyện về lòng từ bi đối với những người kém may mắn thì hay lắm, miễn là họ không ở ngay trước hiên nhà mình. Bên cạnh đó, còn có những lý do khác, sâu xa hơn khiến cho Jacob phải nhảy dựng lên nếu anh ta phát hiện ra rằng cô đã hẹn hò với Stefan. Gã là em họ của hai người, và sự thù hận giữa hai nhà đã có từ lâu trước khi cô được sinh ra – thậm chí trước cả khi Jacob được sinh ra. Cô không biết lý do là gì. Mọi chuyện cứ như vậy thôi. Nên cô luôn thấy hồi hộp mỗi khi lẻn ra ngoài gặp Stefan.
Linda đã rất vui khi ở bên gã. Gã rất chu đáo, nhưng già hơn cô nhiều quá, xét cho cùng thì, gã có một sự tự tin mà bọn con trai bằng tuổi cô không bao giờ có được. Cô cũng không lấy làm phiền rằng hai người là chị em họ. Ngày nay anh chị em họ thậm chí có thể kết hôn với nhau. Đó không hẳn là một phần trong kế hoạch dài hạn của cô, nhưng cô không thấy có gì ngăn cản việc mình khám phá điều này điều kia với gã, chừng nào nó vẫn là bí mật.
“Anh muốn gì nào, hay là anh chỉ định lảng vảng quanh đây thế thôi?” cô nói.
Jacob thở dài rồi đặt một tay lên vai cô. Cô cố gắng hất ra, nhưng anh ta nắm rất chặt.
“Anh thực sự không hiểu tất cả những trò gây hấn này là sao. Tụi trẻ làm việc với anh sẽ đánh đổi bất cứ điều gì để có được một ngôi nhà như em đang có và được nuôi dạy giống như em. Một chút biết ơn và thái độ chín chắn xem ra sẽ phù hợp hơn, em cũng biết mà. Và đúng là anh có muốn một điều. Marita nấu nướng xong rồi và bọn anh đã sẵn sàng ăn. Vậy em nhanh lên và thay quần áo đi. Rồi ra ăn với bọn anh nào.”
Anh ta nới lỏng bàn tay trên vai cô và rời chuồng ngựa, đi thẳng lên nhà chính. Linda vừa lẩm bẩm vừa đặt cái lược chải lông ngựa xuống và đi thay đồ. Dù sao thì, cô cũng đã rất đói.
Trái tim Martin lại tan vỡ một lần nữa. Anh không đếm nổi đã bao lần chuyện này xảy ra trước đây, nhưng sự thật là dù đã quen với việc đó thì nó cũng không bớt nhức nhối đi chút nào. Giống như những lần trước, anh đã nghĩ rằng người phụ nữ đang tựa đầu trên gối bên cạnh anh chính là người lý tưởng. Tất nhiên anh hoàn toàn nhận thức được rằng cô là hoa đã có chủ rồi, nhưng với sự ngây thơ thường trực của mình, anh nghĩ rằng anh không chỉ là trò tiêu khiển và rằng những ngày cô có bạn trai cũng chẳng còn bao lâu nữa. Anh không hề biết rằng, với khuôn mặt ngây thơ và tấm lòng chân thật ngọt lành của mình, anh giống như một viên đường thu hút lũ ruồi – những người phụ nữ lớn tuổi, già dặn và sống mòn mỗi ngày bên những đức ông chồng đáng kính của họ. Những người đàn ông mà họ không có ý định rời bỏ để đến với một chàng cảnh sát hai mươi lăm tuổi đẹp trai, mặc dù họ cũng không nghĩ tới việc phải xa anh khi nhu cầu tình cảm cần được thỏa mãn. Không phải Martin có tư tưởng chống lại khía cạnh thể xác trong một mối quan hệ – ngược lại anh còn đặc biệt có tài trong lĩnh vực đó – nhưng vấn đề ở chỗ anh cũng là một chàng trai đa cảm một cách bất thường. Martin Molin luôn là một người sẵn sàng lao vào những mối tình. Đó là lý do tại sao các cuộc chơi luôn luôn kết thúc trong nước mắt của anh và cũng chỉ có mỗi anh tự mình gặm nhấm nỗi buồn, trong khi những người phụ nữ chỉ nói cảm ơn anh rồi trở về ngôi nhà với cuộc sống có thể nhàm chán nhưng ổn định và quen thuộc của họ.
Martin thở dài nặng nề khi anh ngồi vào bàn, nhưng anh buộc mình phải tập trung vào công việc trước mắt. Những cuộc gọi anh đã thực hiện đều chẳng có kết quả gì, nhưng vẫn có rất nhiều quận anh còn chưa gọi. Cơ sở dữ liệu bị hỏng đúng lúc anh cần nó nhất có lẽ là vận thường của anh thôi. Giờ anh phải ngồi đây tìm hết số điện thoại này đến số điện thoại khác, cố gắng tìm xem có ai khớp với những mô tả về người phụ nữ đã chết.
Hai giờ trôi qua, anh ngả người ra sau và tuyệt vọng ném cây bút vào bức tường. Không có người mất tích nào phù hợp với mô tả như nạn nhân bị giết. Họ sẽ phải làm gì bây giờ?
Thật không công bằng. Ông nhiều tuổi hơn thằng nhóc thò lò mũi xanh kia và lẽ ra ông phải là người chỉ huy cuộc điều tra này, nhưng thế giới toàn là những kẻ vô ơn. Trong nhiều năm nay, ông đã cần mẫn bợ đít thằng cha Mellberg chết tiệt, nhưng vẫn chẳng nhận được gì. Ernst rẽ gấp trên đường đến Fjällbacka. Nếu không lái xe cảnh sát, thì chắc chắn ông sẽ thấy rất nhiều ngón tay giữa giơ lên qua gương chiếu hậu của mình. Cứ thử đi, lũ du khách khốn nạn, rồi chúng sẽ phải lãnh đủ.
Đi hỏi những người hàng xóm. Đó là một nhiệm vụ dành cho tân binh, không phải cho một cảnh sát hai mươi lăm năm kinh nghiệm. Đáng lẽ nên để cho oắt lính mới Martin xử lý việc này, còn Ernst sẽ gọi cho đồng nghiệp ở các quận lân cận và tranh thử tán nhảm chút.
Ông đã ngấm ngầm giận dữ, nhưng đó là bản tính của ông từ khi còn là trẻ con, nên cũng chẳng có gì khác thường. Khuynh hướng hay nóng giận khiến ông không phù hợp với cái nghề cần nhiều đến giao tiếp xã hội như này. Nhưng mặt khác, tụi côn đồ nể ông vì chúng biết rằng Ernst Lundgren không phải là tay dễ giỡn mặt nếu chúng còn biết quý mạng mình.
Khi ông lái xe qua thị trấn, những người hiếu kỳ đã có mặt khắp mọi nơi. Họ dõi theo ông và chỉ trỏ, vì thế ông biết rằng tin tức đã lan truyền khắp Fjällbacka rồi. Ông đã phải lái xe rề rề qua quảng trường Ingrid Bergman vì tất cả xe cộ đều đậu trái phép. Ông hài lòng khi nhìn thấy vài khách hàng vội vã chạy từ các bàn trên vỉa hè quán cà phê Bryggan ra để dòi xe đi. Một việc làm thông minh đấy. Nếu những chiếc xe này vẫn còn đó khi ông quay lại thì sẽ chẳng có gì ngăn cản ông làm hỏng tâm trạng nghỉ lễ của những người đậu xe trái phép. Có lẽ phải bắt họ đo nồng độ cồn trong máu một chút. Vài người lái xe đã phải đặt vại bia lạnh xuống khi thấy ông lái xe qua. Nếu may mắn, có khi ông còn tịch thu được mấy cái bằng lái.
Không còn nhiều chỗ đậu xe trên con đường ngắn bên ngoài Khe Vua, nhưng ông vẫn ép được xe vào một chỗ và bắt đầu Chiến Dịch Gõ Cửa. Đúng như ông đã nghĩ, không ai nhìn thấy gì cả. Mọi người thường sẽ để ý kể cả hàng xóm của họ có xì hơi ở tận trong nhà nhưng dường như lại bị mù và điếc khi cảnh sát muốn biết điều gì đó. Mặc dù, Ernst phải thừa nhận, có thể họ chẳng nghe thấy gì thật. Đêm mùa hè lúc nào cũng ầm ĩ, đầy những kẻ say rượu đi loạng choạng về nhà lúc bình minh, thành ra mọi người phải học cách vứt lại mọi sự ồn ào ở ngoài cửa nhà thì mới có thể ngủ ngon được. Nhưng vẫn thật khó chịu.
Đến tận ngôi nhà cuối cùng ông mới rỉa được chút thông tin. Tất nhiên không phải là manh mối lớn, nhưng ít nhất cũng có một cái gì đó. Ông lão sống trong ngôi nhà xa lối vào Khe Vua nhất đã nghe thấy tiếng xe chạy qua vào khoảng ba giờ sáng, khi lão dậy đi tiểu. Rồi lão thu hẹp quãng thời gian xuống ba giờ kém mười lăm. Lão nói rằng lão không thèm nhìn ra ngoài, nên lão không thể nói được gì về người lái xe hay chiếc xe cả. Nhưng lão từng dạy tại trường dạy lái xe và đã lái nhiều loại xe từ thời đó, nên lão khá chắc chắn rằng chiếc xe kia không phải mẫu mới mà đã ra được vài năm rồi.
