CHƯƠNG 7

MÙA HÈ NĂM 1979

Cô tỉnh dậy vì tiếng ai đó khóc trong bóng tối. Thật khó nói âm thanh phát ra từ đâu, nhưng cô cứ nhích dần trên sàn nhà cho đến khi cảm thấy vải và cái gì đó động đậy dưới những ngón tay mình. Cái đống vải trên sàn bắt đầu hét lên sợ hãi, nhưng cô trấn an cô gái đó bằng cách suỵt suỵt và vuốt ve mái tóc cô ta. Hơn ai hết, cô biết nỗi sợ hãi có thể xé toạc trái tim người ta như thế nào, cho đến khi nó được thay thế bởi một sự tuyệt vọng nặng nề.

Cô biết thế là ích kỷ, nhưng cô không thể không hạnh phúc khi không còn một mình nữa. Cứ như là một khoảng thời gian vô tận đã trôi qua kể từ lần cuối cùng cô gần gũi với một người khác, nhưng cô không tin rằng điều này sẽ kéo dài hơn một vài ngày. Rất khó để theo dõi thời gian ở dưới này trong bóng tối. Thời gian là thứ gì đó chỉ tồn tại ở trên kia. Trong ánh sáng. Dưới này, thời gian là kẻ thù. Nó khiến cô nhận thức được rằng mình từng có một cuộc sống khác mà bây giờ có thể đã hoàn toàn mất đi rồi.

Khi tiếng thổn thức của cô gái đã giảm dần, những câu hỏi bắt đầu ào ra tới tấp. Cô không có câu trả lời cho cô ta. Thay vào đó cô cố gắng giải thích tầm quan trọng của việc quy phục, chứ không phải chiến đấu chống lại cái ác. Nhưng cô gái không muốn hiểu. Cô ta khóc và hỏi nhiều, nài nỉ và cầu nguyện với vị Chúa mà cô chưa từng mảy may tin tưởng, hoặc chỉ hồi thơ ấu rất xa xôi. Vì đây là lần đầu tiên cô thấy mình hy vọng rằng cô đã sai, rằng thực sự có một vị Chúa. Nếu không thì cuộc đời sẽ ra sao đối với một đứa bé, mà không có cả mẹ lẫn Chúa để hướng tới? Vì con gái cô mà cô đã chịu thua nỗi sợ hãi, cô đã đắm mình trong đó. Lòng thôi thúc đấu tranh của cô gái kia đã bắt đầu khơi dậy sự tức giận của cô. Cô đã cố gắng giải thích đi giải thích lại rằng chẳng ích gì đâu, nhưng cô gái không nghe. Rất nhanh chóng cô gái sẽ tiêm nhiễm cho cô cái tinh thần chiến đấu của cô ta ngay thôi, rồi chẳng mấy chốc hy vọng sẽ trở lại và khiến cô tổn thương.

Cô nghe thấy nắp hầm được mở ra và tiếng chân bước đến gần. Cô nhanh chóng đẩy cô gái ra, cô ta đang nằm gối đầu lên đùi cô. Có lẽ cô sẽ gặp may. Có lẽ lần này hắn sẽ làm tổn thương cô gái kia thay vì cô.

°  °  °  °

Sự im lặng thật chói tai. Tiếng Jenny líu lo vẫn thường lấp đầy toàn bộ khoảng không gian nhỏ bé bên trong chiếc xe lưu động, nhưng bây giờ chỉ còn im lặng. Họ ngồi đối diện nhau bên cái bàn nhỏ, được bao quanh bởi những ảo tưởng riêng biệt. Mỗi người đều lạc trong một thế giới của những kỷ niệm.

