MÙA HÈ NĂM 1979
Có cảm giác như vài tháng đã trôi qua. Nhưng cô biết rằng không thể nào lâu như vậy được. Và mỗi giờ trong bóng tối ở dưới này cũng dài như cả một đời.
Có quá nhiều thời gian để suy nghĩ. Có quá nhiều thời gian để cảm thấy cơn đau đang xoắn lấy từng dây thần kinh. Thời gian để suy nghĩ về mọi thứ cô đã mất. Hoặc sẽ mất.
Giờ thì cô biết mình sẽ không bao giờ ra khỏi đây được. Không ai có thể thoát khỏi nỗi đau đớn như thế này. Và cô chưa bao giờ cảm thấy bàn tay nào mềm mại hơn bàn tay hắn. Chưa bao giờ có bàn tay nào vuốt ve cô với tình yêu thương như thế, và nó khiến cô thèm khát được đụng chạm nhiều hơn. Không phải kiểu đụng chạm ghê sợ hay đau đớn, mà là những tiếp xúc êm dịu sau đó. Nếu có từng được vuốt ve như vậy trước đây, thì cô cũng biết rằng mọi thứ giờ đây đã khác. Cảm giác khi hắn lướt bàn tay trên cơ thể cô thật thuần khiết, thật ngây thơ, nó đã đến được cái cốt lõi bên trong cô mà chưa ai trước đây có thể chạm tới.
Trong bóng tối, hắn đã trở thành tất cả của cô. Hắn không nói một lời, nhưng cô tưởng tượng giọng hắn nghe ra sao. Giống như một người bố, thật ấm áp. Nhưng khi cơn đau đến thì cô căm ghét hắn. Rồi cô muốn giết hắn. Giá như cô có thể.
Robert tìm thấy thằng em trong nhà kho. Chúng vốn hiểu nhau rất rõ, và hắn biết Stefan đi đâu mỗi khi thằng em lo lắng điều gì đó. Thấy không có ai ở nhà, hắn liền đi thẳng đến nhà kho, và ngay lập tức thấy thằng em ở đó, đang ngồi trên sàn, đầu gối co lên và hai tay ôm chặt lấy chân.
Hai người khác nhau đến nỗi Robert thấy khó mà tin rằng chúng là anh em. Bản thân hắn tự hào rằng mình không bao giờ dành lấy một phút trong đời để cân nhắc điều gì hay đắn đo đến hậu quả. Hắn chỉ làm vậy thôi, rồi để mọi sự ra sao thì ra. Cứ sống lâu đi rồi sẽ thấy – đó là phương châm của hắn, và hắn thấy không có lý do gì để lo lắng những điều mình không thể kiểm soát được. Cuộc sống xô đẩy người ta cách này hay cách khác, đơn giản đời là thế đấy.
Mặt khác thì Stefan lại lo nghĩ quá nhiều về tính thiện của chính nó. Trong thoáng chốc Robert cảm thấy nỗi hối tiếc nhói lên bởi thằng em trai đã chọn đi theo bước chân lệch lạc của hắn, nhưng có lẽ vậy là tốt nhất. Nếu không Stefan sẽ cảm thấy chán nản. Chúng là con trai của Johannes Hult, và dường như có một lời nguyền đã đặt lên trên cả cái gia đình chết tiệt này. Không có cơ hội nào cho chúng thành công dù chúng toan làm gì đi nữa, vậy tại sao còn phải cố?
Hắn sẽ không bao giờ thừa nhận điều này, dẫu có bị tra tấn, nhưng hắn yêu em trai mình hơn mọi thứ trên đời. Hắn đau đớn khi nhìn thấy bóng Stefan trong nhà kho tối tăm. Suy nghĩ của thằng em trai dường như quá xa xôi, và đôi khi Robert thoáng thấy ở gã vẻ buồn rầu. Một đám mây u sầu dường như đang che phủ tâm hồn Stefan, đẩy gã vào một chốn tối tăm, xấu xa đến nhiều tuần lễ. Robert đã không nhìn thấy chút dấu hiệu nào của nó trong suốt cả mùa hè, nhưng giờ hắn cảm thấy sự hiện diện của nó ngay khi bước qua cánh cửa.
“Stefan?”
Không có tiếng trả lời. Robert lặng lẽ bước sâu vào bóng tối. Hắn ngồi xuống bên cạnh và đặt tay lên vai em trai.
“Stefan, mày lại ngồi ở đây đấy à?”
Thằng em trai chỉ gật đầu. Khi Stefan quay mặt lại, Robert ngạc nhiên thấy thằng em mình đã khóc sưng cả mắt. Stefan không thường như vậy. Đột nhiên Robert cảm thấy bất an.
“Cái gì thế, Stefan? Có chuyện gì?”
“Bố.”
Phần còn lại của câu nói chìm trong tiếng nức nở, và Robert căng tai ra để nghe xem thằng em nói gì.
“Mày đang nói gì về bố thế hả, Stefan?”
Stefan hít thở sâu vài hơi để bình tĩnh lại rồi nói, “Giờ thì mọi người sẽ nhận ra là bố vô tội. Rằng bố không khiến cho mấy đứa con gái mất tích. Anh thấy không? Cuối cùng người ta sẽ biết rằng đó không phải là bố!”
“Mày đang nói sảng về cái gì thế?” Robert lắc lắc thằng em, nhưng cũng có thể cảm thấy trái tim mình vừa hụt mất một nhịp.
“Mẹ vào trong thị trấn và nghe nói rằng họ vừa tìm thấy một con bé bị giết, và cùng với nó thì họ cũng tìm thấy cả mấy đứa con gái đã mất tích kia. Anh thấy không? Giờ lại có một con bé bị giết. Vậy nên không ai có thể khẳng định rằng bố đã làm chuyện đó, phải không?”
Stefan cười phá lên. Gã có vẻ hơi kích động. Robert vẫn không hoàn toàn tiếp thu được những gì thằng em vừa nói. Kể từ khi tìm thấy bố mình trên sàn nhà kho với một cái thòng lọng tròng quanh cổ, hắn đã ước ao và mơ tưởng được nghe những lời mà Stefan vừa mới thốt ra.
“Mày không giỡn tao đấy chứ? Giỡn là ăn đủ đấy.”
Robert đã siết chặt nắm đấm, nhưng Stefan cứ cười như điên dại, và nước mắt chảy dài trên mặt gã. Robert giờ đã hiểu đó là những giọt nước mắt vui mừng. Stefan quay sang và ôm ghì lấy thằng anh đến mức hắn gần như không thở nổi. Khi Robert nhận ra rằng em trai mình nói thật, hắn cũng ôm thằng em thật chặt.
Cuối cùng bố họ cũng được minh oan. Cuối cùng thì họ, và cả mẹ họ nữa, cũng có thể ngẩng cao đầu mà không phải nghe những lời xì xào sau lưng và không phải thấy những ngón tay chỉ trỏ vào bọn họ khi người ta tưởng rằng họ không nhìn. Bây giờ tất cả những kẻ đó sẽ phải hối hận vì mọi thứ, bọn ngồi lê đôi mách đáng nguyền rủa. Suốt hai mươi tư năm qua thị trấn đã không tin gia đình họ, nhưng bây giờ tất cả sẽ phải cảm thấy xấu hổ.
“Mẹ đâu?”
Robert buông thằng em ra và nhìn dò hỏi. Stefan bắt đầu cười khùng khục không nén được. Gã vừa cười vừa lúng búng nói gì đó.
“Mày nói gì? Nín đi mà nói to lên nào. Tao hỏi mày là mẹ ở đâu.”
“Mẹ ở chỗ bác Gabriel.”
Mặt Robert sầm lại. “Mẹ làm cái quái gì ở chỗ thằng già khốn nạn đấy chứ?”
“Nói cho lão nghe sự thật, em nghĩ thế. Em chưa bao giờ thấy mẹ điên lên như khi mẹ về kể cho em những gì mẹ vừa nghe. Mẹ đã đi ngay đến trang trại để nói cho Gabriel một trận. Chắc lão cũng được một trận nhớ đời. Anh phải nhìn thấy mẹ cơ. Tóc dựng đứng lên và khói xì ra đằng tai.”
Hình ảnh mẹ họ với mái tóc dựng đứng và khói bốc ra từ hai tai cũng khiến cho Robert phải cười thầm. Hắn vẫn nhớ về bà như một cái bóng lóng ngóng, lầm bầm, nên thật khó để tưởng tượng bà như một nộ thần.
“Em thích được nhìn thấy vẻ mặt Gabriel khi mẹ xông vào. Và anh có thể tưởng tượng ra bác Laine không?”
Stefan bắt chước một cách chính xác vẻ lo lắng của bà ta khi bà ta vặn vẹo hai tay. Gã nói hùng hồn bằng cái giọng chói tai, “Nhưng thím Solveig, thiệt tình! Thím Solveig thân mến, thím không nên ăn nói như vậy!”
Cả hai anh em bò lăn ra cười.
“Anh có bao giờ nghĩ về bố không?” Stefan hỏi. Câu hỏi của gã khiến cả hai nghiêm túc trở lại, và Robert im lặng một lúc mới trả lời.
“Có, tất nhiên là có chứ. Mặc dù tao đã có một thời gian khổ sở cố nghĩ đến bất cứ điều gì khác trừ cái cảnh bố chết. Mày nên lấy làm mừng vì đã không phải nhìn thấy bố khi ấy. Còn mày thì thế nào, mày nghĩ sao về bố?”
“Lúc nào em cũng nghĩ đến bố hết. Nhưng có cảm giác đang xem một bộ phim ấy, anh hiểu ý em chứ. Em nhớ rằng bố đã luôn vui vẻ thế nào và bố hay đùa giỡn, nhảy múa, rồi tung em lên nữa. Nhưng em thấy tất cả mọi thứ từ một khoảng cách, giống như trong một bộ phim.”
“Tao hiểu ý mày.”
Họ nằm bên nhau nhìn chằm chằm lên trần trong khi mưa gõ liên hồi xuống mái tôn phía trên.
Stefan lặng lẽ nói, “Bố yêu chúng mình, phải không, Robert?” Robert cũng trả lời lặng lẽ như thế, “Chắc chắn rồi, Stefan, chắc chắn rồi.”
Nghe tiếng Patrik giũ ô trên bậc thềm, Erica bèn nhấc mình khỏi xô-pha ra đón anh ở cửa.
“Chào em?” anh ngạc nhiên vừa nói vừa nhìn xung quanh. Rõ ràng anh không hề ngờ mọi thứ lại yên tĩnh và im ắng thế này. Lẽ ra cô phải có chút khó chịu với anh vì anh đã không gọi cho cô cả ngày, nhưng cô quá vui mừng khi thấy anh về nhà nên chẳng bực bội gì nữa. Cô cũng biết rằng chỉ cần gọi một cuộc điện thoại là anh sẽ về, và cô chắc chắn anh đã nghĩ về cô cả nghìn lần mỗi ngày. Cô thấy cực kỳ yên tâm khi nghĩ về mối quan hệ của họ. Nó thật là dễ chịu.
“Conny và lũ cướp đâu rồi?” anh thì thầm, vẫn không chắc liệu họ đã đi hay chưa.
“Em đổ một bát mì ống và xúc xích lên đầu Britta, nên họ không muốn ở lại đây nữa. Khách khứa vô ơn thế đấy.”
Erica thấy khoái trá trước vẻ sửng sốt của Patrik.
“Em chỉ nổi nóng thôi mà. Anh phải đặt giới hạn ở đâu đó chứ. Có vẻ như chúng mình sẽ chẳng nhận được bất kỳ lời mời nào từ nhà ngoại cho đến thế kỷ sau, nhưng em không có gì phải hối hận cả. Còn anh?”
“Chúa ơi, không.” Anh đảo mắt. “Em thực sự làm vậy hả? Đổ một đĩa thức ăn lên đầu chị ta?”
“Thề có Chúa. Tất cả những gì em được dạy dỗ đã đi thẳng ra ngoài cửa sổ. Có lẽ em sẽ chẳng bao giờ được lên thiên đàng.”
“Ừm, em đã là thiên đàng rồi, nên em không cần phải…”
Anh cắn nhẹ vào cổ cô, đúng chỗ anh biết cô có máu buồn. Cô cười phá lên, đẩy anh ra.
“Anh sẽ tự pha cho mình một tách sô-cô-la nóng, rồi em phải kể anh nghe hết về Đại Chiến.” Patrik cầm tay dẫn cô vào bếp, giúp cô ngồi xuống ghế.
“Anh trông mệt mỏi quá,” cô nói. “Mọi chuyện sao rồi?”
Anh thở dài khi đổ một ít bột sô-cô-la vào xoong sữa.
“Ừ, vụ án đã rất ổn, nhưng giờ thì không thể nữa. May mà bên pháp y đã xong hiện trường vụ án trước khi trở trời. Nếu bọn anh phát hiện các thi thể vào hôm nay chứ không phải hôm kia, thì sẽ chẳng còn gì để mà tìm kiếm nữa. Mà cảm ơn thông tin em đã tìm cho anh nhé. Nó thực sự hữu ích.”
Anh ngồi xuống đối diện với cô trong khi chờ sô-cô-la nóng lên.
“Còn em sao rồi, em có khỏe không? Con ổn chứ?”
“Hai mẹ con đều khỏe. Ngôi sao bóng đá tí hơn của nhà mình vẫn tung hoành như thường, nhưng em đã có một ngày dễ chịu sau khi Conny và Britta rời đi. Đó là những gì em cần. Cuối cùng em cũng có thể thư giãn và đọc sách một lúc. Thế là từ nay chấm dứt những chuyến thăm của đám họ hàng rồ dại.”
“Tuyệt quá. Vậy anh không phải lo cho hai mẹ con nữa chứ?”
“Không, không phải lo tí nào hết.”
“Em có muốn anh ở nhà ngày mai không? Anh có thể làm chút việc ở nhà mà – ít nhất thì anh cũng được gần em.”
“Nghe yêu thế, nhưng thực sự thì em vẫn đang rất ổn mà. Em nghĩ điều quan trọng hơn là anh nên tập trung vào việc tìm kiếm kẻ sát nhân trước khi các dấu vết nguội đi. Chẳng mấy rồi em cũng sẽ yêu cầu anh phải có mặt bên em thôi.” Cô mỉm cười và vỗ vỗ nhẹ lên tay anh. Rồi cô tiếp tục, “Mà này, cũng bắt đầu có mầm mống bạo loạn rồi đấy. Hôm nay em đã nhận được vài cuộc gọi từ những người đang cố dò hỏi em xem cảnh sát đã biết được bao nhiêu. Đương nhiên em sẽ không nói gì, kể cả có biết đi chăng nữa, mà em thì có biết gì đâu.” Cô dừng lại lấy hơi. “Và các văn phòng du lịch không phải là nơi duy nhất bị người ta báo hủy vì không dám đi nữa. Nhiều tàu thuyền cũng đến đậu tại các cảng khác. Nên nếu anh chưa nghe ngành du lịch địa phương kêu ca gì, thì giờ anh chuẩn bị trước đi là vừa.”
Patrik gật đầu. Anh đã sợ rằng điều này sẽ xảy ra. Tình trạng kích động sẽ lan rộng và trở nên xấu đi cho đến khi họ bắt được kẻ nào đó để tống vào tù. Đối với một thị trấn sống bằng thương mại du lịch như Fjällbacka, những vụ giết người có nghĩa là thảm họa. Anh nhớ lại một mùa hè của vài năm trước, khi có một kẻ gây ra bốn vụ hiếp dâm trong tháng Bảy trước khi bị bắt. Công việc kinh doanh trong thị trấn bị thua lỗ, vì du khách bỏ đi nơi khác, đến các vùng lân cận như Grebbestad và Strömstad. Một vụ giết người sẽ tạo ra một tình thế còn tệ hại hơn. May mà xử lý chuyện ấy là việc của trưởng đồn. Anh thấy vui khi để cho Mellberg đối phó với những vấn đề này.