Tuyệt, điều duy nhất Ernst kiếm được sau hai giờ gõ cửa là kẻ giết người có thể đã mang cái xác đến đây vào khoảng ba giờ sáng và có lẽ hắn đã lái một chiếc xe đời cũ. Không nhiều nhặn gì để mà vui mừng.
Nhưng tâm trạng ông đã lên được vài nấc khi ông lái xe qua quảng trường một lần nữa trên đường trở về đồn và nhận thấy có những chiếc xe mới đã đậu vào chỗ trống mà những người lái xe trước bỏ lại. Giờ ông sẽ bắt họ thổi vào dụng cụ kiểm tra nồng độ cồn cho đến khi phổi họ nổ tung ra.
Chuông cửa réo liên hồi làm Erica phải ngừng lại khi đang cực nhọc chạy máy hút bụi trên thảm. Mồ hôi túa ra như tắm khắp người, cô phải gạt một vài sợi tóc ướt rũ xuống mặt trước khi mở cửa. Họ chắc phải lái xe như điên mới đến đây nhanh thế này.
“Chào, bé bự!”
Một cái ôm thật chặt khiến cô bị kẹp cứng, và cô nhận ra rằng mình không phải là người duy nhất đổ mồ hôi. Nhưng với cái mũi bị vùi sâu vào nách Conny, cô nhận ra rằng nếu đem so sánh thì cô còn thơm như hoa hồng, hoa huệ trong thung lũng.
Sau khi thoát khỏi vòng tay ông anh, cô chào Britta, vợ Conny, và lịch sự bắt tay vì họ mới chỉ gặp nhau vài lần. Cái bắt tay của Britta ẩm ướt và mềm nhão như một con cá chết. Erica rùng mình và cố cưỡng lại mong muốn được chùi tay vào váy.
“Ồi, cái bụng kìa! Em mang thai đôi hay sao thế?”
Cô thực sự rất ghét nghe người ta nhận xét về cơ thể mình kiểu đó, nhưng cô đã bắt đầu nhận ra rằng việc cô mang thai dường như đã cho phép mọi người tự do đưa ra nhận xét về ngoại hình của cô và sờ vào bụng cô – chuyện này gần như quá quen thuộc rồi. Những người lạ hoắc lạ huơ thậm chí còn đi đến gần và mần mò bụng cô. Erica chỉ đợi cái vỗ nhẹ xin phép để bắt đầu, và chỉ trong vài giây Conny đã đặt tay lên cái bụng căng phồng.
“Ôi, có một ngôi sao bóng đá nhí trong bụng em này. Chắc chắn là con trai, đá thế này cơ mà. Đến đây, các con, sờ thử đi!”
Erica không dám phản đối, và cô bị tấn công bởi hai đôi bàn tay nhỏ dính đầy kem cuối cùng đã để lại vết bẩn trên cái váy bầu trắng. May thay, Lisa và Victor, hai đứa trẻ sáu và tám tuổi, đã nhanh chóng hết hứng.
“Vậy ông bố hãnh diện nói gì đây? Chắc đang đếm ngày hả?” Conny không thèm chờ nghe câu trả lời của cô, và Erica nhớ ra rằng trò chuyện không phải là điểm mạnh của anh ta.
“Ừ, mẹ nó chứ, anh vẫn nhớ cái lúc mà hai đứa ranh con này ra đời. Một giai đoạn dữ dội đến phát khiếp. Nhưng nhớ nói với nó là phải quên việc nhìn xuống chỗ bên dưới này đi. Chỗ đó sẽ khiến cho nó cụt hứng một thời gian dài đấy.”
Anh ta cười khùng khục và huých khuỷu tay vào Britta đang ngồi bên cạnh. Chị ta chỉ cáu kỉnh nhìn chồng. Erica nhận thấy rằng hôm nay sẽ là một ngày dài. Phải chỉ Patrik về nhà đúng giờ.
Patrik thận trọng gõ cửa phòng Martin. Anh có chút ghen tị với việc mọi thứ ở đây gọn gàng đến vậy. Bàn làm việc sạch đến mức có thể dùng làm bàn mổ.
“Sao rồi? Anh có tìm thấy gì không?”
Vẻ chán nản của Martin đã nói cho anh biết câu trả lời là không ngay cả trước khi anh chàng lắc đầu. Chết tiệt. Bây giờ điều quan trọng nhất trong cuộc điều tra là phải xác định được danh tính người phụ nữ. Ở đâu đó có người lo lắng cho cô. Chắc chắn có ai đó phải nhớ đến cô.
“Anh thì sao?” Martin hất hàm về phía các tập hồ sơ Patrik đang cầm trong tay. “Anh có thấy thứ anh đang tìm không?”
“Tôi nghĩ là có.”
Patrik kéo một cái ghế ra để anh có thể ngồi cạnh Martin.
“Xem này. Có hai phụ nữ đã biến mất hồi cuối thập niên bảy mươi ở Fjällbacka. Tôi không biết sao tôi không nhận ra ngay, thời ấy đây là chuyện đăng trên trang nhất đấy. Dù sao thì, đây là những gì còn lại của dữ liệu điều tra.”
Các tập hồ sơ anh để trên bàn rất bụi bặm và anh thấy ngón tay Martin ngứa ngáy như muốn lau sạch. Cái nhìn nghiêm khắc từ người đồng nghiệp đã khiến anh chàng phải dằn lòng. Patrik mở hồ sơ và chỉ cho anh những bức ảnh nằm trên cùng.
“Đây là Siv Lantin. Cô ta biến mất vào ngày Hạ chí năm 1979. Lúc đó mới chỉ mười chín tuổi.” Patrik kéo bức ảnh tiếp theo ra. “Đây là Mona Themblad. Cô này mất tích hai tuần sau đó và mới mười tám tuổi. Từ đó không ai nhìn thấy họ nữa, bất chấp nỗ lực rất lớn cộng thêm nhiều đội tìm kiếm được huy động, rồi thì nạo vét các rãnh nước, và tất cả những việc người ta có thể nghĩ đến. Xe đạp của Siv được tìm thấy trong một cái hào, nhưng đó cũng là thứ duy nhất được tìm thấy. Họ không thấy dấu vết gì của Mona trừ một đôi giày chạy.”
“Ừ, giờ anh đề cập đến thì tôi mới nhớ ra những vụ này. Có một kẻ tình nghi phải không?”
Patrik lướt qua những trang giấy ố vàng của bản báo cáo và chỉ vào một cái tên được đánh máy.
“Johannes Hult. Đây là anh trai gã, Gabriel Hult, chính tay này chứ không phải ai khác lại là người đã gọi cảnh sát và báo rằng ông ta trông thấy em trai mình đi cùng với Siv Lantin trên đường đến trang trại của gã ở Bräcke vào cái đêm cô ấy biến mất.”
“Đầu mối này được xem xét nghiêm túc đến cỡ nào? Ý tôi là, phải có ẩn tình gì đó thì ông anh mới đi tố cáo ông em trai là kẻ tình nghi trong một vụ án mạng như vậy chứ.”
“Mối thù trong nhà Hult đã diễn ra suốt nhiều năm, mọi người đều biết rõ. Vậy nên ngay chính tin báo cũng bị nghi ngờ, tôi nghĩ vậy. Nhưng nó vẫn là manh mối phải được điều tra và Johannes bị đưa đi thẩm vấn vài lần. Nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào khác ngoài lời khai của người anh. Đó là lời khai của một người anh chống lại một người em, nên Johannes được thả ra.”
“Bây giờ Gabriel ở đâu?”
“Tôi không chắc, nhưng tôi nhớ hình như là Johannes đã tự sát ngay sau đó. Chết tiệt… nếu Annika ở đây, cô ấy có thể đưa ngay ra một bản ghi chép được cập nhật rõ hơn về vụ này mà chẳng mất tí thời gian nào. Tôi cũng nói rồi mà, nội dung trong các hồ sơ này quá sơ sài, hay phải nói là quá ít ỏi.”
“Nghe như anh đang khẳng định chắc chắn những bộ xương mà ta tìm thấy kia là hai người phụ nữ đó.”
“Tôi không nói vậy. Tôi chỉ suy đoán dựa trên xác suất. Ta có hai người phụ nữ mất tích từ thập niên bảy mươi, mà bây giờ hai bộ xương đã được nhiều năm tuổi cùng xuất hiện. Thật kỳ lạ nếu đây chỉ là một sự trùng hợp? Mặc dù tôi không khẳng định, tất nhiên là thế rồi – ta không thể khẳng định cho đến khi đội Pháp y nộp báo cáo. Nhưng tôi định cho họ xem thông tin này ngay lập tức.”
Patrik liếc nhìn đồng hồ. “Chết thật, có lẽ tôi phải đi ngay. Tôi đã hứa hôm nay sẽ về nhà sớm. Anh họ của Erica đến thăm nên tôi còn phải chuẩn bị ít tôm và các món nhẹ cho bữa tối nữa. Anh phải đảm bảo là đội Pháp y sẽ nhận được những thông tin này đấy nhé? Và rà soát lại với Ernst khi ông ta về, trong trường hợp ông ta thu được điều gì hữu ích.”