Mười bảy năm chập chờn nhanh chóng trôi qua như trong một cuốn phim tâm khảm. Kerstin cảm thấy sức nặng của bé sơ sinh Jenny trong vòng tay mình. Một cách vô thức, bà vòng hai cánh tay mình thành một cái nôi. Cô bé lớn lên và rồi mọi thứ dường như trôi đi quá nhanh. Quá nhanh. Tại sao họ lại dành bao nhiêu thời gian quý báu của mình để gây lộn và cãi nhau? Giá như bà biết được điều gì sẽ xảy ra, bà đã không nói một lời ác ý nào với Jenny. Ngồi bên bàn với một khoảng trống hoác trong lòng, bà thề rằng nếu tất cả mọi chuyện kết thúc tốt đẹp, bà sẽ không bao giờ cao giọng với con gái mình một lần nào nữa.

Bo trông giống như hình ảnh phản chiếu nội tâm hỗn loạn của vợ mình. Chỉ trong một vài ngày, ông đã già đi mười tuổi, khuôn mặt ông nhăn nheo và phiền muộn. Bây giờ là lúc họ phải ngồi với nhau, nương tựa vào nhau, nhưng nỗi kinh hãi đã làm cả hai tê liệt.

Bàn tay ông đặt trên bàn run lẩy bẩy. Bo siết chặt chúng cố gắng ngăn mình đừng run nữa, nhưng lại mở tay ra ngay bởi vì như thế trông giống như ông đang cầu nguyện quá. Cho đến bây giờ ông vẫn từ chối cầu đến bất kỳ thế lực thần thánh nào. Điều đó sẽ buộc ông phải thừa nhận những gì ông đã không dám đối đầu. Ông bám vào một tia hy vọng vô ích rằng con gái ông chỉ đang làm một cuộc phiêu lưu vô hại. Nhưng sâu thẳm bên trong ông biết rằng quá nhiều thời gian đã trôi qua nên điều ấy thật là vô lý. Jenny quá chu đáo và quá tình cảm để có thể cô tình khiến bố mẹ lo lắng như vậy. Họ chắc chắn đã có những cuộc cãi vã, đặc biệt là trong hai năm qua, nhưng ông vẫn luôn an tâm khi biết rằng có một sự gắn bó mạnh mẽ tồn tại giữa họ. Ông biết rằng Jenny yêu thương họ. Câu trả lời duy nhất cho lý do tại sao cô không về nhà là vì một điều gì ghê sợ khủng khiếp. Một điều gì đó đã xảy ra. Kẻ nào đó đã làm gì Jenny yêu quý của họ. Ông cố gắng phá vỡ sự im lặng. Nhưng giọng nói của ông đã phản ông và ông phải hắng giọng trước khi tiếp tục.

“Chúng ta có nên gọi lại cho cảnh sát và xem liệu họ đã có tiến triển gì chưa không?”

Kerstin lắc đầu. “Hôm nay chúng ta đã gọi cho họ hai lần rồi. Chúng ta sẽ biết tin nếu họ phát hiện ra bất cứ điều gì.”

“Nhưng chúng ta không thể cứ ngồi ở đây như vậy được, chết tiệt.” Ông bật dậy, đập đầu vào cái tủ. “Ở đây chật chội khiếp lên được! Tại sao chúng ta cứ phải ép con bé đi nghỉ hè bằng xe lưu động mới được cơ chứ? Nó không muốn đi. Giá như chúng ta cứ ở nhà. Cứ để nó đi chơi với bạn bè nó thay vì ép nó phải ngồi như bị giam ở đây với chúng ta trong cái lỗ này!”

Ông bắt đầu đập nát cái tủ. Kerstin cứ để cho ông làm. Khi cơn giận dữ của ông biến thành nước mắt, bà đứng dậy không nói một lời và vòng tay ôm lấy ông. Họ đứng đó trong im lặng một lúc lâu, hợp nhất trong nỗi sợ hãi và cảm giác đau buồn ngày càng tăng mà họ không thể tránh nổi, bất chấp tất cả những nỗ lực để bấu víu vào hy vọng.

Kerstin vẫn có thể cảm thấy sức nặng của đứa bé trong vòng tay mình.