Patrik xoa xoa sống mũi. Anh có thể cảm thấy cơn đau đầu sắp tới. Anh định uống một viên thuốc giảm đau thì chợt nhớ ra mình chưa ăn gì cả ngày nay. Thức ăn là một trong những đặc ân mà anh cho phép mình được hưởng trong đời, và phần eo bắt đầu phình ra chứng minh cho điều này. Anh không thể nhớ lần cuối cùng anh bỏ vài bữa là khi nào, hay thậm chí là chỉ một bữa. Anh đã quá mệt để nấu ăn. Thay vào đó, anh làm vài cái bánh mì kẹp pho mát và trứng cá muối, nhúng vào sô-cô-la nóng. Như thường lệ Erica ném cho anh cái nhìn hơi chán ghét khi thấy sự kết hợp ẩm thực gớm guốc này, nhưng đối với Patrik thì nó đúng là cao lương mỹ vị. Sau khi ăn xong ba cái bánh mì, cơn đau đầu của anh chỉ còn là ký ức, và anh cảm thấy một luồng năng lượng mới.
“Em yêu, sao cuối tuần này mình không mời Dan và bạn gái anh ta nhỉ?” anh nói với Erica. “Mình có thể làm một tiệc nướng nho nhỏ.”
Erica cau mày và trông có vẻ không hứng thú.
“Nghe này, em chưa thực sự cho Maria cơ hội nào. Em đã gặp cô ấy mấy lần rồi nhỉ? Hai lần?”
“Được rồi, được rồi, em biết rồi. Nhưng mà cô ta đúng là chỉ như…” Cô lựa lấy một từ chính xác. “Một đứa con gái hai mươi mốt tuổi.”
“Ừ, cô ấy không thể khác được. Anh đồng ý là cô ấy có vẻ không hiểu sự đời, nhưng ai biết được, có thể là cô ấy chỉ nhút nhát vậy thôi? Và cũng đáng để nỗ lực vì Dan, ít nhất là thế. Ý anh là, xét cho cùng thì anh ta đã chọn cô ấy. Và sau khi ly hôn Pemilla thì thật tốt khi anh ta gặp được một người mới.”
“Thật ngạc nhiên, gần đây anh lại trở nên bao dung đến vậy đấy,” Erica ủ rũ nói, dù cô phải thừa nhận rằng anh đã ghi được một điểm. “Sao anh lại cao thượng thế?”
“Anh luôn cao thượng với những cô gái hai mươi mốt tuổi. Họ có những phẩm chất thật tốt đẹp.”
“Ơ, thế cơ à, tốt đẹp kiểu gì cơ?” Erica bật lại rồi mới nhận ra răng Patrik trêu mình. “À, đừng bận tâm. Có lẽ anh đúng. Dĩ nhiên mình nên mời Dan và cục cưng bé nhỏ của anh ta tới chơi.”
“Nghe em nói kìa.”
“Được rồi, được rồi, Dan và Maria. Em chắc là sẽ vui vẻ lắm đây. Em có thể lấy ngôi nhà búp bê cũ của Emma ra cho cô ta chơi trong lúc chúng mình ăn tối như người lớn.”
“Erica…”
“Được rồi, em không nói nữa. Chỉ là khó nhịn quá thôi. Cứ như có tật ấy.”
“Gái lứa mất nết. Lại đây để anh ôm nào, thay vì ngồi đó mà ủ mưu.”
Cô làm theo lời anh và họ cuộn tròn bên nhau trên xô-pha. Với Patrik, anh hoàn toàn có thể đối mặt với mặt tối của loài người là bởi anh đã đụng phải nó trong công việc. Anh nghĩ mình có thể góp một phần nhỏ để đảm bảo thế giới trở thành nơi an toàn hơn cho đứa bé giờ đang ấn bàn chân vào lòng bàn tay anh bên dưới lớp da bụng căng tròn của Erica. Bên ngoài cửa sổ, gió đã lặng, hoàng hôn buông xuống, và bầu trời chuyển màu từ xám sang hồng rực. Anh đoán rằng ngày mai trời sẽ nắng.
Linh cảm trời nắng của Patrik hóa ra lại đúng. Ngày hôm sau trời cứ như chưa mưa bao giờ vậy. Đến trưa, nhựa đường lại bốc hơi. Dù đã mặc quần soóc và áo phông, Martin vẫn đổ mồ hôi, nhưng vậy mới bắt đầu có cảm giác giống trạng thái bình thường. Trời mát mẻ hôm qua chỉ là một giấc mơ.
Martin thấy có chút bối rối về cách thức tiến hành công việc của mình. Patrik đang ở trong văn phòng của Mellberg, nên Martin vẫn chưa có cơ hội để trao đổi với anh. Martin có một vấn đề với những thông tin từ nước Đức. Cảnh sát Đức có thể gọi lại cho anh bất cứ lúc nào, và anh sợ rằng sẽ bỏ lỡ bất cứ điều gì họ nói, vì vốn tiếng Đức kém cỏi của mình. Vậy tốt nhất là nên tìm ai đó có thể giúp anh phiên dịch, trong một cuộc điện đàm ba chiều. Nhưng có ai để mà nhờ đây? Những phiên dịch viên Martin đã làm việc cùng trước đây chủ yếu nói những ngôn ngữ Baltic, tiếng Nga và Ba Lan, vì xe ăn cắp thường biến mất đến các nước ấy. Anh chưa bao giờ cần sự giúp đỡ về tiếng Đức trước đây. Anh lấy ra cuốn danh bạ điện thoại và lật giở ngẫu nhiên, không chắc mình đang tìm gì. Một tiêu đề đã cho anh ý tưởng sáng chói. Xét đến số lượng du khách Đức đổ về Fjällbacka hằng năm, các văn phòng du lịch Fjällbacka phải có người trong đội ngũ nhân viên thạo ngôn ngữ này. Anh hăm hở quay số của họ.
Một giọng nữ vui tươi, hoạt bát trả lời điện thoại. “Vàn phòng Du lịch Fjällbacka, chào buổi sáng, tôi là Pia.”
“Xin chào, tôi là Martin Molin ở đồn cảnh sát Tanumshede. Tôi muốn hỏi liệu ở chỗ cô có ai thạo tiếng Đức không?”
“Vâng, chắc là tôi rồi. Có chuyện gì vậy?”
Giọng cô càng lúc nghe càng lôi cuốn hơn, và Martin có một ý tưởng tuyệt vời.
“Tôi có thể đi xuống đó và trao đổi với cô được không? Cô có thời gian chứ?”
“Tất nhiên là được. Nửa giờ nữa tôi sẽ đi ăn trưa. Nếu anh có thể có mặt ở đây vào lúc đó, có lẽ chúng ta có thể gặp nhau và ăn trưa ở quán cà phê Bryggan.”
“Nghe được đấy. Tôi sẽ gặp cô ở đó trong vòng nửa giờ nữa.”
Hồ hởi, Martin gác điện thoại. Anh không chắc cơn ngu xuẩn nào vừa ập đến với anh, nhưng mà cô ấy có giọng nói dễ chịu quá thể.
Nửa giờ sau anh đậu xe bên ngoài cửa hàng đồ gia dụng và đi ngang quảng trường Ingrid Bergman qua những du khách mùa hè. Anh bắt đầu thấy chùn bước. Đây không phải là hẹn hò, đây là công việc của cảnh sát, anh tự nhắc nhở mình. Nhưng anh không thể phủ nhận rằng anh sẽ cực kỳ thất vọng nếu nhỡ đâu Pia tại phòng du lịch lại có răng thỏ và nặng một trăm cân.
Anh đi dọc theo cầu cảng đến chỗ những bàn cà phê và nhìn xung quanh. Tại một bàn gần hàng rào có một phụ nữ trẻ mặc áo blouse xanh và quàng chiếc khăn sặc sỡ với biểu tượng của văn phòng du lịch đang vẫy tay với anh. Anh thở phào nhẹ nhõm, ngay sau đó là cảm giác hân hoan rằng mình đã đoán đúng. Pia ngọt ngào như một miếng sô-cô-la. Đôi mắt nâu to tròn và mái tóc xoăn sẫm màu. Nụ cười tươi với hàm răng sáng bóng và lúm đồng tiền duyên dáng. Đây sẽ là một bữa trưa dễ chịu hơn nhiều so với việc ngồi xúc xa lát mì ống lạnh ngắt với Hedström trong phòng ăn tại đồn cảnh sát. Không phải là anh không thích Hedström, nhưng đồng nghiệp của anh chắc chắn không thể sánh được với trái đào này!
“Chào cô, tôi là Martin Molin.”
“Tôi là Pia Lofstedt.”
Sau khi giới thiệu xong, họ gọi món xúp cá từ cô phục vụ bàn tóc vàng cao ráo.
“Chúng ta gặp may đấy,” Pia nói. “Tuần này có ‘Cá Trích’.” Cô có thể thấy rằng Martin không hiểu cô đang nói về cái gì.
“Christian Hellberg. Đầu Bếp Của Năm hồi 2001. Ông ấy đến Fjällbacka. Anh sẽ thấy khi anh nếm thử xúp cá. Tuyệt cứ mèo.”
Cô có điệu bộ hăm hở trong khi nói, và Martin nhận thấy mình đang nhìn chằm chằm vào cô đầy say mê. Pia hoàn toàn không giống như các cô gái anh thường gặp, và đó là lý do tại sao anh cảm thấy vui đến vậy khi được ngồi đối diện với cô. Anh lại phải tự nhắc nhở mình rằng đây không phải là hẹn hò – đây là một bữa ăn trưa bàn công chuyện, và anh thực sự có chuyện cần bàn bạc.
“Tôi phải thừa nhận rằng không phải ngày nào cảnh sát cũng gọi cho chúng tôi. Tôi cho rằng đây là vì thi thể các anh tìm thấy trong Khe Vua, phải không?”
Câu hỏi được đặt ra như trình bày một sự thực, không phải là cố ra vẻ giật gân, và Martin gật đầu xác nhận.
“Vâng, đúng vậy. Chắc cô đã nghe nói, nạn nhân là một du khách Đức, và chúng tôi có thể cần được giúp đỡ về mặt phiên dịch. Cô nghĩ rằng cô có thể xử lý được không?”
“Tôi đã học hai năm ở Đức, nên không thành vấn đề.”
Xúp của họ được mang ra, và chỉ sau một thìa Martin đã sẵn sàng đồng ý với lời bình tuyệt cứ mèo
của Pia. Anh cố hết sức để không húp sụp soạp, nhưng không nhịn được. Anh hy vọng rằng cô đã đọc Lại thằng nhóc Emit của Astrid Lindgren. Nếu không thế, thì làm sao người ta biết được đây là xúp ạ…
“Buồn cười thật…” Pia nói, rồi ngừng lại để ăn một thìa xúp. Một làn gió nhẹ thỉnh thoảng lướt qua bàn ăn, mang lại chút mát mẻ. Hai người xem con thuyền một cột buồm kiểu cũ đang phải vật lộn tiến lên với những cánh buồm đói gió. Gió không đủ mạnh để chơi thuyền, nên hầu hết các tàu thuyền đều đang chạy động cơ. Pia tiếp tục, “Cô gái người Đức đó… tên là Tanja, phải không nhỉ? Khoảng một tuần trước cô ấy đến văn phòng, muốn nhờ dịch mấy bài báo.”
Martin ngay lập tức chú ý. “Bài báo kiểu gì cơ?”
“Về những cô gái đã được tìm thấy với cô ấy. Những bài báo về sự mất tích của họ. Những bài báo cũ mà cô ấy đã photo, chắc là từ thư viện, tôi đoán vậy.”
Cái thìa kêu loảng xoảng khi anh đánh rơi nó vào bát bởi ngạc nhiên tột độ. “Tại sao cô ấy lại muốn nhờ đọc chúng?”
“Tôi thực sự không biết. Tôi cũng không hỏi cô ấy. Chúng tôi thực sự không phải làm những chuyện thế này trong giờ làm việc, nhưng đang lúc giữa trưa và tất cả các du khách đã ra bơi ở các đảo đá, nên yên tĩnh lắm. Mà hơn nữa, cô ấy có vẻ lo lắng đến nỗi tôi thấy thương.” Pia do dự. “Anh có nghĩ rằng nó có liên quan gì đến các vụ giết người không? Lẽ ra tôi nên gọi và nói cho anh về chuyện này từ trước mới phải…”
Cô có vẻ lo lắng, và Martin vội trấn an cô. Vì một vài lý do anh không muốn mạo hiểm gây ra cho Pia bất kỳ cảm giác khó chịu nào.
“Cô làm sao mà biết được rằng nó có quan trọng hay không,” anh nói. “Nhưng thật tốt là cô đã kể cho tôi nghe chuyện này.”
Họ ăn trưa và nói chuyện về những chủ đề dễ chịu hơn. Giờ ăn trưa của cô đã kết thúc quá sớm. Pia phải vội vàng quay lại quầy thông tin nhỏ xíu ở giữa quảng trường trước khi người đồng nghiệp của cô khó chịu vì bữa trưa của mình bị trì hoãn. Trước khi Martin kịp nhận ra thì cô đã biến mất, sau một lời tạm biệt quá vội vàng. Đã chực hỏi xem liệu họ có thể gặp lại nhau không, nhưng rồi anh lại không thể thốt ra được lời nào. Lẩm bẩm và chửi thề, anh bước đến bên chiếc xe của mình. Trên đường trở về Tanumshede suy nghĩ của anh mới miễn cưỡng quay sang những gì Pia đã nói với anh về việc Tanja nhờ giúp đỡ. Tại sao cô ấy quan tâm đến những cô gái kia? Cô ấy là ai? Mối liên hệ giữa Tanja, Siv và Mona là gì? Còn những gì mà anh chưa nhìn thấy nữa?
Cuộc sống tươi đẹp. Cuộc sống thật tươi đẹp. Anh không thể nhớ được rằng không khí sạch sẽ đến vậy, mùi hương thơm tho đến vậy hay là sắc màu lại tươi sáng đến vậy. Cuộc sống thật là tươi đẹp.
Mellberg nhìn Hedström đang ngồi đối diện mình. Một đồng nghiệp đẹp trai, và một cảnh sát tài năng. Trong những điều kiện trước đây thì có thể anh ta chưa bộc lộ được mình, nhưng giờ anh ta sắp có cơ hội rồi. Điều quan trọng là các đồng nghiệp của ông cảm thấy được đánh giá cao. Ông đã đọc ở đâu đó rằng một chỉ huy tốt nên vừa đấm vừa xoa. Trước đây có thể ông đấm hơi phóng tay. Rõ ràng là giờ ông mới phát hiện ra điều này, và ông dự định phải khắc phục tình hình.
“Việc điều tra thế nào rồi?” ông ta hỏi.
Hedström kể ra các điểm chính trong công việc mà họ đã làm được.
“Tuyệt vời, tuyệt vời,” Mellberg nói, gật đầu vui vẻ. “Hôm nay tôi đã nhận được vài cuộc gọi khó chịu. Người ta đang rất lo lắng, vụ này phải được giải quyết nhanh chóng để không tác động lâu dài lên ngành du lịch, như có người đã diễn tả rất khéo léo. Nhưng anh không cần phải lo lắng về chuyện đó, Hedström. Tôi lấy tư cách cá nhân đảm bảo với người ta rằng những cảnh sát ưu tú nhất của Sở đang làm việc ngày đêm để đưa thủ phạm vào sau song sắt. Nên anh chỉ cần tiếp tục làm việc hăng say như thường lệ còn tôi sẽ lo chăm sóc các vị tai to mặt lớn của thị trấn.”
Hedström nhìn ông sếp vẻ không hiểu.