Cái nóng đập vào Patrik như một bức tường khi anh rời khỏi đồn cảnh sát, và anh vội vã vào xe để trở lại với bầu không khí có máy lạnh. Nếu cái nóng này ngốn hết năng lượng của anh như thế, anh có thể tưởng tượng ra nó đã làm gì với Erica, cục cưng tội nghiệp của anh.
Thật không may là giờ họ đang có khách, nhưng anh hiểu rằng cô cũng khó mà từ chối được. Và vì ngày mai là nhà Flood rời đi rồi, nên chỉ mất một buổi tối thôi. Anh chỉnh về nhiệt độ thấp nhất và hướng về phía Fjällbacka.
“Anh đã nói chuyện với Linda chưa?”
Laine lo lắng xoa xoa hai tay vào nhau. Đó là một thói quen mà Gabriel ghét cay ghét đắng.
“Cũng chẳng có gì nhiều để nói,” ông trả lời. “Con bé sẽ làm như nó được bảo thôi.”
Gabriel thậm chí không nhìn lên mà vẫn bình tĩnh tiếp tục việc đang làm. Giọng ông rất cộc cằn, nhưng Laine không muốn im miệng đi dễ dàng như vậy. Thật không may. Trong nhiều năm, ông đã muốn vợ mình im lặng thường xuyên hơn. Với cái tính của bà, thật là một điều kỳ diệu nếu làm được như vậy.
Bản thân Gabriel Hult thì có tính cách của một kế toán từ trong xương tủy. Ông thích sắp xếp các khoản tín dụng với các khoản ghi nợ và tính toán ra số dư ở dòng cuối cùng; ông cực kỳ căm ghét những thứ liên quan đến cảm xúc và không lý trí. Phương châm của ông là gọn gàng ngăn nắp, và mặc kệ thời tiết mùa hè nóng nực ông vẫn đóng bộ và thắt cà vạt, tất nhiên là với loại vải mỏng hơn, nhưng dù sao trông vẫn rất đúng mực. Mái tóc đen đã mỏng đi theo năm tháng, nhưng ông vẫn chải ngược ra sau và không hề cố gắng che giấu mảng hói ở ngay giữa đầu. Kiệt tác của ông là cặp kính tròn nằm ngay trên chóp mũi để ông có thể nhìn qua gọng một cách khinh thường xuống người mà ông đang nói chuyện. Điều gì đúng thì luôn đúng – đó là phương châm sống của ông, và ông chỉ mong những người khác cũng sống như vậy. Thay vào đó, dường như họ đã dành tất cả năng lượng của mình để xáo trộn trạng thái cân bằng hoàn hảo của ông và làm cho đời ông trở nên khắc nghiệt. Mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu họ cứ làm theo lời ông nói chứ đừng có tự nghĩ ra cả đống những trò ngu xuẩn.
Mối lo lớn trong đời ông lúc này là Linda. Thời niên thiếu, Jacob cũng chẳng bao giờ khó bảo đến thế. Trong thế giới lý tưởng của Gabriel, con gái thì phải bình lặng hơn và vâng lời hơn so với con trai. Thay vào đó họ lại có một con nhóc quái vật luôn đối đầu với họ trong mọi việc, và nhìn chung thì nó đang cố hết sức để phá hoại cuộc đời họ trong thời gian ngắn nhất có thể. Ông không dung túng được cái kế hoạch làm người mẫu ngu xuẩn của con bé. Không nghi ngờ gì, con bé rất dễ thương, nhưng tiếc là nó thừa hưởng bộ não của mẹ và sẽ không sống nổi một giờ trong cái thế giới khắc nghiệt của nghề người mẫu chuyên nghiệp.
“Chúng ta đã nói chuyện này trước đây rồi, Laine, và anh vẫn không thay đổi quan điểm của mình. Đừng hỏi nữa. Anh sẽ không cho phép Linda đi lang thang và để thằng cha thợ ảnh nhếch nhác nào đó chụp nó trần truồng đâu. Linda phải được học hành, mọi việc chỉ có thế thôi.”
“Vâng, nhưng sang năm nó mười tám tuổi rồi, và đằng nào thì nó cũng sẽ làm bất cứ điều gì nó muốn. Chẳng phải sẽ tốt hơn nếu chúng ta ủng hộ nó từ bây giờ thay vì có nguy cơ mất hẳn nó vào sang năm ư?”
“Linda biết phải có ai thì nó mới sống được, nên anh sẽ rất ngạc nhiên nếu nó bỏ đi mà không đảm bảo được nguồn tài chính hỗ trợ. Và nếu tiếp tục học thì nó sẽ được như thế. Anh đã hứa sẽ gửi tiền mỗi tháng nếu nó vẫn tiếp tục đi học, và anh định giữ lời hứa đó. Còn bây giờ anh thực sự không muốn nghe thêm bất cứ điều gì về vấn đề này nữa.”
Laine tiếp tục xoa hai tay, nhưng bà biết bà đã thua, và bà rời văn phòng của ông với đôi vai xụi xuống. Bà cẩn thận đóng cánh cửa trượt sau lưng mình và Gabriel thở phào nhẹ nhõm. Vụ rầy rà này làm ông bực mình. Sau ngần ấy năm ở với nhau bà phải hiểu ông đủ để thấy rằng một khi đã quyết thì ông sẽ không đổi ý chứ.
Ông hài lòng và bình tĩnh lại, tiếp tục viết vào cuốn sổ để trước mặt. Những phần mềm kế toán hiện đại chưa bao giờ chiếm được cảm tình của ông, vì ông thích cái cảm giác có một cuốn sổ lớn ở trước mặt, với những hàng chữ số được tính toán viết ngay ngắn ở cuối mỗi trang. Khi đã hoàn thành, ông thỏa mãn dựa lưng vào ghế. Đây là một thế giới mà ông có thể kiểm soát.
Trong một thoáng Patrik tự hỏi liệu anh có vào đúng nhà không. Đây không thể là ngôi nhà tĩnh lặng, yên bình mà anh đã rời đi sáng nay. Mức độ tiếng ồn đã vượt xa mức cho phép ở hầu hết các công sở, và ngôi nhà trông như vừa bị ai ném một quả lựu đạn vào. Những món đồ đạc lạ vương vãi khắp nơi, và những thứ đáng lẽ phải ở đúng chỗ thì lại biến mất. Xem xét thái độ của Erica, lẽ ra anh nên về nhà từ một hay hai giờ trước.
Anh ngạc nhiên khi đếm được chỉ có hai đứa trẻ rồi thêm hai người lớn nữa, anh tự hỏi làm thế nào mà họ có thể tạo ra âm thanh nghe như cả một cái nhà trẻ như vậy. Tivi đang om sòm kênh Disney và một thằng bé nhỏ thó đang cầm khẩu súng đồ chơi chạy đuổi theo một con bé thậm chí còn nhỏ hơn nó. Bố mẹ của hai con quỷ nhỏ thì đang ngồi bình thản ngoài hiên. Gã đàn ông to như cục hành lý vui vẻ vẫy tay gọi Patrik nhưng không buồn đứng dậy khỏi xô-pha hay tách mình ra xa khay bánh ngọt.
Patrik đi vào bếp tìm Erica, và cô đổ sụp vào vòng tay anh.
“Đưa em ra khỏi đây đi, làm ơn. Kiếp trước em hẳn đã phạm phải những tội lỗi không thể tha thứ nên mới phải gánh hết những thứ này. Bọn trẻ là lũ quỷ nhỏ trong hình dạng con người, và Conny là… Conny. Vợ anh ta hầu như không nói một lời và trông cáu kỉnh đủ để làm sữa vón cục. Giúp em với, họ đang đến đấy!”
Patrik vỗ nhẹ vào lưng vợ đầy thương cảm và thấy áo cổ đẫm mồ hôi.
“Em đi tắm cho bình tĩnh lại, anh sẽ tiếp khách một lúc. Em ướt sũng cả rồi.”
“Cảm ơn anh, anh đúng là một thiên thần. Có bình cà phê đã pha sẵn rồi đấy. Họ đã uống đến cốc thứ ba rồi, nhưng Conny mới gợi ý là anh ta muốn thứ gì đó mạnh hơn, nên anh phải kiểm tra lại xem mình có sẵn những thứ gì ở đây rồi đấy nhé.”
“Anh sẽ xử lý. Nào đi đi, em yêu, trước khi anh đổi ý.”
Erica trao cho anh một nụ hôn biết ơn rồi lạch bạch leo lên lầu, đi vào phòng tắm.
“Cháu muốn ăn kem.” Victor lẻn đến sau lưng Patrik và chĩa súng vào anh.
“Xin lỗi, cô chú không có tí kem nào trong nhà cả.”
“Thế thì chú đi mua đi.”
Thái độ láo xược của thằng bé khiến Patrik phát điên, nhưng anh cố gắng tỏ ra thân thiện và nói một cách nhẹ nhàng nhất có thể, “Không, chú sẽ không đi đâu. Có bánh bích quy trên bàn ngoài kia, cháu có thể ăn vài cái.”
“Cháu muốn keeeeeem!!!” Thằng bé tru tréo và nhảy chồm chồm, giờ mặt nó đã đỏ tía lên.
“Nhà chú không có, chú nói rồi cơ mà!” Sự kiên nhẫn của Patrik bắt đầu bớt dần.