Mặt trời đang chiếu sáng rực rỡ khi Patrik đi bộ xuống Norra Hamngatan. Anh ngập ngừng một giây trước khi gõ cửa. Nhưng rồi ý thức về nhiệm vụ đã thắng thế và anh mạnh dạn gõ thêm vài cái nữa. Không ai ra mở cửa. Anh thử lại, thậm chí giờ còn quyết tâm hơn. Vẫn không có ai. Rõ là thế. Lẽ ra anh nên gọi điện cho họ trước khi qua. Nhưng khi Martin đến và kể cho anh những gì bố của Tanja vừa nói, Patrik đã phản ứng bốc đồng. Anh nhìn quanh. Một người phụ nữ đang chăm sóc cây ở ngoài sân nhà bên cạnh.

“Xin lỗi, chị có biết nhà Struwer đang ở đâu không? Xe của họ vẫn ở đây, nên tôi cho rằng họ có nhà.”

Chị ta ngừng tay và gật đầu. “Họ đang ở trong nhà thuyền ấy.” Chị ta cầm cái bay làm vườn chỉ về phía một trong những tòa nhà nhỏ màu đỏ nhìn ra biển.

Patrik cảm ơn chị ta và đi xuống một cầu thang đá thấp dẫn tới phía trước nhà thuyền. Một chiếc ghế võng đặt trên bến tàu, và anh có thể thấy Gun đang nằm tắm nắng trong bộ bikini thiếu vải. Anh nhận thấy rằng cả mặt và người bà ta đều nâu như cái bánh quy gừng, và cũng nhăn nheo như thế. Một vài người dường như chẳng hề quan tâm đến nguy cơ ung thư da. Anh hắng giọng để khiến bà chú ý.

“Xin chào, vui lòng thứ lỗi cho tôi vì đã làm phiền bà vào buổi sáng như thế này, nhưng tôi tự hỏi liệu tôi có thể nói vài lời với bà được không.” Patrik nói giọng nghiêm trang, vẫn luôn giống như những khi anh phải báo tin dữ. Đảm đương vai trò của một cảnh sát, không đơn thuần là một con người – đó là cách duy nhất để có thể về nhà và có được một đêm ngon giấc.

“Không có gì. Chỉ một lúc thôi, tôi phải mặc thêm gì đó đã.” Bà ta biến mất vào bên trong nhà thuyền.

Patrik ngồi vào bàn để chờ, cho mình một giây để ngắm cảnh. Bến cảng đã vắng hơn thường lệ, nhưng mặt biển lấp lánh và những con hải âu vẫn bay trên các trụ cầu kiếm ăn. Phải mất vài phút, cuối cùng Gun cũng xuất hiện, bà ta đã mặc áo và quần soóc, và có Lars theo sau. Ông ta trang trọng chào Patrik và ngồi xuống bàn với vợ.

“Chuyện gì vậy? Các anh đã bắt được kẻ giết Siv rồi sao?” Giọng Gun háo hức.

“Không, đó không phải là lý do tôi ở đây.” Patrik ngừng lại và cân nhắc những lời tiếp theo. “Sáng nay chúng tôi đã nói chuyện với bố của cô gái người Đức mà chúng tôi tìm thấy cùng với Siv.” Lại ngừng lại.

Gun nhướng mày nghi hoặc. “Thì sao?”

Patrik nói với bà ta tên của bố Tanja và đã không phải thất vọng vì phản ứng của Gun. Bà ta nhảy chồm lên và cố hớp lấy không khí. Lars nhìn bà ta bối rối, không biết những chuyện này có liên quan gì.

“Nhưng đó là bố của Malin. Anh đang nói gì với tôi? Malin đã chết, phải không?”

Thật khó khăn để cư xử đúng phép ngoại giao. Nhưng nói một cách thô thiển thì nghề của anh cũng đâu phải là ngoại giao. Anh quyết định cứ nói cho bà ta sự thật khống hề tô vẽ.