Mellberg nhìn chằm chằm người đồng nghiệp và nở nụ cười tươi. Nếu Hedström biết được…
Cuộc trao đổi với Mellberg kéo dài hơn một giờ. Patrik tìm Martin trên đường trở về văn phòng của mình, nhưng Martin có vẻ không ở quanh đây. Nên Patrik đến cửa hàng Hedemyr và mua một chiếc bánh mì kẹp gói trong túi nhựa, rồi anh ngấu nghiến hết với một tách cà phê trong phòng ăn trưa. Ngay khi vừa ăn xong thì anh nghe thấy Martin đi ngoài hành lang. Anh ra hiệu cho Martin vào văn phòng mình.
Patrik bắt đầu nói, “Anh có nhận thấy Mellberg gần đây có gì đó buồn cười không?”
“Ngoại trừ việc ông ta không phàn nàn hay chỉ trích nữa, cười suốt ngày, giảm cân nhiều và mặc quần áo trông như thể thời trang của thập niên chín mươi? Thì không có gì cả.” Martin mỉm cười.
“Có gì đó đáng ngờ đây. Không phải là tôi đang phàn nàn đâu. Ông ta không can thiệp vào việc điều tra, và hôm nay ông ta khen tôi nhiều đến nỗi tôi phát ngượng. Nhưng có điều gì đó…” Patrik lắc đầu. Nhưng suy đoán của họ về Bertil Mellberg mới này sẽ phải để lại – có nhiều vấn đề cấp bách hơn cần thảo luận. Có những điều chỉ nên tận hưởng chứ chẳng cần đặt câu hỏi làm gì-
Martin kể cho anh về chuyến đi công cốc đến khu cắm trại và việc họ đã không có thêm điều gì hữu ích từ Liese. Rồi anh báo cáo về những gì Pia nói về Tanja, rằng cô ấy đã đến nhờ dịch một số bài báo về Mona và Siv. Tới đó Patrik lập tức tỏ ra phấn khởi.
“Tôi đã biết là phải có sự liên quan mà! Nhưng liên quan thế nào mới được?” anh nói, gãi gãi đầu.
“Thế hôm qua bố mẹ các cô gái đã cho anh biết gì?”
Patrik đã đặt hai tấm ảnh nhận được từ Albert và Gun lên bàn làm việc. Anh nhặt chúng lên và đưa cho Martin. Anh mô tả những cuộc gặp gỡ với bố của Mona và mẹ của Siv, không thể che giấu nỗi chán ghét của mình dành cho bà mẹ.
“Tuy nhiên, chắc hẳn là họ cũng nhẹ nhõm khi nghe tin các cô gái cuối cùng đã được tìm thấy. Thật là cực hình khi hết năm này qua năm khác mà không biết họ đang ở đâu. Người ta nói rằng những điều không chắc chắn là những điều tồi tệ nhất.”
“Ừ, giờ tôi hy vọng rằng Pedersen xác nhận rằng bộ xương thứ hai là Siv Lantin, nếu không thì chúng ta sẽ thực sự gặp khó khăn to đấy.”
‘Đúng vậy, nhưng nhiều khả năng rằng đó là xương của cô ấy. Vẫn chưa có kết quả phân tích đất được tìm thấy trên xương à?”
“Tiếc là chưa. Và tôi không rõ kết quả có cho chúng ta biết được thêm bao nhiêu không. Họ có thể đã bị chôn ở bất kỳ đâu. Kể cả chúng ta có xác định được loại đất, thì vẫn cứ như đang mò kim đáy bể.”
“Tôi trông mong nhất vào kết quả DNA. Ngay sau khi chúng ta có được nghi phạm nào, chúng ta sẽ biết ngay rằng có đúng người không bằng cách phân tích DNA của hắn và so sánh với những gì chúng ta có.”
“Chắc rồi, tất cả những gì chúng ta cần làm bây giờ là tìm ra được đúng người.”
Họ im lặng một lúc nghĩ về vụ án, cho đến khi Martin phá tan bầu không khí ảm đạm và đứng dậy.
“Ừm, chúng ta sẽ chẳng làm được gì cả nếu cứ ngồi đây thế này. Tốt hơn là tôi lại ra chỗ mỏ muối đây.”
Anh bỏ lại Patrik trầm tư bên bàn làm việc.
Tâm trạng trong bữa ăn tối rất căng thẳng. Cũng không có gì bất thường, từ hồi Linda chuyển đến, nhưng bây giờ không khí đặc sánh đến mức có thể cắt bằng dao. Anh trai cô vừa mới kể một cách ngắn gọn hết sức về chuyến thăm của Solveig với bố cô, nhưng anh ta không đặc biệt quan tâm đến việc thảo luận chủ đề này.
Linda không có ý định để điều đó ngăn cô lại. “Vậy cuối cùng thì không phải là chú Johannes đã giết các cô gái ấy. Chắc bố phải cảm thấy khủng khiếp lắm. Bố đã buộc tội em trai mình, mà chú ấy sau này lại hóa ra là vô tội.”
“Câm mồm – mày thì biết quái gì mà nói.”
Mọi người đều giật mình. Jacob hiếm khi, nếu không phải là không bao giờ, lên giọng. Ngay cả Linda cũng cảm thấy có chút sợ hãi trong một thoáng, nhưng cô nuốt nước bọt và tiếp tục. “Vậy tại sao bố lại nghĩ rằng đó là chú Johannes? Chưa có ai kể cho em nghe cả.”
Jacob do dự một lúc nhưng rồi nhận ra rằng sẽ không thể ngăn cô hỏi, nên anh quyết định kể cho cô – ít nhất là một phần câu chuyện.
“Bố nhìn thấy một trong số các cô gái kia ở trong xe của chú Johannes vào đêm cô ta biến mất.”
“Tại sao bố lại lái xe ra ngoài lúc nửa đêm?”
“Bố đã đến thăm anh ở bệnh viện và quyết định lái xe về nhà thay vì ở lại qua đêm.”
“Chỉ có vậy thôi à? Đó là lý do bố đã tố cáo chú Johannes với cảnh sát? Ý em là, phải có nhiều cách giải thích khác cho một sự việc như thế. Có lẽ chú ấy đã cho cô ta đi nhờ một đoạn đường.”
“Có thể. Mặc dù chú Johannes khai rằng mình thậm chí còn không hề gặp cô ta đêm đó. Chú ấy tuyên bố rằng mình đã ở nhà, nằm trên giường vào cái giờ đó.”
“Nhưng ông nội đã nói gì? Chẳng phải ông đã rất tức giận khi bố báo cảnh sát về chú Johannes?”
Linda đã hoàn toàn bị câu chuyện mê hoặc. Cô được sinh ra sau khi các cô gái đã mất tích và chưa bao giờ nghe ra đầu ra đuôi câu chuyện. Không ai muốn nói về những chuyện đã xảy ra, nên hầu hết những gì bây giờ Jacob đang kể đều hoàn toàn mới mẻ đối với cô.
Jacob khịt mũi. “Ông có tức giận không ấy à? Em nên tin là thế. Vào lúc đó thì ông đang ở bệnh viện, dốc hết sức lực để cứu lấy mạng sống của anh, nên ông rất giận bố khi bố lại có thể làm nên một chuyện như thế.”
Bọn trẻ đã bị đuổi ra khỏi phòng. Nếu không thì mắt chúng sẽ sáng lên khi nghe nói cụ của chúng đã cứu mạng bố chúng như thế nào. Chúng đã nghe chuyện này nhiều, rất nhiều lần mà vẫn không thấy chán.
Jacob nói tiếp, “Ông đã tức giận đến mức ông thậm chí còn định thay đổi di chúc của mình và cho chú Johannes là người thừa kế duy nhất, nhưng không kịp làm thì chú Johannes chết. Nếu chú ấy không chết, chúng ta có thể mới là những người phải sống trong căn lều gác rừng, thay vì thím Solveig và mấy thằng nhóc kia.”
“Nhưng tại sao mà bố lại nghĩ xấu về chú Johannes đến thế?”
“Hừm, anh thực sự không biết. Bố chưa bao giờ nói nhiều về đề tài này, nhưng ông nội đã kể cho bọn anh nghe rất nhiều chuyện có thể giải thích được điều đó. Bà nội đã qua đời ngay khi chú Johannes được sinh ra, và sau đó họ đã ở cùng ông nội khi ông lái xe đi xuôi dọc khắp bờ biển phía Tây để giảng đạo và hành lễ. Ông nội kể cho anh nghe là ông đã biết từ lâu rằng cả chú Johannes và bố đều có năng lực chữa bệnh, vì vậy mỗi buổi hành lễ đều kết thúc bằng việc họ chữa lành cho những người tàn tật và đau ốm trong số khán giả.”
“Bố đã làm vậy á? Ý em là việc chữa bệnh cho mọi người ấy? Thế giờ bố còn làm được nữa không?”
Linda há hốc miệng kinh ngạc. Cánh cửa dẫn đến một căn phòng hoàn toàn mới trong lịch sử gia đình cô đã được mở rộng. Cô hầu như không dám thở vì sợ rằng Jacob sẽ im lặng và không kể thêm nữa. Cô đã nghe nói rằng anh và ông nội đã luôn có một mối thân tình đặc biệt, đặc biệt là sau khi tủy xương của ông nội hóa ra lại hoàn toàn phù hợp để ghép cho Jacob, khi ấy bị bệnh bạch cầu. Nhưng Linda không biết rằng ông nội đã kể cho anh ta nhiều đến thế. Tất nhiên, cô cũng nghe nói rằng ông nội đã được gọi là Nhà Thuyết Giáo
theo cách nói phổ biến. Cô cũng đã nghe xì xào rằng ông bằng cách nào đó đã lừa lấy được gia tài này, nhưng cô không bao giờ coi những câu chuyện về Ephraim là bất cứ điều gì khác ngoài những lời phóng đại. Linda còn quá nhỏ khi ông qua đời, dường như ông chỉ là một ông già nghiêm khắc trong những bức ảnh gia đình.
“Không, anh khó mà tin được rằng bố có thể.” Jacob mỉm cười trước ý nghĩ rằng bố mình lại là người chữa lành những kẻ ốm đau tàn tật. “Nhìn những mối quan tâm của bố thì có lẽ chưa từng xảy ra chuyện gì cả. Và theo ông nội thì cũng không hề bất thường nếu một người bị mất năng lực khi bắt đầu dậy thì. Sau này có thể lấy lại được khả năng ấy, nhưng không dễ dàng. Anh tin rằng cả bố Gabriel và chú Johannes đều đã mất nó khi họ đến tuổi trưởng thành. Anh nghĩ bố ghét chú Johannes vì họ quá khác nhau. Chú Johannes rất đẹp trai và có thể quyến rũ bất kỳ ai, nhưng chú ấy vô trách nhiệm trước mọi chuyện trên đời một cách không thể cứu chữa nổi. Cả chú ấy và bố đều nhận được một khoản tiền lớn khi ông nội còn sống, nhưng chỉ một năm sau chú Johannes đã tiêu pha hết sạch. Điều đó khiến ông nội tức giận, và ông đã thay đổi di chúc, để bố Gabriel là người thừa kế duy nhất thay vì chia đều tài sản thừa kế cho hai người. Nhưng như anh đã nói, nếu ông sống lâu hơn thì có thể ông lại đổi ý một lần nữa.”
“Nhưng phải có chuyện gì nữa chứ,” Linda nói. “Bố không thể ghét chú Johannes đến thế chỉ vì chú ấy đẹp trai hơn và quyến rũ hơn. Đó không phải là lý do để tố cáo em trai mình với cảnh sát, phải không?”
“Không, anh đoán giọt nước làm tràn ly là khi chú Johannes nẫng mất vợ chưa cưới của bố.”
“Cái gì? Bố định cưới Solveig á? Con bò cái béo núc đó?”
“Em chưa nhìn thấy những tấm ảnh chụp thím Solveig từ ngày xưa à? Thím ấy từng là một mỹ nhân thực sự, anh khẳng định với em, với lại thím ấy và bố đã đính hôn. Nhưng rồi một ngày, thím nói với bố rằng thím đã yêu chú Johannes và định cưới chú ấy. Anh nghĩ chuyện đó đã thực sự hủy hoại bố. Em biết bố ghét bất kỳ sự xáo trộn hay kịch tính nào trong cuộc sống của mình mà.”
“Ừ, chuyện đó hẳn phải làm bố điên đảo.”
Jacob đứng dậy khỏi bàn, như để báo hiệu rằng cuộc trò chuyện đã kết thúc. “Hừm, bí mật gia đình thế là đủ rồi. Nhưng vậy em cũng hiểu tại sao chuyện giữa bố và thím Solveig lại hơi căng thẳng rồi chứ.”
Linda cười khúc khích. “Em sẽ đổi bất cứ điều gì để được làm một con ruồi đậu trên tường vào lúc thím ấy xuất hiện để nhai đầu bố. Thật cứ như một gánh xiếc ấy.”
Ngay cả Jacob cũng thoáng mỉm cười. “Ừ, gọi là gánh xiếc có lẽ đúng đấy. Nhưng cố gắng mà kiềm chế sự hớn hở của em khi gặp bố, được không? Anh không nghĩ là bố thấy chuyện đó có gì buồn cười.”
“Được rồi, được rồi, em sẽ ngoan mà.”
Cô đặt đĩa của mình vào trong máy rửa bát, cảm ơn Marita vì bữa ăn, và đi lên phòng. Đây là lần đầu tiên sau một thời gian dài cô và Jacob cười đùa với nhau. Anh ta có thể thực sự dễ chịu nếu anh ta cố gắng, Linda nghĩ, khéo léo bỏ qua thực tế rằng trong những năm gần đây cô cũng chẳng hay cười.
Cô nhấc điện thoại lên và thử gọi cho Stefan. Cô ngạc nhiên nhận ra rằng cô thực sự quan tâm đến chuyện gã giờ đang cảm thấy thế nào.
Laine sợ bóng tối. Sợ chết khiếp. Dù đã trải qua bao nhiêu buổi tối ở trang trại mà không có Gabriel, bà vẫn không tài nào quen được. Trước đây, ít nhất thì bà còn có Linda ở nhà, và trước đó thì là Jacob, nhưng bây giờ bà hoàn toàn ở một mình, vẫn biết rằng Gabriel phải đi công tác rất nhiều, nhưng bà không thể không cảm thấy cay đắng. Đây không phải là cuộc sống mà bà đã từng mơ ước khi gả vào nhà giàu. Quan trọng không phải là tiền, mà chính cái cảm giác an toàn mới là thứ đã lôi cuốn bà. Cảm giác an toàn mà bà thấy trong bản chất dễ đoán của Gabriel và cảm giác an toàn khi bà biết rằng có tiền trong ngân hàng. Bà muốn sống một cuộc đời hoàn toàn khác với mẹ mình.
Khi còn bé, bà đã sống trong nỗi kinh hãi những cơn giận dữ vì say rượu của bố mình. Ông ta hành hạ cả gia đình và biến đàn con thành những kẻ luôn cảm thấy bất an, luôn khát khao tình yêu và sự dịu dàng. Trong số ba anh chị em, bà là người duy nhất còn sống. Anh trai và em gái của bà đã bị bóng tối bên trong khuất phục, một người thì nén nó lại, một người thì để lộ ra bên ngoài. Laine là người con thứ đã không làm cả hai việc đó. Bà chỉ bất an và yếu đuối mà thôi. Không đủ mạnh để đẩy nỗi bất an của mình vào bên trong hoặc ra bên ngoài – bà đành để mặc nó mưng mủ, từ năm này qua năm khác.
Điều này thể hiện rõ rệt nhất vào những buổi tối bà lang thang một mình qua những gian phòng yên tĩnh. Đó là khi bà nhớ lại rõ ràng hơi thở hôi hám, những trận đòn và những sờ mó lén lút mỗi đêm.
Khi kết hôn với Gabriel, bà đã thực sự tin rằng cuối cùng mình cũng tìm được chìa khóa để mở ra những nơi chốn tối tăm trong lòng. Nhưng bà không hề ngu ngốc. Bà biết mình chỉ là giải thưởng an ủi. Ông ổn định cuộc sống với bà là vì không thể có được người mà ông thực sự muốn. Nhưng cũng chẳng có gì khác biệt. Theo một cách nào đó thì vậy còn dễ dàng hơn. Không có cảm xúc nào có thể làm xáo động vẻ ngoài yên ả. Chỉ có sự nhàm chán dễ đoán của chuỗi ngày dài vô tận. Bà nghĩ rằng đó là tất cả những gì bà muốn.