“KEM, KEM, KEM, KEM…”
Victor không dễ mà đầu hàng. Nhưng chắc nó nhìn thấy trong mắt Patrik rằng đã đến mức giới hạn rồi, nên nó im dần và từ từ chuồn ra khỏi bếp. Rồi nó vừa khóc ầm ĩ vừa chạy về phía bố mẹ nó, hai người vẫn đang ngồi ngoài hiên, phớt lờ sự hỗn loạn trong bếp.
“Bốốố, chú Patrik ki bo lắm! Con muốn ăn KEEEM!”
Ấm cà phê trong tay, Patrik cố gắng giả điếc và đi ra ngoài chào khách. Conny đứng dậy và chìa tay ra. Khi Patrik chào Britta, anh cũng phải chịu đựng cái bắt tay lạnh như cá của cô ta.
“Victor đang sắp trải qua một thời kỳ phát triển,” cô ta nói. “Nó đang kiểm tra giới hạn ý chí của nó đấy. Chúng tôi không muốn cản trở sự phát triển nhân cách của nó, nên chúng tôi cho phép nó tự tìm ra đâu là đường ranh giới giữa mong muốn của nó và của người khác.”
Britta dịu dàng nhìn con trai mình và Patrik nhớ rằng Erica nói cô ta là một nhà tâm lý học. Nhưng nếu đây là cách dạy con của cô ta, thì bác sĩ tâm lý là người mà Victor bé nhỏ sẽ được tiếp xúc gần gũi khi nó trưởng thành. Conny hình như không nhận thấy chuyện gì đang xảy ra, và anh ta bắt thằng con im lặng bằng cách nhét một miếng bánh to vào mồm nó. Nhìn vào thân hình tròn trịa của Victor, thì đây hẳn là một chiến thuật được sử dụng thường xuyên. Nhưng Patrik phải thừa nhận rằng nó thật hiệu quả và hấp dẫn bởi tính đơn giản.
Lúc Erica xuống lầu, vừa mới tắm xong và mặt có vẻ cảnh giác hơn, Patrik đã xếp tôm và các món khác lên bàn. Anh cũng đã mua cho mỗi đứa trẻ một cái bánh pizza sau khi nhận ra rằng đó là cách duy nhất để tránh một thảm họa thực sự trong bữa ăn.
Tất cả ngồi xuống và Erica vừa định nói chúc ngon miệng
thì Conny đã sục vào liễn tôm bằng cả hai tay. Một, hai, ba nắm tôm to hạ cánh xuống đĩa của anh ta, chỉ còn lại chưa được một nửa số tôm trong liễn.
“Ừmm, ngon thật. Giờ tôi đã biết phải ăn tôm như thế nào rồi.” Conny tự hào vỗ bụng và lại sục vào cái núi tôm của anh ta.
Patrik, người đã xếp đầy cái liễn với hai cân tôm đắt tiền khủng khiếp, giờ chỉ khẽ thở dài và lấy một miếng bé bằng ngón tay, ít đến mức hầu như không chiếm chỗ tí nào trên đĩa của anh. Erica không nói một lời nào, cũng làm như vậy rồi chuyền cái liễn cho Britta, và cô này rầu rĩ lấy nốt phần còn lại.
Sau bữa tối không thành công, họ trải giường cho khách trong phòng dành cho khách đến thăm nhà rồi xin phép đi ngủ sớm, lấy cớ là Erica cần phải nghỉ ngơi. Patrik chỉ cho Conny chỗ để whisky rồi nhẹ nhõm chuồn lên lầu để đến với hòa bình và yên tĩnh.
Cuối cùng, khi họ đã lên giường, Patrik kể cho Erica những gì anh đã làm trong ngày. Từ lâu anh đã thôi giữ bí mật công việc cảnh sát của mình với Erica, nhưng anh cũng biết rằng cô vẫn giữ mồm giữ miệng về những gì anh kể cho cô. Khi anh kể đến đoạn hai phụ nữ mất tích, anh có thể thấy cô đang dỏng tai lên nghe.
“Em nhớ là đã đọc ở đâu đó rồi. Thế anh nghĩ rằng họ có thể là những hài cốt mà các anh tìm thấy à?”
“Anh khá chắc chắn. Nếu không thì đây sẽ là một sự trùng hợp quá lớn đấy. Ngay khi nhận được báo cáo từ đội Pháp y thì bọn anh có thể tiến hành điều tra vụ này một cách chính xác, nhưng trong thời gian tới bọn anh phải để ngỏ càng nhiều phương án càng tốt.”
“Anh có cần người giúp đào xới thông tin bên lề không?” Cô háo hức quay sang phía anh và anh có thể thấy những tia sáng lóe lên trong mắt cô.
“Không, không, không. Em cứ để mặc nó đi. Đừng quên là em đang nghỉ ốm đấy.”
“Chắc thế, nhưng lần kiểm tra mới nhất thì huyết áp của em hạ rồi. Và em sắp phát điên lên vì phải ở nhà cả ngày. Em thậm chí không thể bắt đầu viết cuốn sách mới.”
Cuốn sách về Alexandra Wijkner và cái chết bi thảm của cô ta đã bán rất chạy, mang về cho Erica hợp đồng viết một cuốn sách trinh thám khác. Việc viết lách đòi hỏi ở cô nỗ lực rất lớn, cả về mặt nghiên cứu lẫn cảm xúc, và sau khi đã gửi nó đến chỗ nhà xuất bản hồi tháng Năm thì cô chẳng còn muốn bắt đầu một dự án mới nữa. Huyết áp cao rồi đợt nghỉ ốm đã khiến cô phải chịu thua, đành hoãn mọi việc về cuốn sách mới cho đến sau khi sinh con. Nhưng về bản chất cô không phải là người chỉ ăn không ngồi rồi.
“Annika đang đi nghỉ, nên chị ấy sẽ không thể làm việc đó được. Và việc nghiên cứu tài liệu cũng không dễ dàng như anh nghĩ đâu. Anh phải biết chỗ để tìm cơ, và em biết đấy. Em chỉ ngó một cái thôi…”
“Không, đừng hỏi nữa. Hy vọng là Conny và bầu đàn thê tử của anh ta sẽ rời đi sáng sớm, để em có thể nghỉ ngơi. Giờ thì im lặng một phút cho anh nói chuyện với em bé nào. Chúng ta phải bắt đầu lên kế hoạch cho sự nghiệp bóng đá của thằng bé…”
“Hoặc con bé.”
“Hoặc con bé. Mà có khi sau này nó lại chơi golf. Bóng đá nữ chẳng kiếm được tiền đâu.”
Erica chỉ thở dài, nhưng vẫn ngoan ngoãn nằm ngửa để anh nói chuyện với đứa bé trong bụng cho tiện.
“Họ có chú ý khi em lẻn ra không?” Stefan đang nằm cạnh Linda và cù cọng rơm lên mặt cô.
“Không, bởi vì Jacob tin em.” Cô cau mày, nhại lại giọng điệu nghiêm túc của anh trai cô. “Đó là điều anh ta nhặt nhạnh được từ những khóa học về cách tạo mối quan hệ tốt với bọn trẻ. Điều tồi tệ nhất với hầu hết bọn trẻ con hình như là được bao bọc quá kỹ – đối với vài đứa thì Jacob như Thiên Chúa ấy chứ. Mặc dù nếu như anh lớn lên không có bố, anh có thể lấy bất cứ thứ gì anh kiếm được.” Cảm thấy bị làm phiền, cô gạt phắt cọng rơm mà Stefan đang cù cù trên mặt. “Bỏ ra.”
“Sao thế, anh trêu em một chút không được à?”
Nhận ra gã đang cảm thấy bị xúc phạm, cô bèn cúi xuống hôn gã, như thể dán băng lên một vết rách. Hôm nay không phải là một ngày tốt. Cô mới đến kỳ vào sáng hôm đó, nên sẽ không thể làm tình với Stefan trong một tuần. Và thật bực mình khi phải sống cùng nhà với ông anh trai sáng chói và chị vợ cũng sáng chói như thế của anh ta.
“Ôi, giá như năm nay sẽ qua nhanh để em còn sớm rời khỏi cái lỗ khốn kiếp này!”
Họ phải thì thầm để không bị phát hiện nơi ẩn náu trong vựa cỏ khô, nhưng cô lại vừa đập mạnh tay lên tấm ván một cái để nhấn mạnh câu nói của mình.
“Em cũng muốn rời bỏ anh nữa à? Em muốn thế phải không?”
Vẻ tổn thương trên mặt Stefan càng sâu đậm, và cô cắn vào lưỡi mình. Nếu cô từng có cơ hội bước ra thế giới rộng lớn ngoài kia, cô sẽ không bao giờ nhìn đến một người như Stefan. Chừng nào cô còn mắc kẹt ở đây, thì gã còn đủ để cho cô giải trí, nhưng chỉ vậy thôi. Nhưng gã không cần biết điều ấy. Nên cô cuộn tròn lại như một con mèo con dễ thương và xích lại gần gã hơn.
Không nhận được phản ứng gì, cô nắm lấy cánh tay gã và quàng nó quanh mình. Như đã có sự đồng tình giữa hai người, những ngón tay gã bắt đầu lướt dọc cơ thể cô, và cô tự mỉm cười. Đàn ông thật dễ điều khiển.
“Anh sẽ đi với em, phải không?” cô nói mà biết rõ gã sẽ không bao giờ có thể rời khỏi Fjällbacka, hay đúng hơn là khỏi thằng anh trai. Đôi khi cô tự hỏi liệu gã có bao giờ đi vệ sinh mà không hỏi ý Robert không.