“Cô ấy đã không chết. Chỉ là ông ta nói thế thôi. Theo ông ta, rõ ràng là việc bà đòi bồi thường có chút – tôi nên nói thế nào đây nhỉ? – phiền hà? Nên ông ta đã dựng lên câu chuyện rằng cháu gái bà đã chết.”

“Nhưng cô gái đã chết ở đây có tên là Tanja, đúng không, không phải là Malin?” Gun trông có vẻ bối rối.

“Rõ ràng là ông ta đã đổi tên cho con gái mình, thành một cái tên có vẻ Đức hơn. Nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, rằng Tanja thực sự là Malin cháu gái của bà.”

Trong một thoáng, Gun Struwer không nói nên lời. Rồi Patrik thấy cơn giận dữ bắt đầu sôi lên trong bà ta. Lars cố gắng đặt một tay lên vai an ủi bà ta, nhưng bà ta hất nó đi.

“Hắn nghĩ hắn là cái quái gì chứ hả? Anh đã bao giờ nghe bất cứ thứ gì vô liêm sỉ đến thế chưa, Lars? Dám nói láo thẳng vào mặt tôi là cháu gái của tôi, máu thịt của tôi, đã chết! Những năm qua, con bé đã sống khỏe mạnh trong khi tôi cứ nghĩ rằng con bé thân yêu tội nghiệp của tôi đã chết một cách khủng khiếp! Và còn dám cả gan làm vậy bởi vì tôi đã quá phiền hà – đã bao giờ anh nghe chuyện gì như thế chưa, Lars? Chỉ vì tôi yêu cầu những thứ rõ ràng là của tôi, thế là tôi thành ra phiền hà!”

Lars lại cố gắng xoa dịu bà ta, nhưng bà ta hất ông ra. Bà ta giận đến nỗi sùi bọt mép.

“Ừ, tôi chắc chắn sẽ quạt cho hắn một trận. Cảnh sát hẳn là có số điện thoại của hắn. Tôi muốn có nó, làm ơn. Thằng Đức ác ôn đó sẽ được nghe hết những gì tôi đang nghĩ về toàn bộ chuyện này.”

Patrik thở dài với chính mình. Anh hiểu rằng bà ta có quyền buồn bực, nhưng theo quan điểm của anh, bà ta đã bỏ qua toàn bộ vấn đề chính yếu mà anh vừa nói. Anh để bà ta nổi con một lúc rồi bình tĩnh nói, “Tôi biết điều này thật khó nghe, nhưng đúng là chúng tôi đã tìm thấy cháu gái của bà bị giết tuần trước. Cùng với Siv và Mona. Nên tôi muốn hỏi bà: bà đã bao giờ có liên hệ với một cô gái trẻ, xưng tên là Tanja Schmidt chưa? Cô ấy chưa liên lạc với bà sao?”

Gun lắc đầu thật mạnh, nhưng Lars nhìn có vẻ suy tư. Ngập ngừng, ông ta nói, “Có ai đó đã gọi điện thoại vài lần nhưng không nói gì cả. Em có nhớ không, Gun? Chắc phải hai hay ba tuần trước, và chúng tôi nghĩ rằng đó là một cuộc gọi đùa. Anh nghĩ xem đó có thể là cô ấy không?”

Patrik gật đầu. “Rất có thể. Hai năm trước ông bố đã kể mọi chuyện cho cô ấy nghe, và có thể cô ấy nghĩ rằng liên lạc với bà thì rất khó. Cô ấy cũng đã đến thư viện và sao chụp lại các bài báo về vụ mất tích của mẹ mình, nên hẳn là cô ấy đến đây để tìm hiểu xem thực sự chuyện gì đã xảy ra với mẹ mình.”