Ba mươi lăm năm sau, bà biết rằng mình đã sai lầm đến thế nào. Không có gì tồi tệ hơn là kết hôn rồi mà vẫn còn cô độc. Đó là thú bà nhận được khi bà nói Tôi đồng ý
ở nhà thờ Fjällbacka. Họ đã sống những cuộc đời song song. Trông nom trang trại, nuôi dạy con cái, và nói chuyện về gió và thời tiết khi chẳng còn gì khác để nói.
Bà cũng tự biết rằng có một người đàn ông khác bên trong Gabriel, ngoài con người mà ông trưng ra với thế giới mỗi ngày. Trong suốt những năm qua, bà đã quan sát ông, bí mật nghiên cứu ông, và dần dần bà đã biết rằng ông có thể là người như thế nào. Bà kinh ngạc khi thấy những khát khao bắt đầu thức dậy trong lòng. Đằng sau vẻ bề ngoài nhàm chán, lãnh đạm kia là một người đàn ông đầy đam mê, nhưng ông ta đã được chôn sâu đến nỗi bà thậm chí không nghĩ rằng ông ta còn nhận ra mình đang tồn tại. Bà đã nhìn thấy rất nhiều tức giận tích tụ, nhưng vẫn tin rằng cũng có nhiều yêu thương như vậy, giá mà bà có khả năng để dỗ nó ra.
Ngay cả khi Jacob ốm liệt giường họ cũng không thể đến gần được với nhau. Họ đã ngồi bên nhau, cùng với đứa con trai, cho rằng Jacob đang hấp hối, và họ vẫn không thể nào cho nhau được một chút an ủi. Bà thường xuyên có cảm giác rằng thực ra Gabriel không muốn có bà ở đó.
Tính khó gần của Gabriel có thể phần lớn là do ông bố. Ephraim Hult là một người đàn ông có thể gây ấn tượng mạnh mẽ, khiến cho tất cả mọi người gặp ông đều phải gia nhập một trong hai phe: bạn hoặc thù. Không ai là không quan trọng đối với Nhà Thuyết Giáo, nhưng Laine hiểu rằng lớn lên dưới cái bóng của một người đàn ông như vậy thì khó khăn đến dường nào. Các con trai của ông thì khác hoàn toàn. Cả đời Johannes cứ như một thằng bé lớn xác, dù chỉ là một đời ngắn ngủi. Hắn là người tôn thờ chủ nghĩa khoái lạc, lấy hết những gì hắn muốn và không bao giờ ngừng lại đủ lâu để nhận thấy sự hỗn loạn do hắn gây ra. Gabriel đã chọn chiều ngược lại. Laine đã thấy ông xấu hổ vì bố và thằng em Johannes đến thế nào, vì điệu bộ khoa trương của họ, khả năng tỏa sáng như ngọn hải đăng ở bất kỳ hoàn cảnh nào. Gabriel muốn náu mình đi để cho thế giới thấy rằng ông ta không có điểm gì giống bố. Gabriel phấn đấu để đạt được sự nể trọng, trật tự và công bằng hơn bất kỳ điều gì khác. Ông không bao giờ nói chuyện về thời thơ ấu và những năm rong ruổi cùng Ephraim và Johannes. Mặc dù vậy Laine cũng biết một chút về nó, và bà hiểu tầm quan trọng của việc chồng bà cố gắng che giấu một phần trong quá khứ của mình, cái phần đối nghịch với hình ảnh mà ông muốn phô bày với thế giới bên ngoài. Sự thực là Ephraim cứu mạng Jacob đã làm dấy lên những cảm xúc lẫn lộn trong Gabriel. Niềm vui khi tìm ra cách để chữa bệnh cho Jacob đã bị lu mờ bởi thực tế rằng bố ông, chứ không phải ông, mới là hiệp sĩ mặc áo giáp sáng ngời đến giải nguy. Ông sẵn lòng đánh đổi bất kỳ thứ gì để có cơ hội được là người hùng của con trai mình.
Dòng suy tưởng của Laine bị gián đoạn bởi một âm thanh từ bên ngoài. Bà liếc thấy một cái bóng, rồi hai cái, nhanh chóng luồn qua khu vườn. Nỗi kinh hoàng lại thâu tóm lấy bà. Bà đi tìm cái điện thoại không dây và cố trấn tĩnh lại cho đến lúc rốt cuộc cũng thấy nó ở chỗ bộ sạc. Với những ngón tay run rẩy, bà bấm số điện thoại di động của Gabriel. Có gì đó đập vào cửa sổ và bà thét lên. Cửa sổ bị một tảng đá đập vỡ, bây giờ chỉ còn những mảnh vụn thủy tinh nằm rải rác trên sàn nhà. Một tảng đá khác bay qua cửa sổ bên cạnh. Với một tiếng nức nở, bà chạy ra khỏi cán phòng và lên lầu, rồi nhốt mình trong phòng tắm tuyệt vọng chờ được nghe giọng Gabriel. Thay vào đó bà chỉ nhận được giọng nói đơn điệu của hộp thư thoại, và bà nghe thấy nỗi sợ hãi trong giọng mình khi để lại một lời nhắn rời rạc cho ông.
Run rẩy, bà ngồi xuống sàn, hai tay ôm chặt đầu gối và nghe những tiếng động bên ngoài cửa. Không nghe thấy gì khác, nhưng bà không dám nhúc nhích một li.
Khi trời sáng, bà vẫn còn ngồi ở đó.
Tiếng chuông điện thoại đánh thức Erica. Cô liếc nhìn đồng hồ. Mười giờ rưỡi sáng. Cô hẳn đang ngủ lơ mơ sau khi dành đến nửa đêm qua để lăn lộn, toát mồ hôi và khó chịu.
“Chào.” Giọng cô nặng nề ngái ngủ.
“Chào Erica. Xin lỗi, em đánh thức chị à?”
“Ừ, nhưng không sao đâu, Anna. Dù sao thì chị cũng không nên nằm ườn đến nửa buổi sáng như thế này.”
“Nên chứ, chị cứ ngủ nhiều hết sức vào. Chẳng mấy mà giấc ngủ sẽ thành ra xa xỉ. Mà chị sao rồi?”
Erica mất một lúc để phàn nàn về những vất vả khi mang thai với em gái, cô hiểu chính xác những gì Erica nói vì con bé đã có hai đứa con.
“Khổ thân chị… điều an ủi duy nhất là sớm hay muộn thì rồi chị cũng sẽ vượt qua thôi. Chị thấy thế nào khi Patrik ở nhà? Hai người không khiến nhau phát rồ lên đấy chứ? Em nhớ là em chỉ muốn được yên thân trong vài tuần cuối cùng.”
“Chị hiểu ý em. Chị phải thừa nhận là chị cực kỳ căng thẳng. Nên chị đã không phản đối nhiều khi anh ấy nhận một vụ giết người và lại phải đi làm.”
“Một vụ giết người? Chuyện gì đã xảy ra?”
Erica kể cho em gái nghe về cô gái người Đức trẻ tuổi đã bị sát hại và hai cô gái mất tích đến giờ mới được tìm thấy.
“Chúa ơi, khủng khiếp quá.” Đường truyền lạo xạo.
“Mà em đang ở đâu vậy? Em đi chơi thuyền vui chứ?”
“Ừ, bọn em đang chơi vui lắm. Emma và Adrian rất thích thú, Gustav còn bảo không khéo chúng sẽ trở thành thủy thủ chuyên nghiệp ấy chứ.”
“À, Gustav. Hai người sao rồi? Anh ta sẵn sàng để ra mắt cả nhà rồi chứ?”
“Đó chính là lý do em gọi cho chị đây. Bây giờ bọn em đang ở Strömstad và muốn đi thuyền xuống thăm nhà anh chị. Nếu chị không thoải mái thì cứ nói với em nhé – nếu không thì bọn em định ngày mai sẽ nghỉ lại Fjällbacka và qua chào chị một câu. Bọn em sẽ ngủ trên thuyền, nên cũng không phiền gì đâu. Cứ nói nếu như chị nghĩ vậy là hơi quá. Chỉ là nếu được gặp chị thì sẽ rất vui.”
“Tất nhiên là em có thể đến. Bọn chị đã mời Dan và bạn gái anh ta đến dự tiệc nướng ngày mai, nên cũng không phiền nếu thêm vài cái hamburger trên vỉ nướng.”
“O, tuyệt quá, thế là cuối cùng em cũng được ăn sườn cừu.”
“Nghe này, Anna. Hồi trước Patrik nhòm ngó chị vì chị ngoan đấy, nên em đừng có mà bắt đầu quá…”
“Được rồi, nhưng vẫn cần chuẩn bị thêm chút. Mình phải xem bọn trẻ con bây giờ thích nghe nhạc gì, phong cách nào đang nổi và liệu son bóng có mùi thơm thì còn mốt không. Kế hoạch đây: nếu chị xem xét kênh MTV, em sẽ nhận phần tạp chí tuổi teen Weekly Review và nghiên cứu một tí. Chị có nghĩ là Starlet vẫn đang được xuất bản không? Nếu có, thì đó có lẽ là một ý tưởng hay đấy.”
Erica phải ôm bụng vì cười dữ dội. “Thôi đi, chị chết mất. Nào ngoan đi… Em không nên ném đá vào nhà kính, em biết đấy. Bọn chị chưa gặp Gustav, nên theo như bọn chị được biết thì, anh ta có thể là một gã thực sự lập dị. Em có nhớ ông mục sư trong bộ phim ấy không? Cái ông làm việc với tụi hạ lưu đó?”
“À, em không nghĩ lập dị
là từ đúng để chỉ Gustav.”
Erica có thể thấy rằng lời nhận xét đùa cợt của cô đã khiến Anna đâm ra cấm cảu. Chẳng ngờ em cô lại có thể nhạy cảm đến như vậy.
“Em thấy mình rất may mắn khi một người với địa vị xã hội như Gustav lại thèm nhìn đến em, một bà mẹ đơn thân thế này. Anh ấy có thể lựa chọn bạn gái trong danh sách các cô thanh tân mơn mởn, nhưng anh ấy đã chọn em, và em nghĩ rằng điều đó đã nói lên rất nhiều điều về anh ấy.”
Erica cũng nghĩ rằng điều đó đã nói rất nhiều về anh ta, nhưng tiếc là không phải theo ý em cô ám chỉ. Anna chưa bao giờ giỏi nhìn đàn ông, và cái cách con bé đang nói về Gustav nghe có vẻ hơi đáng lo ngại. Nhưng Erica quyết định sẽ không đánh giá anh ta trước. Hy vọng rằng mối nghi ngại của cô sẽ trở nên vô ích ngay sau khi cô gặp anh ta.
Cô vui vẻ nói, “Khi nào em sẽ đến đây?”
“Khoảng bốn giờ. Vậy được không?”
“Được quá đi chứ.”
“Gặp chị sau nhé. Ôm chị. Tạm biệt.”
Gác máy rồi, Erica lại cảm thấy có chút lo lắng. Có gì đó trong giọng nói gượng gạo của Anna khiến cô tự hỏi mối quan hệ của em cô với anh chàng Gustav af Klint tuyệt vời, cao quý có thực sự tốt đẹp.
Cô đã rất mừng khi Anna ly dị Lucas Maxwell, bố của bọn trẻ. Anna sau đó đã quay trở lại với giấc mơ nghiên cứu nghệ thuật và đồ cổ của mình, và con bé đã cực kỳ may mắn khi tìm được một công việc bán thời gian tại Hiệp hội Bán đấu giá Stockholm. Đó là nơi con bé gặp Gustav. Anh ta xuất thân từ một trong những gia đình dòng dõi nhất Thụy Điển. Anh ta đã dành phần lớn thời gian quản lý bất động sản của gia đình ở Hälsingland, vốn được Vua Gustav Vasa trao cho tổ tiên của anh từ thế kỷ mười sáu. Gia đình anh ta có giao thiệp với hoàng gia, và nếu ông bố bận rộn, thì Gustav sẽ thay mặt gửi lời mời đi săn hằng năm đến nhà vua. Anna đã kinh hoàng kể lại tất cả những chuyện này cho chị gái. Erica thấy có chút khó chịu, bởi đã gặp hơi nhiều những kẻ thượng lưu thô lỗ thường xuyên lui tới các câu lạc bộ quanh Stureplan. Cô chưa bao giờ gặp Gustav, nên có lẽ anh ta khác với những kẻ thừa kế giàu có, cảm thấy an toàn đằng sau của cải và tước hiệu của mình nên đã chọn cách cư xử như lợn ở những nơi như Riche & Spy Bar. Ngày mai cô sẽ biết. Cô bắt tréo hai ngón tay cầu nguyện rằng mình đã sai và rằng Gustav sẽ ở một đẳng cấp hoàn toàn khác. Không có ai xứng đáng được hưởng hạnh phúc và sự yên ổn hơn Anna.
Erica bật quạt và nghĩ xem mình sẽ làm gì hôm nay. Người hộ sinh của cô đã giải thích rằng hoóc-môn oxytocin, tiết ra nhiều khi người phụ nữ sắp đến ngày sinh nở, tạo nên bản năng làm tổ mạnh mẽ ở thai phụ. Điều đó giải thích tại sao trong những tuần gần đây Erica gần như cuống quýt lên phân loại, đánh số và lập danh mục mọi thứ trong nhà như thể cuộc sống của cô phụ thuộc vào nó. Cô bị ám ảnh với ý nghĩ rằng tất cả mọi thứ phải sẵn sàng và trật tự khi em bé ra đời. Nhưng bây giờ cô đã đạt đến giai đoạn chẳng còn gì để sắp xếp trong nhà nữa. Các tủ quần áo sạch sẽ, phòng em bé đã sẵn sàng, và các ngăn kéo đựng đồ bạc đã được dọn dẹp. Chỗ duy nhất còn phải dọn là căn hầm, trong đó toàn đồ bỏ đi. Nói là làm. Cô đứng dậy, thở phù phù, và kiên quyết cắp theo cái quạt bàn. Cô phải khẩn trương lên trước khi Patrik phát hiện ra cô đang làm gì.
Anh đang dành năm phút nghỉ giải lao để ngồi bên ngoài đồn cảnh sát ăn một que kem sô-cô-la thì Gösta ló đầu ra từ một trong những ô cửa sổ đang mở và hét lên với anh.
“Patrik, có người gọi điện cho anh. Tôi nghĩ là anh nên nghe đi.”
Patrik nhanh chóng ăn nốt que kem Magnum và đi vào trong. Anh nhấc ống nghe trên bàn Gösta và có chút ngạc nhiên khi biết đó là ai. Sau cuộc trao đổi ngắn, anh ghi lại vài điều, rồi gác máy. Anh nói với Gösta, ông đang ngồi tại chỗ quan sát anh, “Ông nghe rồi đấy, có ai đó đã đập vỡ các của sổ của nhà Gabriel Hult. Ông có muốn đến đó xem qua không?”
Gösta có vẻ ngạc nhiên khi Patrik hỏi mình thay vì Martin, nhưng ông cũng gật đầu.
Vài phút sau đó, khi đã lái xe đến nơi, họ không thể kìm được những tiếng thở dài ghen tị. Dinh thự Gabriel Hult sống thực sự tráng lệ. Nó lung linh như một viên trân châu ở giữa xanh tươi, và hàng cây tổng quán sủi ven đường dẫn vào nhà ngoan ngoãn cúi rạp trong gió. Patrik nghĩ rằng Ephraim Hult hẳn phải là một nhà thuyết giáo thiên tài thì mới được huy hoàng đến vậy.
Đến tiếng sỏi lạo xạo dưới chân khi họ bước tới bậc thềm nghe cũng có vẻ sang trọng. Anh rất tò mò muốn xem phần bên trong của ngôi nhà.