Gã không trả lời. Thay vào đó, gã nói, “Em đã nói chuyện với bố em chưa? Bố em nói gì về cái ý tưởng rời khỏi thị trấn của em?”
“Ông ấy thì nói gì được? Chỉ một năm nữa thôi ông ấy sẽ không thể bảo em phải làm gì. Ngay khi em mười tám tuổi thì ông ấy chẳng làm đếch gì được nữa đâu. Và ông ấy sẽ phát điên lên. Đôi khi em nghĩ chắc bố em từng ước ông ấy có thể điền bọn em vào một trong những cuốn sổ kế toán khốn kiếp của ông ấy. Jacob ghi nợ, Linda tín dụng.”
“Ý em là gì, ghi nợ?”
Linda cười to. “Đó là những thuật ngữ tài chính, anh không cần phải để ý đâu.”
“Anh chỉ tự hỏi mọi chuyện sẽ ra sao nếu…” Stefan nhìn chằm chằm đâu đó phía sau cô trong khi vẫn tiếp tục nhai cọng rơm.
“Mọi chuyện sẽ ra sao nếu làm sao?”
“Nếu bố anh không mất hết tiền. Thì có thể bọn anh mới là những người sống trong nhà chính, còn em sẽ ở trong lều gỗ với bác Gabriel và bác Laine.”
“À ừ, cảnh đó hay đấy. Mẹ sống trong một túp lều tồi tàn. Nghèo như một con chuột trong nhà thờ.”
Linda ngửa đầu ra sau và cười to đến nỗi Stefan phải suỵt cô không nhỡ Jacob và Marita đang ở trong nhà có thể nghe thấy, nhà kho chỉ cách đấy có một tầm ném đá.
“Nếu thế có lẽ bố anh vẫn còn sống. Và rồi mẹ anh cũng không phải dành cả ngày để mân mê những quyển album ảnh,” Stefan nói.
“Nhưng đâu phải vì tiền mà bác ấy…”
“Em thì biết gì. Em không biết vì sao mà ông ấy lại làm thế à?” Giọng gã vọt lên quãng tám và trở nên chói tai.
“Ai chả biết.”
Linda không thích cuộc đối thoại chuyển hướng thế này, và cô không dám nhìn thẳng vào mắt Stefan. Mối thù trong gia đình và tất cả những chuyện liên quan luôn bị hạn chế nói đến, bởi một thỏa thuận ngầm.
“Mọi người đều nghĩ rằng mình biết, nhưng không ai biết cái quái gì hết,” Stefan tiếp tục. “Bây giờ anh trai của em còn đang sống trong trang trại đáng ra là của nhà anh – thế là quá lắm!”
“Không phải là lỗi của Jacob mà mọi chuyện thành ra như vậy,” Linda nói. Khá kỳ cục khi giờ cô lại bảo vệ thằng anh trai mà cô vẫn thường chửi rủa, nhưng một giọt máu đào hơn ao nước lã. “Anh ấy thừa hưởng trang trại từ ông nội, với lại, anh ấy luôn là người đầu tiên bảo vệ chú Johannes nữa.”
Stefan biết rằng cô nói đúng, và cơn tức giận của gã dần xẹp xuống. Chỉ là đôi khi gã thấy quá tổn thương khi Linda nói về gia đình cô, vì nó nhắc gã phải nhớ đến những gì mà bản thân gã đã mất. Gã không dám nói thẳng điều đó vào mặt cô, nhưng gã thường nghĩ rằng cô khá vô ơn. Cô và gia đình cô đã có tất cả mọi thứ, còn gia đình gã thì chẳng có gì. Công lý ở đâu đây?
Đồng thời gã có thể tha thứ tất cả cho cô. Gã chưa bao giờ yêu ai mãnh liệt đến thế, và chỉ lướt nhìn tấm thân mảnh mai của cô đang nằm bên cạnh gã đã bừng bừng cả người. Đôi khi gã không thể tin đó là sự thật. Rằng một thiên thần như Linda sẽ phí thời gian của mình với gã. Nhưng gã biết là không nên đặt câu hỏi với vận may của mình. Thay vào đó, gã cố gắng bỏ qua tương lai và tận hưởng hiện tại. Rồi gã kéo cô lại gần hơn và nhắm mắt lại hít hà mùi hương từ mái tóc cô. Gã cởi nút quần jean trên cùng của cô, nhưng cô ngăn gã lại.
“Em không thể, em đến kỳ rồi. Cứ để em.”
Cô cởi nút quần jean của gã và gã nằm ngửa trong đống cỏ. Đằng sau mí mắt khép chặt của gã, thiên đường lung linh trôi qua.
Mới chỉ một ngày trôi qua kể từ khi xác người phụ nữ được tìm thấy nhưng Patrik đã sốt ruột đến phát bệnh. Một nơi nào đó có người đang tự hỏi cô ta đang ở đâu. Suy tư, băn khoăn, những ý nghĩ cứ chạy qua chạy lại trong đầu khiến cho con người ta càng lúc càng lo lắng hơn. Và điều khủng khiếp trong trường hợp này là những mối nghi ngờ tệ hại nhất đã trở thành sự thật. Anh muốn tìm ra xem người phụ nữ này là ai, muốn hơn bất cứ điều gì khác, để anh có thể thông báo cho người thân của cô ta. Không có gì tồi tệ hơn sự không chắc chắn, kể cả cái chết. Nỗi đau buồn không thể bắt đầu cho đến khi họ biết lý do đau buồn. Chẳng dễ dàng gì khi là người báo tin – một trách nhiệm đè nặng lên tâm trí Patrik – nhưng anh biết rằng đó là một phần quan trọng trong công việc của mình. Để tạo điều kiện và đề nghị giúp đỡ. Nhưng trên hết, là để tìm hiểu xem chuyện đã xảy ra với người quá cố.
Những cuộc điện thoại không kết quả của Martin trong ngày hôm qua đã chứng tỏ rằng nhiệm vụ xác minh sẽ còn khó khăn nữa. Không có cô gái nào trong địa phương bị báo cáo mất tích, nên khu vực tìm kiếm đã được mở rộng ra toàn Thụy Điển, thậm chí có thể là phải sang cả các nước khác nữa. Tại thời điểm này, nhiệm vụ dường như là bất khả thi, nhưng anh nhanh chóng gạt bỏ suy nghĩ đó. Ngay bây giờ chỉ có họ là thầy cãi cho người phụ nữ vô danh này.
Martin khẽ gõ cửa.
“Anh muốn tôi làm gì tiếp theo thế? Mở rộng bán kính tìm kiếm, hay bắt đầu với các quận lớn trong thành phố, hay…?” Anh nhướng mày có ý hỏi.
Lập tức Patrik cảm thấy sức nặng của trách nhiệm trong cuộc điều tra. Thực tế thì không có gì chỉ hướng cả, nhưng họ cũng phải bắt đầu từ đâu đó.
“Kiểm tra các quận lớn. Göteborg đã được soát rồi, vậy bắt đầu với Stockholm và Malmö. Ta cần sớm nhận được báo cáo sơ bộ từ đội Pháp y, và nếu may mắn thì có thể có gì đó hữu ích đấy.”
“Được rồi.” Martin sập cửa khi ra ngoài và đi thắng về văn phòng mình. Một tiếng động chói tai vọng lại từ sảnh trước khiến anh giật mình và anh đi ra đón khách. Bình thường đó là việc của Annika, nhưng trong khi cô đi nghỉ thì họ phải tự làm thôi.
Người phụ nữ trẻ nhìn có vẻ buồn phiền. Cô gầy, có hai bím tóc vàng dài và mang một cái ba lô to trên lưng.
“Tôi muốn nói chuyện với người phụ trách,” cô nói bằng tiếng Anh.
Cô nói với giọng nặng nề, và anh đoán cô là người Đức. Martin mở cửa và ra hiệu cho cô đi vào. Anh gọi vọng vào hành lang, “Patrik, anh có khách này.”
Quá muộn để anh nhớ ra rằng có lẽ trước tiên nên hỏi cô có việc gì, nhưng Patrik đã thò đầu ra khỏi văn phòng và người phụ nữ trẻ đang đi về hướng anh.
“Anh là người phụ trách ở đây à?”
Trong một thoáng, Patrik đã muốn bảo cô đến chỗ Mellberg, ông ta mới là sếp, nhưng anh đã đổi ý khi nhìn thấy vẻ tuyệt vọng của cô và quyết định tha cho cô khỏi phải chịu đựng việc đó. Gửi một cô gái xinh xắn đến văn phòng của Mellberg cũng như gửi một con cừu đến lò mổ, và bản năng bảo vệ người khác bẩm sinh trong Patrik đã thắng.
“Vâng, tôi có thể giúp gì cho cô?”
Anh ra hiệu cho cô đi vào và ngồi xuống cái ghế trước bàn làm việc của anh. Cô tháo cái ba lô to ra với một cung cách dễ dàng đáng ngạc nhiên và cẩn thận đặt nó tựa vào bức tường gần cửa.
“Tiếng Anh của tôi tệ lắm. Anh có nói được tiếng Đức không?”
Patrik soát lại những kiến thức xa xưa từ thời còn đi học về tiếng Đức. Câu trả lời của anh phụ thuộc vào cách cô định nghĩa thế nào là nói tiếng Đức
. Anh có thể đặt bia và gọi tính tiền, nhưng anh ngờ rằng cô không ở đây với tư cách hầu bàn.