“Cháu yêu bé nhỏ tội nghiệp của tôi.” Gun cuối cùng cũng nhận ra mình được kỳ vọng sẽ cư xử như thế nào và nhỏ mấy giọt nước mắt cá sấu. “Nghĩ mà xem, cháu yêu bé nhỏ của tôi vẫn còn sống, và ở gần đến thế. Giá như chúng tôi có thể gặp nhau từ trước… Loại người gì mà lại làm vậy với tôi cơ chứ? Đầu tiên là Siv và sau đó là Malin bé nhỏ của tôi.” Một ý nghĩ chợt đến với bà ta. “Anh có nghĩ tôi đang gặp nguy hiểm không? Liệu có kẻ nào muốn bắt cóc tôi không? Tôi có cần được cảnh sát bảo vệ không?” Mắt Gun lo lắng đảo giữa Patrik và Lars.

“Tôi không nghĩ vậy là cần thiết đâu. Chúng tôi không tin rằng các vụ giết người có liên quan đến bà theo bất kỳ hướng nào, nên không cần phải lo lắng.” Rồi anh không thể nhịn được: “Với lại, kẻ giết người chỉ nhắm vào các phụ nữ trẻ thôi.”

Ngay lập tức anh lấy làm hối hận vì đã nói ra, và đứng dậy tỏ ý rằng cuộc trò chuyện đã kết thúc. “Tôi thực sự rất tiếc vì đã là người báo tin khủng khiếp này. Nhưng tôi sẽ rất cảm kích nếu bà gọi cho tôi khi nghĩ ra thêm bất cứ điều gì khác. Chúng ta sẽ bắt đầu bằng cách kiểm tra những cuộc gọi kia.”

Trước khi Patrik rời đi, anh ganh tị nhìn ra biển lần cuối cùng.

Gun Struwer là minh chứng tối hậu cho sụ thật là những điều tốt đẹp không phải lúc nào cũng đến với những kẻ xứng đáng.

“Bà ta nói gì?”

Martin đang ngồi trong phòng ăn trưa với Patrik. Như thường lệ, cà phê pha sẵn để lâu lắm rồi, nhưng họ đã quen nên cứ uống ừng ực.

“Đáng ra tôi không nên nói điều này, nhưng mà khốn nạn quá, bà ta thật kinh khủng. Những gì khiến bà ta lo lắng nhất không phải là đã bỏ lỡ bao nhiêu năm trong cuộc đời cháu gái mình, hay là cô gái vừa bị sát hại. Điều làm bà ta bực mình hơn cả là ông bố cô gái đã nghĩ ra một cách hiệu quả để dập tắt yêu sách bồi thường tài chính của bà ta.”

“Khiếp thật.”

Tâm trạng của họ trở nên ảm đạm khi họ ngồi mà suy ngẫm về sự ti tiện của con người. Trong đồn im lặng một cách bất thường. Không thấy Mellberg đâu – hình như ông ta đã đi ngủ trưa. Gösta và Ernst đi bắt lũ cướp cạn, họ gọi thế. Trên thực tế thì chắc họ đang ăn một bữa nhẹ tại trạm nghỉ ven đường nào đó, hy vọng sẽ có những tên cướp tự đi tới giới thiệu bản thân và xin được vào tù. Công tác phòng ngừa của cảnh sát, họ gọi thế. Và có lẽ họ đúng. Trạm nghỉ sẽ được an toàn, ít nhất là khi họ đang ngồi đó.

“Anh nghĩ rằng Tanja lên kế hoạch làm gì khi đến đây? Chắc chắn cô ấy đã không nghĩ đến việc chơi trò thám tử tư và tìm hiểu những chuyện đã xảy ra với mẹ mình.”

Patrik lắc đầu. “Không, tôi không nghĩ vậy. Nhưng tôi có thể hiểu được rằng cô ấy tò mò về những chuyện đã xảy ra. Cô ấy có lẽ muốn nhìn nơi này tận mắt. Tôi chắc rằng sớm hay muộn, cô ấy cũng sẽ liên lạc với bà ngoại. Nhưng tôi nghĩ chắc những gì cô ấy đã nghe bố mình kể cũng chẳng đáng hãnh diện cho lắm, nên có thể đó là lý do tại sao cô ấy lại trì hoãn việc đến thăm. Tôi sẽ không ngạc nhiên chút nào khi chúng ta có được những hồ sơ điện thoại từ Telia, kiểu gì thì các cuộc gọi đến cho Lars và Gun Struwer cũng đến từ một trong những trạm điện thoại công cộng ở Fjällbacka, có lẽ là từ một trong những khu cắm trại.”