Gabriel đích thân ra mở cửa. Cả Patrik và Gösta đều chùi chân cẩn thận trên tấm thảm ở cửa trước khi bước vào tiền sảnh.
“Cảm ơn vì đã đến nhanh như vậy. Vợ tôi rất khó chịu trước những chuyện này. Tối qua tôi có công chuyện phải rời thị trấn, nên lúc chuyện xảy ra chỉ có mình bà ấy ở nhà.”
Vừa nói, ông ta vừa dẫn đường tới một căn phòng lớn, đẹp đẽ, với những cửa sổ cao để ánh nắng tràn vào. Ngồi trên chiếc xô-pha trắng muốt là một người phụ nữ vẻ mặt lo lắng. Bà đứng lên chào khi họ bước vào phòng.
“Laine Hult. Rất biết ơn các ông đã đến kịp thời.”
Bà lại ngồi xuống, và Gabriel ra hiệu mời Patrik và Gösta ngồi vào xô-pha đối diện. Cả hai đều cảm thấy hơi lạc lõng. Họ đều không mặc đồ công sở mà chỉ mặc quần soóc. Patrik ít nhất còn mặc cái áo phông đẹp, chứ Gösta chỉ mặc cái áo sơ mi cộc tay rất cũ bằng sợi tổng hợp màu xanh bạc hà. Lại càng tương phản khi Laine đang mặc một chiếc váy đẹp dệt từ lanh tự nhiên trong khi Gabriel mặc bộ vét công sở. Chắc là nóng lắm, Patrik nghĩ, hy vọng không phải lúc nào ông ta cũng ăn vận như thế giữa mùa hè nóng nực này. Nhưng thật khó mà tưởng tượng ra ông ta trong bất kỳ trang phục nào xuề xòa hơn, mà ông ta có vẻ còn chẳng toát mồ hôi trong bộ vét màu lam. Trái lại, chỉ nghĩ đến việc mặc bộ đồ đó vào mùa này Patrik đã thấy ướt nhẹp cả nách.
“Lúc gọi điện, chồng bà đã kể ngắn gọn cho tôi về những chuyện đã xảy ra, nhưng có lẽ bà có thể cho tôi biết chi tiết hơn?”
Patrik vừa cười trấn an Laine vừa lấy ra quyển sổ nhỏ và cây bút. Anh chờ đợi.
“Vâng, ngày hôm qua tôi ở nhà một mình. Gabriel thường xuyên ra ngoài đi công tác, nên có vài đêm tôi khá là hiu quạnh.”
Patrik nghe ra nỗi buồn trong giọng bà khi bà nói vậy, và tự hỏi liệu Gabriel có nhận thấy không.
“Biết là ngu ngốc,” bà nói tiếp, “nhưng tôi rất sợ bóng tối, nên khi ở nhà một mình thì tôi thường chỉ ở trong hai phòng, phòng ngủ của tôi và phòng ti-vi ngay bên cạnh.”
Patrik nhận thấy bà nói phòng ngủ của tôi
và không khỏi suy ngẫm về các cặp vợ chồng thậm chí còn không chung giường, thật đáng thương. Điều này sẽ không bao giờ xảy ra với anh và Erica.
“Thấy có động bên ngoài tôi đã định gọi cho Gabriel. Rồi ngay lập tức có gì đó bay qua một cửa sổ ở cuối nhà, phía bên trái chỗ tôi đang đứng. Tôi nhận ra nó là một tảng đá lớn rồi thì một tảng đá khác làm vỡ cửa sổ bên cạnh. Sau đó, tôi chỉ nghe có tiếng chân chạy bên ngoài, và thấy hai cái bóng biến mất ở bìa rừng.”
Patrik ghi lại những từ khóa ngắn gọn. Gösta chẳng nói một lời kể từ khi họ đến, trừ lúc giới thiệu tên mình với Gabriel và Laine. Patrik nhìn ông dò hỏi xem liệu ông có muốn làm rõ điều gì vê vụ việc, nhưng ông chỉ ngồi im lặng, cẩn thận nghiên cứu lớp da chết ở móng tay. Mình có mang theo một cái chặn cửa thì cũng đến thế mà thôi, Patrik nghĩ thầm.
“Theo bà động cơ có thể là gì?”
Gabriel mau mắn trả lời, như thể muốn chặn họng Laine.
“Không, không có gì ngoài thói đố kỵ thâm căn cố đế. Việc gia đình tôi sống ở dinh thự này khiến họ gai mắt, và trong suốt những năm qua chúng tôi đã phải chịu vài cuộc tấn công khi say rượu. Chỉ là những trò đùa vô hại. Và lần này cũng sẽ kết thúc như thế, nếu vợ tôi không nằng nặc đời gọi cảnh sát.”
Ông ta ném cái nhìn cáu kỉnh về phía Laine, bà này lần đầu tiên trong suốt cuộc trò chuyện đã tỏ ra có chút nhuệ khí và giận dữ trừng mắt nhìn lại. Hành vi thách thức này dường như đã nhen lên một tia lửa âm ỉ trong bà. Bà bình tĩnh nói với Patrik, thậm chí không thèm nhìn chồng mình, “Tôi nghĩ anh nên nói chuyện với Robert và Stefan Hult, cháu trai của chồng tôi, và hỏi họ xem họ đã ở đâu ngày hôm qua.”
“Laine, không cần thiết phải như vậy!”
“Ông không có ở đây, nên ông không biết rằng những tảng đá to bay qua cửa sổ cách mình chỉ vài bước chân thì khủng khiếp đến thế nào đâu. Nó có thể trúng tôi. Và ông cũng biết rõ như tôi rằng hai thằng ngốc nào đã gây ra chuyện này.”
Gabriel nói qua hàm răng nghiến chặt, cơ hàm ông ta căng thấy rõ. “Laine, chúng ta đã nhất trí…”
“Chỉ có ông thôi!” Được khích lệ bởi sự bất chấp khác thường của mình, bà phớt lờ ông ta và quay sang Patrik.
“Như tôi đã nói, tuy không nhìn thấy chúng, nhưng tôi có thể thề rằng đó là Stefan và Robert. Mẹ chúng, Solveig, trước đó đã đến đây, và thím ấy cư xử rất khó chịu. Hai đứa bọn chúng là những cái trứng ung thực sự, anh biết rồi đấy. Chắc anh đã từng xử lý chúng trước đây.”
Bà phác một cử chỉ về phía Patrik và Gösta, họ chẳng thể làm gì khác ngoài gật đầu đồng ý. Tất nhiên họ từng xử lý anh em nhà Hult khét tiếng và đáng gờm, ngay từ khi chúng còn là những thằng nhóc choai choai đầy mụn trứng cá.
Laine nhìn Gabriel khinh khỉnh như thể xem ông ta có dám phản đối không, nhưng ông ta chỉ nhún vai vẻ cam chịu. Cử chỉ đó cho thấy ông ta đang phủi tay khỏi vấn đề này.
“Sao mẹ của họ lại gây chuyện?” Patrik hỏi.
“Với người như thím ấy thì cần gì lý do. Thím ấy vốn luôn căm ghét chúng tôi, nhưng hôm qua, điều thực sự làm thím ấy mất trí là tin tức về những thi thể mà các anh tìm thấy ở Khe Vua. Với trí thông minh có hạn của mình, Solveig đã nghĩ tin này nghe giống như lời chứng rằng Johannes chồng thím ấy vô tội, và thím ấy đổ lỗi cho Gabriel.”
Giọng bà cao lên trong cơn kích động và bà chỉ vào chồng mình, ông ta giờ trông như thể đã rút lui ra khỏi cuộc nói chuyện.
“Tôi đã xem qua các tài liệu cũ từ khi các cô gái mất tích,” Patrik nói. “Tôi thấy rằng ông đã tố cáo em trai mình với cảnh sát. Ông có thể nói cho chúng tôi biết một chút về chuyện đó không?”
Gabriel gần như không nao núng, có một dấu hiệu nhỏ chứng tỏ rằng câu hỏi làm ông ta khó chịu, nhưng khi trả lời giọng ông ta có vẻ bình tĩnh.
“Đã nhiều, rất nhiều năm về trước rồi. Nhưng nếu anh đang tự hỏi liệu tôi có còn giữ nguyên lời khai rằng tôi đã nhìn thấy em trai mình với Siv Lantin không, thì câu trả lời là có. Lúc đó tôi ở bệnh viện tại Uddevalla thăm con trai bị bệnh bạch cầu, và tôi đang lái xe về nhà. Trên đường đến Bräcke tôi thấy xe của em trai. Tôi nghĩ có chút kỳ quặc khi nó lái xe ra ngoài vào lúc nửa đêm, nên tôi nhìn kĩ hơn. Thế là tôi nhìn thấy cô gái ấy đang ngồi ở ghế bên cạnh tài xế tựa đầu vào vai em trai tôi. Trông giống như cô ta đang ngủ.”
“Làm sao ông biết đó là Siv?”
“Tôi đâu có biết. Nhưng tôi nhận ra cô ta ngay lúc nhìn thấy ảnh cô ta trên báo. Tôi muốn chỉ ra rằng tôi chưa bao giờ nói là em trai tôi đã sát hại những cô gái ấy, theo cái cách mà mọi người ở thị trấn đã tin. Tất cả những gì tôi đã làm là báo cáo lại rằng tôi đã nhìn thấy nó với cô gái tên Siv, vì tôi coi đó là nghĩa vụ công dân của mình. Nó không liên quan gì đến bất kỳ mâu thuẫn nào giữa hai chúng tôi, hoặc là sự trả thù, như một số người đã cáo buộc. Tôi chỉ nói với cảnh sát những gì tôi nhìn thấy. Còn điều đó có nghĩa là gì, thì tôi dành cho các cơ quan chức năng tìm hiểu. Và rõ ràng là họ đã chẳng bao giờ tìm thấy bất kỳ bằng chứng nào chống lại Johannes, nên tôi nghĩ rằng toàn bộ cuộc thảo luận này đã lạc đề rồi.”
“Nhưng lúc đó ông đã nghĩ gì?” Patrik nói và hướng cái nhìn tò mò vào Gabriel. Anh thật khó mà hiểu nổi một người phải tận tâm đến thế nào thì mới chỉ điểm cả em trai mình.
“Tôi không suy đoán bậy bạ – tôi trung thành với những sự kiện có thật.”
“Nhưng ông biết rõ em trai mình. Ông có nghĩ rằng ông ta có khả năng giết người không?”
“Em trai tôi và tôi không có nhiều điểm chung. Đôi lúc tôi thấy rất ngạc nhiên khi chúng tôi có cùng bộ gene mà lại chẳng giống nhau chút nào. Anh hỏi tôi nghĩ liệu nó có khả năng đoạt mạng ai đó hay không à?” Gabriel có vẻ bó tay. “Tôi thực lòng không biết. Tôi không đủ hiểu em trai tôi để có thể trả lời câu hỏi đó. Và dù sao thì giờ chuyện đó cũng có vẻ là thừa, nếu xét đến những diễn biến mới nhất, anh có nghĩ thế không?”
Thế là ông ta coi như cuộc thảo luận đã kết thúc và đứng dậy khỏi chiếc ghế bành. Hiểu ý, Patrik và Gösta bèn cảm ơn ông ta đã dành thời gian và rời đi.
“Ông nghĩ sao, chúng ta đi nói chuyện với mấy cu cậu kia về hành động đêm qua của họ chứ?”
Đây chỉ là một câu hỏi tu từ, và Patrik đã bắt đầu lái xe về phía nhà Stefan và Robert mà không cần chờ Gösta trả lời. Việc ông già này không tham gia cuộc nói chuyện khiến anh bực bội. Phải làm gì để lay tỉnh ông già bảo thủ này đây? Chẳng bao lâu nữa là ông ta về hưu thật, nhưng cho đến lúc đó thì, chết tiệt, ông ta vẫn phải thi hành công vụ và người khác vẫn kỳ vọng ông ta hoàn thành công việc chứ.
“À, thế ông đã thu được những gì rồi?” Giọng Patrik nghe cấm cảu thấy rõ.
“Hừm, tôi không biết giả thuyết nào tồi tệ hơn. Hoặc là chúng ta có một kẻ sát nhân đã giết ít nhất ba cô gái trong vòng hai mươi năm qua, và chúng ta chẳng biết hắn là ai. Hoặc là Johannes Hult đã thực sự tra tấn và giết hại Siv và Mona, bây giờ chúng ta có một kẻ bắt chước. Theo giả thuyết đầu tiên, có lẽ chúng ta nên kiểm tra sổ sách của nhà tù. Có kẻ nào đã bị tống giam sau khi Siv và Mona mất tích rồi được thả ra trước vụ sát hại cô gái người Đức? Điều đó sẽ giải thích được sự gián đoạn giữa các vụ giết người.” Giọng Gösta đầy suy tư, và Patrik nhìn ông đầy ngạc nhiên. Ông già không đến nỗi ngơ ngẩn như anh tưởng.
“Vậy thì dễ kiểm tra thôi. Ở Thụy Điển chúng ta đâu có nhiều tù nhân phải chịu án hai mươi năm. Khi chúng ta về đồn, ông kiểm tra chuyện đó nhé?”
Gösta gật đầu rồi ngồi im lặng, nhìn ra ngoài cửa sổ.
Con đường dẫn đến căn nhà cũ trong rừng càng lúc càng xấu hơn. Theo đường chim bay thì chỉ cách một khoảng ngắn từ chỗ ở của Gabriel và Laine là đến cái lều Solveig và các con trai bà ta đang sống. Nhưng đó là một khoảng cách đáng kể về vị thế xã hội. Nơi này trông giống như một bãi phế liệu: ba chiếc xe cũ nát và hỏng hóc ở các mức độ khác nhau trông như thể bị vứt ở đó và có rất nhiều loại phế thải không xác định. Nhà này rõ là đồng nát. Patrik ngờ rằng nếu anh lục lọi thì anh cũng có thể tìm thấy kha khá đồ ăn cắp đã được báo mất trong các vụ đột nhập nhà nghỉ mùa hè ở khu vực này. Nhưng đó không phải là lý do họ ở đây ngày hôm nay. Chuyện vặt bỏ qua, dành tâm sức cho chuyện lớn.
Robert tiến về phía họ từ cái nhà kho, hắn đang mày mò một chiếc xe cũ nát ở đó. Hắn mặc cái yếm lao động bẩn thỉu bằng vải bò bạc phếch. Tay hắn đầy dầu, và rõ ràng là hắn đã quẹt lên mặt, để lại mấy vệt và đốm dầu. Hắn vừa lau tay vào cái giẻ rách vừa tiến đến chỗ họ.
“Mấy ông muốn cái quái gì đây? Nếu các ông đang tìm cái gì ở đây thì phải cho tôi xem giấy tờ hợp lệ trước khi các ông sờ vào bất cứ thứ gì.” Giọng hắn nghe thật quen. Mà cũng đúng thôi, vì họ đã đụng mặt nhau nhiều lần trong suốt những năm qua.
Patrik giơ tay lên. “Bình tĩnh nào. Chúng tôi không tìm kiếm gì cả. Chúng tôi chỉ muốn nói chuyện chút thôi.”
Robert nhìn họ nghi ngờ nhưng rồi gật đầu.
“Chúng tôi cũng muốn nói chuyện với em trai anh nữa. Anh ta có ở đây không?”
Robert lại miễn cưỡng gật đầu và hét về phía ngôi nhà, “Stefan, cớm đến này. Họ muốn nói chuyện với bọn mình đấy!”
“Sao ta không đi vào trong nhà và ngồi nói chuyện nhỉ?”