“Một chút thôi,” anh trả lời ngập ngừng bằng tiếng mẹ đẻ của cô, khua khua tay ra dấu tàm tạm
.
Cô có vẻ hài lòng khi nghe vậy rồi nói chậm rãi và rõ ràng để anh có thể hiểu cô đang nói gì. Patrik ngạc nhiên thấy mình biết nhiều hơn mình nghĩ lúc đầu, và mặc dù không hiểu hết, anh cũng nhận ra được ý chính.
Cô tự giới thiệu mình là Liese Forster. Rõ ràng một tuần trước cô đã trình báo việc bạn cô là Tanja mất tích. Cô đã nói chuyện với một cảnh sát tại đồn này và ông ta đã bảo cô rằng ông ta sẽ liên lạc khi có thêm thông tin. Cô đã chờ đợi cả tuần rồi mà vẫn chưa thấy tin tức gì cả. Vẻ lo lắng hiện rỏ trên gương mặt cô và Patrik coi câu chuyện của cô là khá nghiêm trọng.
Tanja và Liese đã gặp nhau trên tàu đến Thụy Điển. Cả hai đều đến từ miền Bắc nước Đức nhưng không biết nhau từ trước. Ngay lập tức họ rất hòa hợp với nhau, và Liese nói rằng họ cứ như chị em vậy. Liese không có kế hoạch cụ thể rằng khi đến Thụy Điển cô sẽ đi đâu, nên Tanja đã gợi ý rằng cô nên đi cùng mình đến một thị trấn nhỏ ven bờ biển phía Tây có tên là Fjällbacka.
“Tại sao Fjällbacka?” Patrik hỏi với một thứ ngữ pháp tiếng Đức vụng về.
Câu trả lời có chút do dự. Liese thừa nhận rằng cô thực sự không biết tại sao. Đó là một chủ đề mà Tanja đã không vui vẻ hay cỏi mở gì khi thảo luận với cô. Tất cả những gì Tanja nói là mình có việc phải làm ở đó. Khi xong việc, họ có thể tiếp tục chuyến đi xuyên Thụy Điển. Nhưng trước tiên Tanja cần tìm một cái gì đó. Chủ đề ấy có vẻ nhạy cảm và Liese cũng không có ý định tò mò quá sâu làm gì. Chỉ là cô thấy vui khi có một người bạn đồng hành trong chuyến đi của mình và cũng vui vẻ khi đi cùng bạn đến đó. Tại sao Tanja lại phải đi đến đó cũng không phải là vấn đề gì quan trọng với cô.
Họ ở khu cắm trại Sälvik được ba ngày thì Tanja biến mất. Cô rời đi từ sáng, nói rằng hôm đó mình có việc phải làm và sẽ trở lại vào tầm chiều. Buổi chiều trôi qua và rồi trời tối, nỗi lo lắng của Liese đã tăng theo từng giờ đồng hồ trôi qua. Sáng hôm sau, cô đến văn phòng du lịch ở quảng trường Ingrid Bergman và hỏi đường đến đồn cảnh sát gần nhất. Báo cáo về việc này đã được ghi nhận và bây giờ cô muốn biết mọi chuyện đã được xử lý đến đâu rồi.
Patrik sửng sốt. Theo những gì anh biết, họ chưa nhận được bất kỳ trình báo mất tích nào. Anh cảm thấy nặng trĩu trong lòng. Khi anh hỏi Tanja trông như thế nào, nỗi sợ của anh đã được xác nhận. Mọi điều Liese nói với anh về người bạn của cô đều khớp với người phụ nữ đã chết ở Khe Vua. Với trái tim nặng trĩu, anh cho Liese xem một bức ảnh chụp cái xác, và những tiếng nức nở của cô cho anh biết những gì anh còn nghi ngờ. Martin có thể ngừng gọi điện thoại, và ai đó sẽ phải được triệu tập để giải trình vì đã không báo cáo vụ mất tích của Tanja đúng cách thức. Họ đã lãng phí nhiều thời gian quý báu mà chẳng được việc gì, và Patrik, không chút nghi ngờ, đã đoán ngay ra thủ phạm là ai.
Khi Erica tỉnh dậy sau một giấc ngủ sâu và không mộng mị, Patrik đã đi làm. Cô nhìn đồng hồ. Đã chín giờ, và không có một âm thanh nào từ dưới cầu thang.
Ngay sau đó cô đặt cà phê, bắt đầu chuẩn bị bữa sáng cho mình và các vị khách. Họ lần lượt vào bếp từng người một, người sau lờ đờ hơn người trước, nhưng họ nhanh chóng quây quần lại khi bắt đầu tự phục vụ bữa sáng mà cô đã chuẩn bị.
“Hôm nay mọi người có định đến Koster không?” Câu hỏi của Erica khá lịch sự, nhưng cô đang mong chờ được thoát khỏi họ.
Conny và vợ liếc nhau thật nhanh và nói, “Thế này, đêm qua Britta và anh đã nói chuyện một chút, và bọn anh nghĩ đằng nào cũng đã ở đây rồi, mà thời tiết lại đẹp thế, có lẽ hôm nay bọn anh nên đi chơi đảo. Em có một cái thuyền phải không nhỉ?”
“À, vâng, nhà em có,” Erica lưỡng lự thừa nhận. “Nhưng em nghĩ là Patrik có thể sẽ lo lắng khi cho mượn. Xét đến khoản bảo hiểm và…” Ý nghĩ rằng họ sẽ ở lại chỉ thêm một vài giờ so với kế hoạch khiến xương cốt trong người cô ran lên thất vọng.
“Bọn anh nghĩ rằng em có thể cho bọn anh đi nhờ đến một vài danh lam thắng cảnh, rồi bọn anh sẽ gọi điện cho em khi bọn anh muốn về.”
Conny cho rằng Erica á khẩu trước đề nghị này của anh ta tức là cô đã ngầm đồng ý. Cô viện thêm sức mạnh để kiên nhẫn và thuyết phục bản thân rằng không đáng phải đối đầu với gia đình này chỉ để đổi lại vài giờ thoát khỏi họ. Mà biết đâu cô sẽ không phải ở cạnh họ cả ngày, và có thể họ sẽ quyết định rời đi trước khi Patrik về. Cô đã quyết định chuẩn bị một món đặc biệt cho bữa tối và có một buổi tối ấm cúng trong nhà. Xét cho cùng, Patrik được tính là đang đi nghỉ. Và ai mà biết được họ còn bao nhiêu thời gian dành cho nhau trước khi đứa bé ra đời – tốt nhất là phải tận dụng thời gian ở bên nhau.
Sau một hồi chần chừ, cả nhà Flood cuối cùng cũng xách ba lô lên và đi ra bến thuyền. Con thuyền gỗ nhỏ màu xanh ở bến Badholmen quá thấp và khó bước xuống. Phải loay hoay mất một lúc mới ì ạch nhét được bà bầu xuống thuyền. Sau khoảng một giờ dạo chơi bằng thuyền để tìm kiếm một bãi đá bỏ hoang, hoặc một bãi biển thì càng tốt
cho các vị khách, cuối cùng cô cũng tìm thấy một cái vịnh nhỏ mà kỳ diệu thay các du khách khác xem ra đã bỏ qua. Rồi cô về nhà. Không thể trèo lên bến mà không có ai giúp đỡ. Cảm thấy như bị sỉ nhục, cô phải nhờ vài người đi ngang qua trợ giúp.
Toát mồ hôi, nóng nực, kiệt sức và tức giận, cô lái xe về nhà nhưng lại đổi ý khi đi ngang qua câu lạc bộ thuyền buồm. Cô đột ngột rẽ trái thay vì đi thẳng về hướng Sälvik. Cô lượn về phía tay phải để đi vòng quanh ngọn đồi, qua sân chơi thể thao và khu chung cư Kullen, rồi đậu xe bên ngoài thư viện. Cô sẽ mất trí hoàn toàn nếu phải ngồi ở nhà cả ngày mà chẳng có gì để làm. Patrik có thể phản đối sau nếu anh muốn, nhưng anh sẽ được trợ giúp trong việc điều tra dù có muốn hay không!
Bước vào đồn cảnh sát, Ernst miễn cưỡng tiến về phía văn phòng của Hedström. Ngay khi Patrik gọi vào di động và ra lệnh cho ông lập tức trở về đồn bằng giọng cứng rắn, Ernst biết rằng mình đã gặp rắc rối. Ông soát lại trong trí nhớ để thử tìm xem mình bị bắt lỗi nào, nhưng phải thừa nhận rằng có quá nhiều khả năng nên khó mà đoán trúng. Ông chuyên gia đi tắt và đã biến những trò khôn lỏi thành một hình thức nghệ thuật.
“Ngồi đi.”
Ông ngoan ngoãn tuân phục mệnh lệnh của Patrik, rồi trưng ra bản mặt thách thức để đón đầu cơn bão đang đến.
“Làm gì mà cuống lên thế? Tôi đang dở việc. Không phải chỉ vì được giao phụ trách cuộc điều tra mà anh có thể chỉ tay năm ngón…”
Một đòn tấn công tốt chính là cách phòng thử hay nhất, nhưng nhìn vẻ mặt sa sầm của Patrik thì đây hoàn toàn là một chiến thuật sai lầm.