Không đợi trả lời, Patrik đi về phía cửa và Gösta theo ngay đằng sau. Robert không có sự lựa chọn nào khác, đành phải đi theo. Hắn còn không thèm cởi yếm lao động hay rửa tay. Sau những cuộc bố ráp trước đây, Patrik đã hiểu rằng chẳng cần phải làm thế. Mọi thứ trong nhà đều bám đầy rác bẩn. Nhiều năm trước, căn nhà này chắc chắn đã từng rất ấm cúng, dù nhỏ bé. Nhưng bao năm bỏ bê sao nhãng đã tàn phá nó, và giờ nơi này đúng là một thảm họa. Giấy dán tường màu nâu ảm đạm, với những miếng vá hờ và nhiều đốm nhỏ. Ngoài bụi bẩn ra, thì mọi thứ dường như đều được bao phủ bởi một màng mỡ mỏng.
Hai viên thanh tra gật đầu với Solveig, bà ta đang ngồi ở cái bàn bếp ọp ẹp, bận rộn với album ảnh của mình. Mái tóc đen của bà ta rủ những sợi mềm xuống mặt, và khi bà ta bực dọc gạt tóc mái che mắt, những ngón tay bà ta nhờn mỡ. Patrik vô thức chùi tay vào quần và thận trọng ngồi xuống mép cái ghế dựa. Stefan bước ra khỏi căn phòng nhỏ liền kề và ủ rũ ngồi xuống bên cạnh anh trai và mẹ trên ghế báng trong bếp. Khi họ ngồi thành một hàng Patrik có thể nhận thấy sự giống nhau trong gia đình. Nhan sắc một thời của Solveig đã được lưu giữ như một tiếng vọng trên khuôn mặt các con trai của bà ta. Theo như những gì Patrik đã được nghe, Johannes từng là một anh chàng đẹp trai, và nếu các con trai của ông ta chịu sống cho đàng hoàng, thì trông họ cũng khá phong nhã. Nhưng họ có một sự bất ổn được thể hiện ở tính láu cá. Bất lương
có lẽ là từ mà Patrik đang tìm. Nếu vẻ bề ngoài của ai đó có thể được mô tả là bất lương, thì từ đó chắc chắn dành cho Robert. Patrik vẫn còn chút hy vọng cho Stefan. Vào những dịp họ gặp nhau, gã trẻ tuổi vẫn luôn tỏ ra đỡ cứng đầu hơn thằng anh mình. Đôi khi Patrik có thể cảm nhận được sự mâu thuẫn trong gã về con đường đời mà gã đã chọn, là theo bước Robert. Thật xâu hổ khi Robert lại tác động xấu như vậy đến gã, nếu không thì Stefan có thể đã có một cuộc đời hoàn toàn khác. Nhưng có lẽ đã quá muộn rồi.
“Các ông muốn cái quái gì đây?” Stefan cáu kỉnh hỏi giống như anh trai mình.
“Chúng tôi chỉ muốn nghe xem đêm qua các anh đã làm gì. Có phải hai anh đi thăm các bác mình và giải trí với trò ném đá không?”
Hai anh em nhìn nhau đầy ẩn ý đoạn đeo lên mặt nạ vô tội tuyệt đối.
“Không, tại sao chúng tôi lại làm vậy? Chúng tôi đã ở nhà cả buổi tối hôm qua, đúng không hả mẹ?”
Cả hai đều quay sang Solveig, bà ta liền gật đầu. Bà ta đã tạm đóng quyển album lại và giờ đang ngồi chăm chú lắng nghe cuộc trò chuyện giữa các con trai với cảnh sát.
“Đúng thế, đêm qua cả hai đứa đều ở đây. Chúng tôi xem ti-vi cùng nhau. Chúng tôi đã có một buổi tối sum vầy vui vẻ.” Bà ta thậm chí không thèm che giấu sự mỉa mai của mình.
“Vậy Stefan và Robert không đi ra ngoài chút nào à? Vào khoảng mười giờ ấy?”
“Không, chúng không đi ra ngoài dù chỉ một phút. Thậm chí còn không đi nhà xí, theo như tôi nhớ.” vẫn là cái giọng điệu mỉa mai, và mấy đứa con trai bà ta không khỏi cười khẩy. “Vậy đêm qua có ai đó đã đập vỡ vài cái cửa sổ nhà họ. Chắc họ phải sợ vãi ra quần.”
Điệu cười khẩy giờ đã thành dàn hợp xướng đồng thanh khiến Patrik nghĩ đến Beavis và Butthead*.
“Không, thực ra thì chỉ có bác gái của các anh thôi. Hôm qua Gabriel đã đi công chuyện ở ngoài thị trấn, nên bà ấy ở nhà một mình.”
Vẻ thất vọng hiện lên trên mặt họ. Họ có lẽ đã hy vọng dọa được cả hai, mà không tính đến việc Gabriel vắng nhà.
“Tôi nghe nói rằng hôm qua cô cũng đã làm một chuyến thăm nho nhỏ đến nhà họ, Solveig. Và còn đe dọa này nọ nữa. Cô có gì để nói về điều đó không?” Gösta là người đặt câu hỏi. Patrik cũng như anh em nhà Hult nhìn ông chằm chằm với vẻ ngạc nhiên.
Solveig phá lên cười hô hố. “Thế họ nói rằng tôi đe dọa họ, phải không? Xem nào, tôi chẳng nói điều gì không đáng cả. Chính Gabriel đã tố cáo chồng tôi là kẻ giết người. Lão là kẻ đã lấy đi mạng sống của chồng tôi, chẳng khác nào chính lão đã thắt thòng lọng vào cổ anh ấy vậy.”
Cơ mặt Robert co giật khi mẹ hắn nhắc đến cách mà bố hắn đã chết. Patrik nhớ lại những gì anh đã từng đọc: chính Robert đã tìm thấy bố mình sau khi ông treo cổ tự tủ.
Solveig tiếp tục dông dài. “Gabriel luôn luôn ghét Johannes. Lão ghen tị với anh ấy kể từ khi họ còn nhỏ. Johannes đã có tất cả những gì mà lão anh không có, và Gabriel biết điều đó. Ephraim luôn thiên vị Johannes, theo tôi hiểu thì thế. Đương nhiên anh không bao giờ nên thiên vị một đứa con hơn những đứa khác,” bà ta vừa nói vừa gật đầu với mấy đứa con trai ngồi cạnh trên ghế băng. “Nhưng Gabriel lạnh như tiền, trong khi Johannes thì tràn đầy sức sống. Tôi biết chứ – lúc đầu tôi đính hôn với lão ta rồi sau là em của lão mà. Không điều gì khiến cho Gabriel phấn khích. Lão luôn chừng mực phát gớm. Lão nói rằng chúng tôi phải chờ đến khi cưới. Nó làm tôi phát bực. Rồi em trai lão đến và bắt đầu lượn quanh tôi, và điều đó thật hoàn toàn khác biệt. Tay anh ấy có thể vuốt ve khắp cơ thể tôi cùng lúc. Anh ấy chỉ cần nhìn tôi thôi là tôi đã rạo rực hết cả người rồi.” Bà ta cười khúc khích và nhìn xa xăm, như thể đang hồi tưởng lại những đêm nóng bỏng của thời tuổi trẻ.
“Khỉ thật, mẹ có im đi không?”
Vẻ ghê tởm hiện rõ trên mặt mấy đứa con trai của bà ta. Họ rõ ràng là muốn được miễn cho các chi tiết về quá khứ lả loi của bà mẹ. Patrik hình dung ra một Solveig trần truồng, cơ thể nhờn mỡ của bà ta quằn quại trong đê mê, và anh phải chớp mắt để thoát khỏi hình ảnh đó.
“Ngay khi tôi nghe có đứa con gái bị giết, rồi họ tìm thấy cả Siv và Mona nữa, tôi đã qua đó để nói cho họ một trận. Chỉ VÌ tính ghen tị và hiểm ác, Gabriel đã hủy hoại Johannes. Lão ta đã hủy hoại cả cuộc đời chúng tôi nữa, tôi và hai đứa con trai, nhưng cuối cùng thì bây giờ sự thật cũng đập thẳng vào mật mấy người nhé. Bây giờ họ sẽ phải xấu hổ và nhận ra rằng họ đã tin lầm thằng anh. Và tôi hy vọng rằng Gabriel sẽ bị thiêu trong địa ngục vì tội lỗi của hắn!”
Bà ta bắt đầu nổi giận như ngày hôm qua. Stefan đặt một bàn tay lên cánh tay bà ta, nhẹ nhàng nhưng mang ý trách.
“Ừm, dù có lý do gì đi nữa, bà cũng không thể đi vòng vòng mà đe dọa người ta. Vả các anh cũng không nên ném đá vào cửa sổ nhà người khác!” Patrik chỉ vào Robert và Stefan. Anh chẳng hề tin vào câu chuyện của bà mẹ rằng họ đã ở nhà ngồi trước ti-vi. Họ biết rằng anh đã biết, và giờ anh đã cảnh cáo họ rằng anh sẽ để mắt đến họ. Họ chỉ lầm bầm trả lời.
Nhưng Solveig dường như đã phớt lờ lời cảnh cáo. Má bà ta vẫn còn đỏ bừng giận dữ.
“Về chuyện đó, thì Gabriel không phải là kẻ duy nhất nên xấu hổ! Chừng nào thì bọn tôi nhận được lời xin lỗi từ phía cảnh sát đây? Cái kiểu mấy người chạy khắp Västergärden khiến mọi chuyện lộn tùng phèo cả lên. Mấy người còn lôi Johannes vào xe cảnh sát để thẩm vấn. Mấy người đã góp phần dẫn đến cái chết của anh ấy. Đã đến lúc cầu xin tôi tha thứ rồi chứ hả?”
Lần thứ hai Gösta lên tiếng. “Cho đến khi chúng tôi tìm ra chính xác những gì đã xảy ra với ba cô gái, thì sẽ không có chuyện cầu xin tha thứ gì cả. Và cho đến khi chúng tôi tìm hiểu được đến ngọn nguồn của vấn đề này, tôi muốn cô cư xử cho ra dáng người tử tế, Solveig.”
Bất ngờ giọng Gösta trở nên thật đanh thép.
Quay lại xe, Patrik ngạc nhiên hỏi, “Ông và Solveig biết nhau à?”
Gösta càu nhàu. “Còn tùy xem ‘biết’ theo ý anh là gì. Cô ấy bằng tuổi em út của tôi và rất hay qua chơi nhà khi bọn tôi còn nhỏ. Khi cô ấy đến tuổi thiếu nữ, mọi người đều biết tiếng. Cô ấy là cô gái xinh đẹp nhất trong vùng, tôi phải nói với anh thế, mặc dù nhìn cô ấy bây giờ thì thật khó tin. Thật đáng xấu hổ. Cứ nghĩ tới việc mọi chuyện đã trở nên tồi tệ đến thế cho cô ấy và mấy đứa con trai mà xem/’ Ông lắc đầu nuối tiếc. “Và tôi còn không thể nói rằng cô ấy đã đúng khi nói rằng Johannes chết oan. Chúng ta thực sự không biết cái quái gì cả!”
Ông bất lực đấm tay lên đùi. Patrik cảm thấy như đang chứng kiến một con gấu thức dậy từ giấc ngủ đông dài.
“Ông sẽ đi kiểm tra các nhà tù khi chúng ta quay về nhé?”
“Ừ, ừ, tôi đã nói với anh rồi! Tôi chưa già đến nỗi phải nghe đến lần thứ hai mới hiểu đâu. Tôi đây, nhận lệnh từ một thằng oắt còn hôi mùi sữa…” Gösta rầu rĩ nhìn ra ngoài kính chắn gió.
Họ vẫn còn phải đi một chặng đường dài, Patrik mệt mỏi nghĩ.
Đến thứ Bảy thì Erica nhận ra rằng cô lại đang mong Patrik ở nhà. Anh đã hứa sẽ nghỉ cuối tuần, và giờ họ đang đưa cái thuyền gỗ dài bốn mét của mình ra chơi đảo đá. Họ đã may mắn tìm được cái thuyền gần như giống hệt cái xuồng mà bố Tore của cô từng sở hữu. Đó là loại thuyền duy nhất mà cô muốn có. Cô chưa bao giờ thực sự thích chèo thuyền, dù đã có vài chuyến đi chơi ở trường đua thuyền, và tất nhiên là một xuồng máy sợi thủy tinh thì nhanh hơn, nhưng ai vội đâu cơ chứ?
Tiếng động cơ của xuồng đối với cô nghe như những âm thanh của thời thơ ấu. Khi còn nhỏ, cô thường ngủ trên sàn gỗ ấm áp, với tiếng động cơ rung rung như ru bên tai. Những ngày đó cô thường thích trèo lên ngồi trên mui phía trước kính chắn gió, nhưng trong tình trạng kém duyên bây giờ thì cô không dám. Thay vào đó, cô ngồi trên một tấm ván ngang phía sau các tấm bảo vệ. Patrik đứng ở bánh lái, ngọn gió vòn trên mái tóc nâu và nụ cười nở trên gương mặt anh. Họ tới nơi sớm hơn các du khách, không khí trong lành và sạch sẽ. Một làn bụi nước thỉnh thoảng lại bắn lên thuyền, và Erica có thể nếm được vị muối trong không khí khi hít thở. Thật khó tưởng tượng rằng cô đang mang một sinh linh nhỏ xíu, chỉ trong vòng vài năm nữa thôi, nó sẽ ngồi bên cạnh Patrik ở phía đuôi thuyền, mặc cái áo phao cổ lớn màu cam rộng thùng thình, như cô cũng từng nhiều lẩn ngồi như vậy bên bố mình.
Mắt Erica bắt đầu cay cay khi nghĩ rằng bố cô sẽ không bao giờ được gặp đứa cháu của mình. Mẹ cô cũng vậy, nhưng vì bà ấy chưa bao giờ thực sự quan tâm đến Erica hay Anna nên dường như một đứa cháu cũng chưa chắc sẽ khơi gọi bất kỳ sự hứng thú nào trong bà. Đặc biệt là khi mẹ cô đã luôn cư xử gay gắt một cách không tự nhiên khi gặp các con của Anna. Bà sẽ cho chúng một cái ôm vụng về nếu tình huống đòi hỏi phải vậy. Cay đắng lại dâng lên trong lòng Erica, nhưng cô nuốt mạnh xuống để trấn áp nó. Trong những lúc tối tăm hơn, cô sợ rằng bổn phận làm mẹ sẽ chỉ là gánh nặng cho cô như đối với Elsy – bà đã trở thành một bà mẹ lạnh lùng và khó gần. Lý trí của cô nói rằng chỉ nghĩ vậy thôi cũng thật vô lý, nhưng nỗi sợ thì có bao giờ hợp lý đâu. Mặt khác, Anna là một bà mẹ ấm áp và đầy yêu thương với Emma và Adrian, vậy tại sao Erica lại không thể? Cô đã cố gắng trấn an mình như vậy – ít nhất cô đã chọn được ông bố phù hợp cho đứa trẻ, cô nghĩ khi nhìn Patrik. Sự kiên định và tự tin của anh đã bù đắp cho tính bất an của cô, điều mà chưa từng có ai làm được. Anh sẽ là một ông bố tuyệt vời.
Đi vào một bờ vịnh nhỏ được che chắn, họ trải khăn lên trên tảng đá bằng phẳng, trơ trụi. Đây là những gì cô đã bỏ lỡ khi sống ở Stockholm. Quần đảo này rất khác, với những rừng cây và bụi rậm. Có cảm giác lộn xộn và bừa bãi kiểu gì đó. Một khu vườn ngập nước, như dân biển miền Tây khinh bỉ gọi nó. Các hòn đảo này rất tinh khiết trong cái vẻ đơn giản trần trụi của chúng. Đá granite màu hồng và màu xám phản chiếu màu nước trong như pha lê in bóng vẻ đẹp đến thắt lòng của bầu trời quang đãng. Loài thực vật duy nhất là những bông hoa nhỏ mọc ở khe đá, và chỉ ở giữa cảnh cằn cỗi này, vẻ đẹp của chúng mới có thể được thưởng thức trọn vẹn. Erica nhắm mắt lại và để mình chìm vào giấc ngủ thiu thiu dễ chịu với tiếng nước vỗ bập bềnh và tiếng thuyền đập nhẹ vào dây neo.
Khi Patrik nhẹ nhàng đánh thức cô, lúc đầu cô hoàn toàn không biết mình đang ở đâu. Ánh sáng mặt trời thình lình khiến cô bị chói trong vài giây khi mở mắt, và Patrik chỉ là một cái bóng lờ mờ phía trên. Khi đã định thần, cô nhận ra rằng mình đã ngủ gần hai giờ đồng hồ. Giờ thì cô đói cồn cào cả ruột và thấy thèm mấy món ăn vặt mà họ đã mang theo.
Họ rót cà phê từ phích vào cốc lớn và ăn bánh quế. Chẳng nơi đâu làm cho thức ăn ngon đến vậy ngoài một hòn đảo, và họ tận hưởng nó trọn vẹn. Nhưng Erica không thể nhịn được việc khơi lại chủ đề cấm thảo luận.
“Công việc của anh sao rồi?”
“Cũng bình thường. Một bước tiến rồi hai bước lùi.” Patrik trả lời cộc lốc. Rõ ràng anh không muốn cái ác vốn thường xuyên luồn lách vào công việc của mình giờ lại xâm nhập vào miền an lạc ngập tràn ánh nắng này.
Nhưng Erica quá tò mò, và cô không thể ngán mình hỏi han thêm một chút. “Những bài báo em đã tìm cho anh có ích chút nào không? Anh có nghĩ toàn bộ vấn đề xoay quanh gia đình Hult không? Hay chỉ là Johannes không may nên mới bị kéo vào vụ này?”
Patrik cầm cốc cà phê trong tay và thở dài.
“Giá như anh biết được. Cả nhà Hult cứ như là một tổ ong bắp cày ấy, và anh thực sự không muốn đào sâu vào những vấn đề của họ. Nhưng có gì đó dường như không ổn. Liệu nó có liên quan đến những vụ giết người hay không thì anh không biết. Có lẽ ý nghĩ rằng cảnh sát có thể đã góp phần khiến một người thực sự vô tội phải tự sát đã khiến anh hy vọng nghi ngờ của mình có căn cứ. Sau cùng thì những lời khai của Gabriel là đầu mối hợp lý duy nhất mà cảnh sát có khi các cô gái mất tích. Nhưng bọn anh không thể chỉ tập trung vào đó được – bọn anh phải tìm kiếm trên diện rộng.” Anh dừng lại vài giây rồi tiếp tục. “Anh thực sự không muốn nói về chuyện này. Bây giờ anh cảm thấy như thể anh cần phải tạm ngắt khỏi tất cả mọi thứ liên quan đến án mạng và suy nghĩ về những chuyện khác.”
Cô gật đầu. “Em hứa sẽ không hỏi câu nào nữa. Anh ăn thêm bánh không?”
Anh không từ chối, và sau vài giờ đọc sách và tắm nắng trên đảo, họ nhìn đồng hồ thấy phải về nhà để chuẩn bị đón khách mời. Vào phút cuối, họ đã quyết định mời cả bố của Patrik và vợ ông nữa, nên ngoài bọn trẻ ra thì có tám người lớn sẽ tham gia bữa tiệc nướng.
Gabriel luôn thấy bứt rứt vào cuối tuần khi phải thư giãn và không được làm việc. Vấn đề là ông không biết phải làm gì khi không làm việc. Công việc là cuộc sống của ông. Ông không có thú vui nào khi rảnh rỗi, không muốn dành nhiều thời gian cho vợ, và bây giờ bọn trẻ đã chuyển ra ngoài, thì ngay cả chuyện của Linda cũng thành đề tài tranh cãi. Kết quả là ông thường tự nhốt mình trong văn phòng, gí mũi vào đống sổ sách kế toán. Số má là thứ duy nhất ông hiểu trên đời. Không giống con người với những cảm xúc phiền hà và vô lý, những con số tuân theo những quy tắc nghiêm ngặt. Ông luôn luôn có thể dựa vào chúng. Ông cảm thấy thoải mái trong thế giới của chúng. Chẳng cần là thiên tài cũng hiểu lòng khao khát trật tự và sự rõ ràng này đến từ đâu. Gabriel từ lâu đã đổ lỗi việc này là do thời thơ ấu hỗn loạn của mình, nhưng ông đã không còn chăm chú vào nó nữa. Nhu cầu về trật tự rất phù hợp với ông, vậy nên nguồn gốc của lòng khao khát này cũng không hoặc gần như không có ý nghĩa gì.
Cái thời rong ruổi trên đường với Nhà Thuyết Giáo là thứ mà ông đã cố gắng không nghĩ đến nữa. Nhưng khi ông nhớ lại thời thơ ấu của mình, hình ảnh ông bố là Nhà Thuyết Giáo luôn hiện ra. Cái hình thù dễ sợ, không mặt mũi đã lấp đầy mỗi ngày của họ bằng những kẻ rền rĩ, huyên thuyên và cuồng loạn. Đàn ông và phụ nữ đều cố gắng bắt cho được ông và Johannes. Những kẻ ấy tóm lấy họ với những bàn tay như móng vuốt, cố gắng bắt họ phải làm dịu bớt đau đớn thể xác hoặc tinh thần đang hành hạ. Những kẻ tin rằng ông và em trai ông có câu trả lời cho những lời cầu nguyện của họ. Một kênh liên lạc trực tiếp với Thiên Chúa.
Johannes thích những năm tháng ấy. Hắn đã tắm trong sự quan tâm và hoan hỉ đứng dưới ánh đèn sân khấu. Đôi khi vào ban đêm khi họ đi ngủ Gabriel bắt gặp hắn nhìn chằm chằm vào bàn tay đầy mê mẩn, như để cố gắng và hiểu xem nguồn gốc của tất cả những phép nhiệm mầu đó.
Gabriel đã cảm thấy một lòng biết ơn to lớn khi món quà ấy biến mất, nhưng Johannes thì rất thất vọng. Hắn không thể đối mặt với thực tế rằng bây giờ hắn chỉ là một thằng bé người phàm không có thiên phú gì đặc biệt – hắn cũng giống như mọi người khác. Hắn đã khóc và cầu xin Nhà Thuyết Giáo giúp mình lấy lại món quà ấy. Nhưng cuộc sống đó đã chấm dứt, ông bố nói cộc lốc, và một cuộc sống khác sẽ bắt đầu. Những con đường của Thiên Chúa thì luôn bí hiểm.
Khi họ chuyển đến dinh thự ngoại ô Fjällbacka, trong mắt Gabriel, Nhà Thuyết Giáo đã trở thành Ephraim chứ không phải là cha đạo, và ông đã yêu cuộc sống mới này ngay từ những giây phút đầu tiên. Không phải vì ông trở nên gần gũi hơn với bố mình – Johannes luôn là đứa con cưng và vẫn tiếp tục như thế – mà bởi vì cuối cùng ông cũng tìm được một mái ấm. Một nơi để ông có thể trú ẩn, một nơi để ông có thể sắp xếp cuộc sống của mình, và tuân thủ đúng giờ giấc. Một ngôi trường để đi học. Ông cũng yêu trang trại và mơ ước một ngày kia có thể điều hành nó theo cách mình muốn. Ông biết ông sẽ là một người quản lý giỏi hơn cả Ephraim hay Johannes, và mỗi tối, ông cầu nguyện rằng bố sẽ không phạm sai lầm là để đứa con cưng của mình tiếp quản trang trại khi họ lớn lên. Johannes có nhận được tất cả yêu thương và quan tâm thì cũng không thành vấn đề gì, miễn là ông, Gabriel, có được trang trại.
Và mọi chuyện đã xảy ra như vậy. Nhưng không phải như ông đã tưởng tượng. Trong thế giới tưởng tượng của ông, Johannes cũng vẫn luôn ở đó. Không cần phải đến khi hắn chết thì Gabriel mới hiểu được sự cần thiết của thằng em trai vô tâm với mình – ông cần phải lo lắng về Johannes và ông cần phải giận dữ với hắn. Mà Gabriel cũng không thể hành động khác.
Ông đã yêu cầu Laine giữ im lặng về việc họ cho rằng Stefan và Robert đã ném đá qua cửa sổ. Điều đó đã khiến ông ngạc nhiên. Ông đã bắt đầu mất cảm giác đối với quy tắc và trật tự ư, hay là ông chỉ vô thức thấy tội lỗi về vận mệnh gia đình? Ông không biết, nhưng sau đó ông lại thấy dễ chịu vì Laine đã thách thức ông và kể với cảnh sát tất cả mọi thứ. Nhưng điều đó cũng đã làm ông bất ngờ. Trong mắt ông, vợ ông giống một con búp bê có khớp nối, nheo nhéo quấy rầy hơn là một con người có ý chí riêng. Ông đã bị choáng vì sự gay gắt trong giọng bà và cơn giận dữ ông nhìn thấy trong mắt bà. Điều đó khiến ông cực kỳ khó chịu. Sau tất cả những gì đã xảy ra trong tuần qua, ông cảm thấy như thể toàn bộ trật tự thế giới của ông dường như đã bị đảo lộn. Đối với một người ghét sự thay đổi, đó là một viễn cảnh đáng sợ. Gabriel tháo lui sâu hơn vào thế giới của những con số.
Những vị khách đầu tiên đã tới đúng giờ. Lars, bố của Patrik và vợ ông, Bittan đã tới vào đúng bốn giờ, mang theo hoa và một chai rượu vang cho các vị chủ nhà. Bố của Patrik là một người đàn ông cao lớn bụng bự. Bà vợ đã kết hôn hai mươi năm của ông thì thấp lùn và tròn xoe như một quả bóng nhỏ. Nhưng vậy mới hợp với bà, và các nếp nhăn quanh mắt bà cho thấy một nụ cười luôn sẵn sàng hiện diện. Erica biết rằng Patrik, trong nhiều phương diện, lại dễ dàng hòa hợp với Bittan hơn với mẹ mình, Kristina, một người nghiêm khắc và thô lỗ hơn vậy nhiều. Cuộc ly hôn đầy cay đắng, nhưng theo thời gian thì một hiệp ước hòa bình đã được thiết lập giữa Lars và Kristina, mặc dù họ sẽ không bao giờ thành bạn bè. Đôi khi họ còn có thể cùng có mặt trong các buổi xã giao. Nhưng mời riêng hai người thì vẫn đơn giản hơn. Vì bây giờ Kristina đã tới Göteborg thăm em gái của Patrik, nên không có lý do gì để lo lắng khi họ chỉ mời Lars và Bittan đến bữa tiệc nướng.
Mười lăm phút sau, Dan và Maria đến. Họ vừa mới mang ghế ra vườn và lịch sự chào Lars và Bittan thì Erica nghe tiếng cô cháu gái Emma gọi từ con dốc dẫn lên nhà. Cô ra gặp họ, và sau khi ôm bọn trẻ cô được giới thiệu với người đàn ông mới trong đời Anna.
“Xin chào, rất vui vì cuối cùng cũng được gặp anh!”
Cô chìa tay ra chào Gustav af Klint. Ấn tượng đầu tiên đã xác nhận định kiến của cô. Anh ta trông như những gã đàn ông Ostermalm trẻ tuổi thượng lưu khác thường lang thang tại các câu lạc bộ quanh Stureplan ở Stockholm. Mái tóc đen vuốt ngược bóng lộn. Áo sơ mi và quần dài tuồng như giản dị, nhưng Erica biết giá của chúng, cũng như cái áo len buộc trên vai anh ta. Cô đã phải tự nhắc mình để không có định kiến với anh ta. Anh ta chưa kịp mở miệng mà cô đã chất chồng khinh miệt trong lòng. Trong vài giây, cô lo lắng tự hỏi liệu có phải tính ghen tị đã khiến cô xù lông mỗi khi phải tiếp xúc với một người sinh ra trong nhưng lụa. Cô hy vọng điều đó không đúng.
“Cháu của dì thế nào rồi? Cháu có ngoan không đấy?”
Em gái cô áp tai vào bụng cô để nghe câu trả lời. Rồi cô cười và ôm chặt bà chị gái. Sau khi Patrik cũng được ôm một cái, anh dẫn họ ra gặp khách khứa trong vườn và giới thiệu mọi người với nhau. Bọn trẻ được thả trong vườn, trong khi người lớn uống rượu, hoặc như Erica thì uống Coca, và thịt được xếp lên vỉ nướng. Như thường lệ, đám đàn ông tụ tập xung quanh vỉ nướng, cảm thấy mình đúng là đấng mày râu trong khi đám đàn bà ngồi buôn chuyện. Erica không bao giờ hiểu nổi đàn ông và tiệc nướng. Những ông thường tuyên bố mình không biết rán một miếng thịt trong chảo như thế nào thì lại coi bản thân là nghệ sĩ bậc thầy khi lấy thịt ra khỏi vỉ nướng ngoài trời đúng lúc. Phụ nữ được giao phó lo liệu các món phụ, và họ cũng đóng vai trò là những người tiếp bia tuyệt vời.
“Chúa ơi, nơi này đáng yêu quá!” Maria đã bắt đầu ly rượu vang thứ hai, trong khi những người khác vừa mới nhấm nháp những ngụm đầu tiên.
“Cảm ơn. Chúng tôi thích lắm.”
Erica thấy khó mà niềm nở được với bạn gái của Dan. Cô không thể hiểu được anh thấy gì ở cô ta, đặc biệt là so với Pemilla, vợ cũ. Cô ngờ rằng đó là một trong những bí ẩn về đàn ông mà phụ nữ không thể nào hiểu được. Điều duy nhất cô biết chắc là anh chọn Maria không phải vì khả năng giao tiếp của cô. Mặc dù vậy, rõ ràng là Maria đã khơi lên bản năng làm mẹ trong Bittan, bà đã chú ý hơn đến cô ta. Vậy là Anna và Erica được để mặc cho nói chuyện với nhau.
“Anh ấy dễ thương lắm,” Anna nói, nhìn Gustav đầy ngưỡng mộ. “Thử tưởng tượng xem, một người như thế mà lại quan tâm đến em!”
Erica nhìn cô em gái xinh đẹp và tự hỏi làm sao một người như Anna lại có thể mất đi hoàn toàn sự tự tin của mình. Con bé đã từng mạnh mẽ, độc lập, tự do biết bao, nhưng những năm ở với Lucas và tất cả những cuộc bạo hành của hắn đã phá hủy tinh thần cô. Erica đã phải kiềm chế để không lắc lắc cô em vài cái. Cô nhìn Emma và Adrian đang chơi đuổi bắt quanh họ và tự hỏi làm sao cô em có thể không cảm thấy tự hào và kiêu hãnh khi nhìn thấy mình đã nuôi dạy được những đứa con xinh xắn ngoan ngoãn thế nào. Bất chấp tất cả những điều đã trải qua trong đời, chúng vẫn rất vui vẻ và khỏe mạnh, yêu gia đình và bạn bè. Và tất cả những điều đó đều là nhờ vào Anna.
“Chị chưa có nhiều cơ hội để nói chuyện với anh ta,” Erica nói, “nhưng anh ta có vẻ tử tế. Chị sẽ cho em một bản đánh giá chi tiết hơn sau khi chị biết anh ta rõ hơn. Nhưng có vẻ như mọi chuyện đều ổn khi hai người bị giam trên chiếc thuyền buồm nhỏ với nhau. Đó là tín hiệu tốt, chị nghĩ vậy.” Nụ cười của cô cứng nhắc như được dán lên.
“Em sẽ không gọi nó là thuyền buồm nhỏ đâu,” Anna nói với một nụ cười. “Anh ấy mượn chiếc Najad 400 của một người bạn. Có đủ chỗ cho một tiểu đội đấy.”
Cuộc trò chuyện của họ bị gián đoạn khi thịt được đặt lên bàn, và đám đàn ông ngồi xuống bên họ, hài lòng vì đã thực hiện được phiên bản hiện đại của việc giết một con hổ răng kiếm.
“Các bà các cô ngồi đây tán nhảm cái gì đấy?”