“Ông đã được trình báo về một du khách người Đức bị mất tích tuần trước phải không?”
Mẹ kiếp. Ông đã quên bẵng chuyện này. Con bé tóc vàng loắt choắt đã đến ngay trước giờ ăn trưa, và ông đã vội vàng tống khứ cô ta để rảnh rang mà đi ăn. Hầu hết mấy vụ trình báo bạn bè mất tích như vậy chẳng quan trọng gì. Thường thì người đó say rượu bí tỉ trong một cái mương nào đó, hoặc là cô nàng về nhà với trai. Bực thật. Giờ ông biết rằng mình sẽ phải trả giá cho việc này. Ông không thể tưởng tượng được tại sao ông lại không chắp nối chuyện này với cô gái mà họ tìm thấy ngày hôm qua, còn giờ thì mọi chuyện đã hai năm rõ mười rồi. Điều quan trọng là phải giảm thiểu thiệt hại.
“Ừ, à, tôi chắc là thế.”
“Ông chắc là thế?” Giọng Patrik bình thường rất ôn hòa giờ lại nghe như sấm nổ trong căn phòng nhỏ.“Hoặc là ông đã làm báo cáo hoặc là không. Không có lập lờ nước đôi. Và nếu ông đã làm, thì quái chỗ ở… nó ở đâu?” Patrik tức giận đến mức nói vấp. “Ông có nhận ra là việc này đã làm phí bao nhiêu thời gian điều tra không?”
“Ờ, rõ là không may, nhưng làm thế nào mà tôi biết được…”
“Việc của ông không phải là biết, việc của ông là phải làm những việc được giao! Tôi hy vọng là mình sẽ không bao giờ phải nghe về những chuyện kiểu như thế này nữa. Ngay bây giờ, ta phải bù đắp lại những giờ phút quý báu.”
“Có việc gì mà tôi có thể…” Ernst khiến giọng mình nghe có vẻ hết sức phục tùng và cố gắng thể hiện sự ăn năn. Tuy vậy trong thâm tâm, ông lại chửi thầm khi bị coi như một thằng nhãi lính mới, nhưng bây giờ Hedström đã trở thành tai mắt của Mellberg nên thật ngu ngốc mới đi làm tình hình trầm trọng hơn nữa.
“Ông làm đủ rồi. Martin và tôi sẽ tiếp tục tiến hành điều tra. Ông sẽ lo tiếp nhận các báo cáo mới được chuyển đến khác. Ta mới nhận được một cái về vụ trộm ở Skeppstad. Tôi đã nói chuyện với Mellberg và ông được phép xử lý vụ đó một mình.”
Muốn ra dấu là cuộc trò chuyện đã xong, Patrik quay lưng lại với Ernst và bắt đầu gõ điên cuồng đến nỗi bàn phím nẩy lên.
Ernst lầm bầm rời khỏi phòng. Quên viết có mỗi một cái báo cáo vặt thôi mà sao mà cứ phải nhặng xị lên? Đến đúng thời điểm rồi ông sẽ nói chuyện với Mellberg xem liệu cử một người tính cách bất ổn như vậy phụ trách điều tra án mạng là có thích hợp hay không, ừ, mẹ nó chứ, ông sẽ làm thế.
Thằng bé mặt mụn ngồi đối diện là một đối tượng nghiên cứu về sự thờ ơ. Vẻ tuyệt vọng hiện rõ trên mặt nó – sự vô nghĩa của cuộc đời đã giã nát nó từ lâu rồi. Jacob nhận ra tất cả những dấu hiệu đó, và anh không thể không coi đó là một thách thức. Anh biết rằng mình có khả năng thay đổi cuộc đời thằng bé theo một hướng hoàn toàn khác. Nhưng anh sẽ thành công đến mức nào thì còn phải phụ thuộc vào việc thằng bé có mong muốn hướng về chánh đạo hay không.
Trong cộng đồng tôn giáo, việc Jacob giúp đỡ những đứa trẻ đã có tiếng tăm và được coi trọng. Có rất nhiều linh hồn tan vỡ đã vào làm trong trại rồi rời đi với tâm thế của những thành viên có ích cho xã hội. Với những cư dân còn lại trong thị trấn, niềm tin tôn giáo cũng đã phai nhạt dần, bởi trợ cấp của chính phủ trở nên bấp bênh hơn. Luôn có những người không tin vào Chúa, họ gọi đó là giáo phái
ngay khi có gì bất đồng với quan điểm thông thường của họ về những gì liên quan đến tôn giáo.
Sự nể trọng mà anh giành được chủ yếu nhờ công sức của chính mình, nhưng anh không phủ nhận rằng cũng có thể một phần trong đó là nhờ danh tiếng của ông nội anh là Ephraim Hult, Nhà Thuyết Giáo
. Tất nhiên ông nội anh không thuộc về giáo đoàn này, nhưng danh tiếng của ông đã lan xa dọc theo bờ biển Bohuslän, vang dội ở khắp các nhà thờ tự do. Giáo hội Luther ở Thụy Điển thường xem Nhà Thuyết Giáo là một kẻ bịp bợm. Thế nhưng, tất cả các mục sư thuyết giáo trước những hàng ghế trống vào Chủ nhật cũng chỉ làm những việc tương tự mà thôi, vậy nên các hội đoàn Thiên Chúa giáo tự do hơn cũng không để ý mấy đến vấn đề này.
Công việc với những người sống bên lề xã hội và những kẻ nghiên ngập đã chiếm gần một thập kỷ trong cuộc đời Jacob, nhưng nó không còn khiến anh hài lòng như trước nữa. Anh đã từng tham gia các chương trình lập kế hoạch cho các trung tâm cải tạo ở Bullaren, nhưng công việc đã không còn lấp đầy cái khoảng trống mà anh đã sống chung cả đời. Có điều gì đó đã biến mất trong anh, và việc tìm kiếm cái điều không rõ đó làm anh khiếp sợ. Từ lâu rồi, anh vẫn tin rằng mình đang đứng vững trên mặt đất nhưng giờ anh lại thấy run rẩy chênh vênh. Anh sợ rằng vực thẳm sẽ mở ra và nuốt mình vào, cả thể xác lẫn linh hồn. Rất nhiều lần, nhờ được bảo đảm bởi đức tin nên anh đưa ra nhận xét đầy tính châm ngôn rằng nghi ngờ là công cụ thứ yếu của quỷ dữ, mà không biết rằng một ngày nào đó anh cũng sẽ thấy mình đang ở trong tình trạng khó khăn đó.
Jacob đứng dậy và quay lưng lại với thằng bé. Anh nhìn ra ngoài cửa sổ, đối mặt với hồ nước, nhưng chỉ thấy hình ảnh phản chiếu của chính mình trong kính. Một người đàn ông khỏe mạnh, anh mỉa mai nghĩ. Mái tóc đen cắt ngắn, và Marita, thợ cắt tóc tại nhà của anh, thực sự đã làm rất khéo. Khuôn mặt như được chạm trổ tinh tế, với những nét mềm mại mà không hề thiếu nam tính. Anh không ốm yếu và cũng không quá vạm vỡ – anh đạt đúng tiêu chuẩn của một người đàn ông vóc dáng cân đối. Tài sản lớn nhất của Jacob là đôi mắt. Chúng mang màu lơ sắc sảo và sở hữu khả năng độc đáo, cùng lúc trông chúng vừa có vẻ dịu dàng vừa như đang xuyên thấu tâm can người đối diện. Đôi mắt đã giúp anh thuyết phục được nhiều người đi theo chánh đạo. Anh biết điều đó, và anh đã khai thác nó triệt để.
Nhưng không phải là hôm nay. Những con quỷ trong anh đã làm anh khó tập trung vào vấn đề của người khác. Anh thấy sẽ dễ hiểu những gì thằng bé đang nói hơn khi không phải nhìn vào nó. Jacob rời mắt khỏi hình ảnh phản chiếu của mình, chăm chú dõi sang hồ Bullar và cánh rừng trải rộng hàng dặm trước mặt anh. Trời nóng đến nỗi anh có thể thấy không khí loáng trên mặt nước. Họ đã mua được cả một trang trại lớn với giá rẻ mạt vì nó đã quá cũ nát sau nhiều năm không có ai quản lý. Sau bao giờ phút cực nhọc không đếm xuể họ cũng đã cải tạo được nó để có tình trạng như bây giờ. Chỗ này không sang trọng, nhưng nó gọn gàng, sạch sẽ và thoải mái. Các đại biểu của quận vẫn luôn ấn tượng với ngôi nhà và cảnh quan đẹp đẽ xung quanh. Họ háo hức nghĩ đến những ảnh hưởng tích cực của nó đối với các cô cậu bé nghèo khổ. Trước đây trang trại chưa bao giờ gặp vấn đề gì trong việc nhận trợ cấp và công việc của họ vẫn tiến triển tốt trong suốt mười năm hoạt động. Thế thì, vấn đề nằm trong đầu anh… hay là trong tâm hồn anh?
Có lẽ sự cám dỗ của cuộc sống hằng ngày đã đẩy anh rẽ sai hướng khi phải quyết định tại một ngã ba đường. Anh đã không ngần ngại cho em gái vào ở trong nhà mình. Còn ai khác có khả năng dỗ dành tinh thần nổi loạn và xoa dịu tính khí ương ngạnh của con bé? Nhưng nó đã chứng tỏ mình giỏi hơn anh trong cuộc chiến tâm lý, và thế rồi mỗi ngày cái tôi của con bé lại càng mạnh mẽ hơn khiến anh cảm thấy như luôn luôn bị chọc tức rồi nó ngấm ngầm phá hoại toàn bộ những gì mà anh đã tự tay xây dựng. Đôi khi anh thấy mình đang siết chặt nắm đấm và nghĩ rằng con bé là một cô gái ngu ngốc, đơn giản, xứng đáng bị gia đình phủi tay chẳng ai thèm quan tâm đến nữa. Nhưng đó không phải là cách suy nghĩ của những người theo đạo Thiên Chúa, và những suy nghĩ như vậy luôn dẫn đến hàng giờ tự vấn lương tâm và chăm chú nghiên cứu Kinh Thánh với niềm hy vọng sẽ tìm thấy sức mạnh mới.
Bề ngoài Jacob vẫn là một tảng đá vững chãi và tự tin. Anh biết rằng những người xung quanh cần mình – anh là người mà họ luôn có thể dựa vào. Và anh chưa sẵn sàng từ bỏ hình tượng đó. Kể từ khi đánh bại được căn bệnh đã tàn phá mình sức cùng lực kiệt trong suốt một thời gian dài, anh đã cố không để mất quyền kiểm soát cuộc sống của mình nữa. Nhưng những nỗ lực đơn thuần chỉ để duy trì vẻ bề ngoài đã bắt anh phải cố gắng đến cùng, và vực thẳm đang tiến lại gần hơn. Một lần nữa, anh thấy nỗ lực đó mới mỉa mai làm sao khi sau bao nhiêu năm mọi chuyện lại trở về như cũ. Các tin tức chỉ trong một giây đã khiến anh rơi vào hoàn cảnh tưởng như không bao giờ có thể xảy ra – anh bị những nghi ngờ đánh gục. Những nghi ngờ kéo dài chỉ một thoáng, nhưng nó đã tạo ra một vết nứt nhỏ trong cái cấu trúc vững chắc đang giữ cho cuộc sống của anh được bình ổn, và vết nứt đang lớn dần.
Jacob loại bỏ những suy nghĩ đó và buộc mình phải tập trung vào thằng nhóc đang có mặt trong phòng và tình trạng đáng thương của nó. Những câu hỏi mà anh đặt ra cho nó tự động bật ra như một cái máy, cũng giống như nụ cười thông cảm mà anh luôn sẵn sàng dành cho con cừu đen mới đến gia nhập đàn.
Một ngày khác. Một linh hồn tan vỡ khác cần được chữa lành. Việc này không bao giờ kết thúc. Nhưng ngay cả Chúa cũng phải có dịp nghỉ ngơi vào thứ Bảy* chứ.
Sau khi đi đón những người họ hàng trên một đảo đá ngầm, bây giờ trông họ đã đỏ hồng như một lũ lợn, Erica nóng ruột đợi Patrik về nhà. Cô cũng tìm kiếm xem có dấu hiệu gì là Conny và gia đình anh ta đã bắt đầu sắp xếp đồ đạc hay không, nhưng đã năm rưỡi rồi mà họ vẫn không có động tĩnh gì là muốn rời đi. Cô quyết định chờ đợi một lúc nữa trước khi nghĩ ra một cách khéo léo để hỏi xem liệu họ có định đi sớm không. Lũ trẻ la hét làm cô đau vỡ đầu, nên cô không muốn đợi lâu. Cô nhẹ nhõm cả người khi nghe thấy tiếng chân Patrik bước lên bậc thềm và đi ra đón anh.
“Chào, anh yêu,” cô vừa nói vừa kiễng chân lên để hôn anh.
“Chào em. Họ vẫn chưa đi cơ à?” Patrik nói nhỏ khi anh liếc nhìn vào phòng khách.
“Chưa, và hình như họ cũng chẳng định đi. Ta phải làm thế nào đây?” Erica trả lời cũng nhỏ như thế, mắt cô đảo tròn bày tỏ sự bất mãn trước tình hình này.
“Họ không định ở lại thêm một đêm nữa mà không hỏi han đấy chứ? Hay là họ định thế thật?” Patrik căng thẳng nói.
Erica khịt mũi. “Giá mà anh biết có bao nhiêu khách đã đến thăm bố mẹ em vào mùa hè trong suốt những năm qua. Những người chỉ định ở đây một hai đêm rồi cuối cùng lại ở cả tuần, muốn được chào đón này, muốn được ăn miễn phí này. Mọi người điên rồi. Và họ hàng luôn là những kẻ điên nhất.”
Patrik hoảng hồn. “Họ không thể ở lại cả tuần được! Ta phải làm gì đó thôi. Em không thể bảo họ đi đi à?”
“Em? Sao em lại phải bảo họ?”
“Xét cho cùng thì đấy là họ hàng của em cơ mà.”
Erica đành phải thừa nhận rằng anh đã nói đúng. Cô chỉ còn cách cắn răng chịu đựng. Cô đi vào phòng khách để nghe kế hoạch của họ, nhưng không có cơ hội nào để hỏi.
“Bữa tối ăn gì thế?” Bốn cặp mắt nhìn cô chờ đợi.
“A…” Erica không nói nên lời trước sự trơ tráo đến thản nhiên của họ. Cô nhanh chóng soát lại trong tâm trí những thứ đang có trong tủ lạnh. “Mì ống với nước xốt thịt. Một tiếng nữa thì ăn.”
Erica thấy như thể vừa tự tay đánh mình khi cô quay lại với Patrik trong bếp.
“Vậy họ nói gì? Họ sẽ đi chứ hả?”
Erica không thể nhìn vào mắt Patrik. Cô nói, “Em thực sự không biết được đâu. Nhưng ta sẽ ăn mì ống với nước xốt thịt trong vòng một giờ nữa.”
“Thế em không nói gì à?” Giờ đến lượt Patrik đảo mắt.
“Không dễ đâu. Cứ thử đi rồi anh sẽ thấy.” Cảm thấy bực bội trong lòng, Erica quay đi và bắt đầu đập nồi chảo loảng xoảng khi cô lấy chúng ra khỏi tủ. “Chúng ta sẽ phải nghiến răng chịu đựng thêm một đêm nữa vậy. Em sẽ nói với họ vào ngày mai. Anh thái một ít hành được không? Em không thể một mình làm bữa tối cho sáu người ăn được.”
Trong sự im lặng ngột ngạt, họ cùng nhau nấu bữa tối cho đến khi Erica không thể giữ im lặng được nữa.
“Hôm nay em đã ở thư viện,” cô nói. “Em đã sao chép một số tài liệu mà anh có thể dùng được. Nó ở trên bàn bếp kia kìa.” Có một xấp giấy gọn gàng đang nằm đó.
“Anh đã bảo em là em không nên…”
“Không, không, em biết. Nhưng giờ chuyện xong rồi, và cũng rất vui khi được thay đổi một chút thay vì cứ phải ngồi ở nhà mà nhìn chằm chằm vào mấy bức tường. Nên đừng phàn nàn nữa.”
Đến lúc này Patrik đã học được rằng khi nào thì mình nên im lặng, và anh ngồi xuống bên bàn ăn rồi bắt đầu giở tập tài liệu. Chúng là những bài báo về sự kiện hai phụ nữ đột nhiên mất tích, và anh say sưa đọc chúng.
“Trời, tuyệt quá! Ngày mai anh sẽ đem cái này đến văn phòng và xem kỹ hơn, nhưng trông nó hay đấy.”
Anh bước tới đứng sau lưng cô ở cạnh bếp và vòng tay quanh cái bụng căng tròn của cô. “Anh không có ý phàn nàn. Anh chỉ quan tâm đến em và em bé thôi.”
“Em biết.” Erica quay lại đối diện với anh và vòng tay quanh cổ anh. “Nhưng em không phải đồ sứ mỏng manh dễ vỡ, và nếu phụ nữ thời xưa có thể làm việc trên đồng cho đến khi họ sinh con ngay tại chỗ, em chắc chắn có thể ngồi trong thư viện và lật các trang giấy mà chẳng hề hấn gì.”
“Được rồi, anh biết.” Anh thở dài. “Ngay khi thoát khỏi những vị khách trọ, ta có thể chăm sóc cho nhau nhiều hơn. Và hứa là em phải nói với anh nếu em muốn anh ở nhà đấy. Mọi người ở đồn đã biết là anh tình nguyện làm việc trong kỳ nghỉ và em sẽ được ưu tiên.”
“Em hứa. Nhưng giờ hãy giúp em làm cho xong bữa tối và có thể bọn trẻ sẽ bớt ồn ào đi.”
“Căng đấy. Có lẽ ta nên mời họ mỗi người một ly whisky trước bữa tối, rồi họ sẽ buồn ngủ.” Anh nháy mắt với cô và cười to.
“Ồ, anh tệ quá. Chỉ nên mời Conny và Britta một ly thôi, rồi ít nhất tâm trạng họ cũng sẽ khá khẩm hơn.”
Patrik làm như cô bảo, anh ném cái nhìn thê lương vào chai rượu mạch nha hảo hạng đang vơi đi nhanh chóng. Nếu họ hàng của Erica ở lại thêm một vài ngày nữa thôi, nguồn rượu whisky của anh sẽ không bao giờ còn được như trước nữa.