Dan quàng tay ôm Maria, cô ta liền ôm lấy anh. Cái ôm dần trở thành một thế siết chặt. Mặc dù đã nhiều năm kể từ khi Erica và Dan ở bên nhau, cô vẫn không thích nhìn thấy hai người này khóa môi. Gustav cũng nhìn vẻ chê trách, nhưng Erica không thể không nhận thấy anh ta cẩn thận liếc khe ngực sâu của Maria.
“Lars, đừng đổ quá nhiều nước xốt vào thịt của anh thế chứ. Anh biết là phải để ý cân nặng mà, vì tim anh đấy.”
“Ý em là gì, anh khỏe như ngựa! Tất cả đây đều là cơ bắp hết đấy,” ông bố Patrik lớn tiếng tuyên bố, vỗ vỗ vào bụng mình. “Và Erica nói rằng có dầu ô liu trong nước xốt, vì thế nó rất tốt cho anh. Dầu ô liu tốt cho tim. Ai cũng sẽ nói với em như thế thôi.”
Erica cố kìm mong muốn chỉ ra rằng chỗ nước xốt ông đã đổ vào món thịt không thể được coi là một khẩu phần được khuyến khích. Nhiều lần trước đây họ đã có những cuộc thảo luận tương tự, và Lars là chuyên gia chỉ nhận những lời khuyên dinh dưỡng phù hợp với mình. Ẩm thực là niềm dam mê lớn của ông trong đời, và ông coi tất cả những nỗ lực giới hạn thói quen ăn uống của ông như những cuộc công kích cá nhân. Bittan đã bỏ cuộc từ lâu, nhưng giờ bà lại cố gắng cho ông vài lời khuyên nho nhỏ. Tất cả những nỗ lực để khiến ông ăn kiêng đều thất bại, vì ông sẽ ăn vụng bất cứ khi nào bà quay lưng lại. Rồi ông sẽ tròn mắt ngạc nhiên khi ông không hề giảm cân mặc dù, theo lời ông, ông không ăn nhiều hơn một con thỏ cỡ trung bình.
“Anh có biết E-Type không?” Maria đã ngừng đo độ sâu trong miệng Dan và giờ đang nhìn chằm chằm mê hoặc Gustav. “Ý tôi là, anh ấy đi chơi với Công chúa và bạn bè cô ấy, mà Dan bảo là anh quen biết hoàng gia, nên tôi nghĩ có lẽ anh biết anh ấy. Anh ấy thật tuyệt!”
Gustav dường như hoàn toàn ngạc nhiên khi có người lại nghĩ rằng quen biết E-Type thì tuyệt hơn quen biết nhà vua, nhưng anh ta thận trọng trả lời câu hỏi của Maria. “Tôi lớn tuổi hơn Công chúa một chút, nhưng em trai tôi biết cô ấy và cả Martin Eriksson nữa.”
Maria có vẻ bối rối. “Martin Eriksson là ai?”
Gustav thở dài nặng nề và miễn cưỡng nói sau một chút ngập ngừng, “E-Type.”
“Ồ, tôi hiểu rồi. Tuyệt quá.” Cô ta cười to và có vẻ rất ấn tượng.
Chúa ơi, cô ta có được hai mốt tuổi như Dan nói không vậy? Erica nghĩ. Cô ta coi bộ giống mười bảy tuổi hơn. Nhưng cô ta dễ thương, thậm chí Erica cũng phải thừa nhận điều đó. Cô liếc xuống bộ ngực nặng nề của mình, thừa nhận rằng những ngày tháng khi núm vú cô còn chĩa lên trời như của Maria đã qua lâu rồi.
Đây có lẽ không phải là bữa tiệc thành công nhất mà họ từng tổ chức. Erica và Patrik đã cố hết sức để tiếp tục câu chuyện, nhưng Dan và Gustav dường như đến từ những hành tinh khác nhau, Maria thì uống rượu quá nhiều và quá nhanh. Cô đã nôn hết ra trong nhà vệ sinh. Người duy nhất vui vẻ là Lars, vẫn đều đặn tỉa dần tất cả các món ăn thừa trên đĩa, hớn hở phớt lờ cái nhìn sầu muộn của Bittan.
Đến lúc tám giờ thì mọi người ra về, chỉ còn lại Patrik và Erica với đống bát đĩa bẩn.
Họ quyết định kệ chúng ở đó một lúc, và ngồi xuống với cái ly cầm trong tay.
“Ôi, em muốn một ly rượu vang ngay bây giờ.” Erica rầu rĩ nhìn ly Coca của mình.
“Ừ, sau bữa tối này, anh có thể hiểu được lý do tại sao em cần một ly. Chúa ơi, làm sao chúng mình lại thu xếp cho một nhóm người pha tạp như thế ở cùng nhau chứ? Mà chúng mình đã nghĩ cái quái gì thế không biết?” Anh cười và lắc đầu. “Anh có biết E-Type không?” Patrik chuyển giọng eo éo nhại Maria, Erica không nhịn được bèn cười khúc khích.
“Chúa ơi, tuyệt quá!” Anh vẫn giữ giọng eo éo và tiếng cười khúc khích của Erica biến thành một tràng cười to không kìm được.
“Mẹ anh bảo nếu có hơi ngốc cũng chẳng làm sao, miễn là con dễ thươnggggg!”
Giờ anh nghiêng đầu theo kiểu đáng yêu, còn Erica ôm bụng và cười hổn hển, “Thôi đi, em không chịu được nữa đâu. Chẳng phải anh đã bảo em phải ngoan à?”
“Được rồi, được rồi, anh biết. Chỉ là khó nhịn quá thôi.” Patrik trở nên nghiêm túc. “Erica, em nghĩ gì về anh chàng Gustav kia? Không có vẻ là người nồng hậu. Em thực sự nghĩ anh ta phù hợp với Anna à?”
Tiếng cười của Erica ngừng lại ngay và cô cau mày. “Không, em có chút lo lắng. Bất cứ ai cũng sẽ tốt hơn một thằng cha vũ phu, em nên nghĩ vậy, nhưng em…” – cô ngập ngừng, tìm từ chính xác – “…em mong một điều gì đó tốt đẹp hơn cho Anna. Anh có thấy anh ta có vẻ không hài lòng khi bọn trẻ làm ồn và chạy quanh không? Em cược rằng anh ta là loại người nghĩ rằng trẻ con chỉ để nhìn chứ không phải để nghe. Và như thế thì đâu hợp với Anna. Con bé cần một người tử tế, nồng nhiệt và yêu thương. Một người khiến nó thấy ổn. Dù bây giờ nó có nói gì đi nữa, em vẫn có thể thấy rằng nó không ổn. Nhưng nó không nghĩ rằng nó xứng đáng với người tốt hơn.”
Họ ngồi ngắm mặt trời lặn trên biển trông như một quả bóng đỏ rực lửa, nhưng trong một lúc, vẻ đẹp của buổi tối đã bị phí hoài. Nỗi lo lắng về cô em gái đang đè nặng lên Erica. Đôi khi trách nhiệm quá lớn đến nỗi cô cảm thấy khó thở. Nếu cô cảm thấy trách nhiệm với em gái mình đã nặng nề đến vậy, thì làm sao cô chịu trách nhiệm được cho một cuộc đời nhỏ bé khác?
Cô ngả đầu lên vai Patrik và để cho ánh hoàng hôn bao trùm lấy họ.
Thứ Hai bắt đầu với những tin tức tốt lành. Annika đã trở lại sau chuyến đi nghỉ mát. Rám nắng và khỏe mạnh, thoải mái sau nhiều cuộc làm tình và uống rượu, cô ngồi tại bàn mình trong khu vực tiếp tân và tươi cười với Patrik khi anh lê bước vào. Thông thường anh ghét buổi sáng thứ Hai, nhưng nhìn thấy Annika đột nhiên ngày mới có vẻ sáng sủa hơn. Theo một cách nào đó cô là trung tâm để cả đồn cảnh sát xoay quanh. Cô tổ chức, tranh cãi, khiển trách và phân phát những lời khen, khi hoàn cảnh yêu cầu. Dù vấn đề có là gì đi chăng nữa, họ luôn luôn có thể dựa vào những lời khôn khéo và trấn an của cô. Ngay cả Mellberg cũng bắt đầu có sự nể trọng nhất định dành cho cô. Ông ta không còn dám lén lút cấu véo cô và liếc nhìn dâm đãng, những trò vốn đã quá thường xuyên kể từ ngày đầu ông ta về đồn.
Chỉ khoảng một giờ sau khi Patrik đến, Annika gõ cửa phòng anh, vẻ mặt nghiêm trọng.
“Patrik, có một đôi vợ chồng muốn trình báo con gái mất tích.”
Họ nhìn nhau, đều nhận thức được người kia đang nghĩ gì.
Annika dẫn cặp vợ chồng lo lắng tới ngồi xuống trước bàn của Patrik. Họ giới thiệu mình là Bo và Kerstin Möller.
“Đêm qua con gái tôi không về nhà.” Ông bố nói. Một người đàn ông độ tứ tuần, thấp và chắc nịch. Vừa nói, ông vừa lo lắng bấu vào chiếc quần soóc lòe loẹt của mình và nhìn chằm chằm xuống bàn. Cái thực tế phải ngồi trong đồn cảnh sát để trình báo con gái mình mất tích dường như đã làm cho sự hoảng loạn của họ cuối cùng cũng phun trào ra. Giọng ông vỡ ra, và vợ ông, cũng thấp và tròn trịa, bèn tiếp tục.
“Chúng tôi ở khu cắm trại tại Grebbestad. Khoảng bảy giờ Jenny đi vào Fjällbacka với tụi trẻ mà nó quen. Tôi nghĩ chúng đã đến câu lạc bộ, nhưng nó hứa sẽ về lúc một giờ. Chúng đã thu xếp để có được một chuyến xe về, và chúng đã đi xe buýt vào thị trấn.”
Giọng bà cũng vậy, đã trở nên khàn khàn, và bà phải tạm dừng trước khi tiếp tục. “Không thấy nó về, chúng tôi bắt đầu lo lắng. Chúng tôi đến lều của một trong mấy đứa con gái mà nó định đi chơi cùng, và đánh thức cả nó lẫn bố mẹ nó. Con bé ấy nói rằng Jenny không hề xuất hiện tại trạm xe buýt, nơi chúng đã hẹn gặp. Chúng nghĩ rằng con bé đã quyết định không đi cùng nữa. Khi đó chúng tôi biết đã có chuyện nghiêm trọng xảy ra. Jenny sẽ không bao giờ làm như thế với chúng tôi. Con bé là đứa con duy nhất của chúng tôi, và thường rất cẩn thận báo cho chúng tôi nếu nó phải về muộn. Điều gì có thể đã xảy ra cho nó? Chúng tôi nghe nói về cô gái họ tìm thấy ở Khe Vua. Anh có nghĩ là…”
Đến đây giọng bà đã phản lại bà, và bà òa lên những tiếng nức nở tuyệt vọng. Chồng bà vòng tay quanh người bà, nhưng nước mắt cũng đã dâng lên trong mắt ông.
Patrik thấy bồn chồn. Cực kỳ bồn chồn. Nhưng anh cố gắng không để lộ ra.
“Tôi nghĩ ở thời điểm này thì chưa có bất cứ lý do gì để rút ra kết luận như vậy.”
Chúa ơi, nghe tôi nói điều hay lẽ phải kìa, Patrik nghĩ, nhưng anh luôn thấy khó xử trước những tình huống như thế này. Nỗi lo lắng của những con người này đã khiến một khối cảm thương dâng lên trong cổ họng anh, nhưng anh không thể cho phép mình đầu hàng nó. Anh tự vệ bằng sự chính xác gần như quan liêu.
“Hãy bắt đầu với vài thông tin về con gái của ông bà. Bà nói tên cô ấy là Jenny. Cô ấy bao nhiêu tuổi?”
“Mười bảy, gần mười tám tuổi.”
Kerstin vẫn đang khóc, mặt bà ép sát vào áo chồng, nên Bo phải cung cấp cho Patrik các chi tiết cần thiết. Khi trả lời cho câu hỏi liệu họ có tấm ảnh mới chụp nào của cô bé không, mẹ Jenny lau khô mắt bằng một tờ khăn giấy và lấy từ túi xách ra một tấm ảnh màu.
Patrik cầm lấy tấm ảnh và xem xét. Cô bé là một thiếu nữ mười bảy tuổi điển hình, trang điểm hơi đậm nét và có ánh mắt hơi ngang ngạnh. Anh mỉm cười với bố mẹ cô bé và cố gắng tạo không khí tin cậy.
“Một cô bé dễ thương. Tôi chắc rằng hai người rất tự hào về cô ấy.”
Cả hai đều thiết tha gật đầu, và Kerstin thậm chí còn cố nở một nụ cười gượng gạo.
“Con bé ngoan lắm. Mặc dù bọn trẻ thường có những vấn đề của chúng. Năm nay con bé không muốn đi cắm trại với chúng tôi, mặc dù hè nào chúng tôi cũng làm vậy từ hồi con bé còn nhỏ, nhưng chúng tôi đã năn nỉ nó. Chúng tôi nói với nó rằng đây có thể là mùa hè cuối cùng cả nhà ở bên nhau, nên nó mới chịu đi.”
Nghe lại những gì mình đã nói về mùa hè cuối cùng của họ, Kerstin lại bật khóc, Bo bèn vuốt ve mái tóc bà.
“Chúng tôi hy vọng anh sẽ xem xét chuyện này một cách nghiêm túc chứ?” người đàn ông nói. “Chúng tôi nghe nói rằng phải qua hai tư giờ thì mới bắt đầu tìm kiếm, nhưng anh phải tin chúng tôi, có chuyện gì đó đã xảy ra. Nếu không thì con bé đã gọi cho chúng tôi. Con bé không phải là loại con gái cứ thế mà bỏ đi và để bố mẹ ngồi mà lo lắng.”
Một lần nữa Patrik cố gắng tỏ ra bình tĩnh, nhưng trong thâm tâm anh đang suy nghĩ điên cuồng. Hình ảnh về tấm thân trần truồng của Tanja ở Khe Vua xuất hiện trong tâm trí anh, và anh chớp mắt để thoát khỏi nó.
“Chúng tôi sẽ không đợi hai tư giờ đâu, chuyện đó chỉ có trong phim Mỹ thôi. Nhưng hai người phải cố gắng đừng lo lắng. Dù tôi có tin lời hai người rằng Jenny là một cô gái vô cùng biết lẽ, thì trước đây tôi cũng từng gặp những chuyện thế này rồi. Các cô cậu nhóc gặp nhau, thế rồi quên cả thời gian, quên cả bố mẹ đang lo lắng ở nhà. Không có gì bất thường cả. Nhưng chúng tôi sẽ tiến hành đi hỏi xung quanh ngay lập tức. Để lại số điện thoại cho Annika khi đi ra nhé, để chúng tôi có thể liên lạc với hai người, và tôi sẽ báo cho hai người ngay khi biết bất cứ điều gì. Và hãy thông báo cho chúng tôi nếu hai người nghe được tin gì về cô bé, hoặc nếu cô bé quay trở về khu cắm trại. Mọi việc sẽ được tiến hành, hai người sẽ thấy.”
Sau khi họ rời đi, Patrik tự hỏi liệu anh có hứa hẹn quá nhiều. Cơn kích động đang cuộn lên trong dạ dày anh, hẳn không báo trước điềm lành. Anh nhìn vào tấm ảnh Jenny mà họ đã để lại. Anh hy vọng cô bé ấy chỉ đi chơi với bạn bè.
Patrik đứng dậy và đi gặp Martin. Tốt nhất là họ nên bắt đầu tìm kiếm ngay lập tức. Nếu điều tồi tệ nhất đã xảy ra, thì không còn một phút nào để mất nữa. Theo báo cáo của bên pháp y, Tanja chỉ sống trong cảnh giam cầm được khoảng một tuần trước khi chết. Đồng hồ đang kêu tích tắc.