“Nhưng làm thế sao mà kết cục của Tanja lại là ở trong Khe Vua cùng với bộ xương của mẹ mình và Mona Themblad?”

“Tôi cũng chỉ suy đoán như anh thôi. Điều duy nhất tôi có thể tưởng tượng ra là chắc cô ấy đã đụng phải thứ gì đó, hay đúng hơn là ai đó, kẻ này có dính líu đến vụ mất tích của mẹ cô ấy và Mona.”

“Nếu vậy thì điều đó sẽ tự động loại trừ Johannes. Ông ta đang an nghỉ trong mộ của mình ở nghĩa trang nhà thờ Fjällbacka.”

Patrik nhìn lên. “Chúng ta có biết không? Chúng ta có biết chắc chắn rằng ông ta thực sự đã chết?”

Martin cười to. “Anh đang đùa à? Ông ta đã treo cổ tự tử năm 1979. Anh không thể nào chết hơn thế được!”

Có chút kích động len vào giọng Patrik. “Tôi biết điều này nghe có vẻ khó tin, nhưng mà này: hãy tưởng tượng xem nếu cảnh sát đang bắt đầu tiến đến quá gần sự thật và anh có thể cảm thấy pháp luật đang thở ngay sát cổ mình. Anh là một gã mang họ Hult và người ta có thể nạo được rất nhiều tiền, nếu không phải là của chính mình thì cũng là của bố mình. Một khoản hối lộ ở đây, một khoản ở kia, và tèn ten – anh đã có giấy chứng tử giả và một chiếc quan tài trống không.”

Martin cười đến nỗi phải ôm lấy bụng. “Anh mất trí rồi! Đây là chúng ta đang nói về Fjällbacka – chứ không phải Chicago vào thập niên 1920. Anh có chắc là anh không phơi nắng quá lâu đấy chứ? Nghe có vẻ như anh bị say nắng rồi. Hãy nhớ lấy một sự thực là con trai ông ta đã tìm thấy ông ta. Làm sao một đứa bé sáu tuổi có thể kể một câu chuyện như thế nếu đó không phải là sự thật?”

“Tôi không biết, nhưng tôi định tìm cho ra. Anh có đi cùng không?”

“Đi đâu?”

Patrik đảo mắt và nhả từng âm tiết. “Tất nhiên là đi nói chuyện với Robert.”

Martin thở dài nhưng vẫn đứng lên. Anh lẩm bẩm, “Cứ như chúng ta còn chưa đủ việc để làm ấy.” Trên đường ra anh chợt nhớ tới một chuyện. “Thế còn phân bón thì sao? Tôi đã định kiểm tra trước bữa trưa.”

“Bảo Annika làm việc đó đi,” Patrik ngoảnh lại nói.

Martin dừng lại ở bàn tiếp tân và để lại cho Annika thông tin cần thiết. Cô đang hưởng một ngay nhan rỗi và rất vui khi có việc để làm.

Martin không thể không tự hỏi liệu có phải họ đang lãng phí thời gian quý báu. Lý thuyết của Patrik dường như quá xa vời, quá hão huyền đến mức chẳng có liên hệ nào với thực tế. Nhưng Patrik là người chỉ đạo vụ này…

Annika bắt tay vào công việc. Mấy ngày qua thật bận rộn, vì cô là người ngồi như con nhện ở giữa mạng nhện mà sắp xếp các đội tìm kiếm Jenny. Nhưng bây giờ họ đã ngừng lại sau ba ngày tìm kiếm phí công vô ích. Vì phần lớn du khách đã rời khỏi vùng này – hậu quả trực tiếp của các sự kiện trong tuần qua, tổng đài ở đồn yên tĩnh đến kỳ quái. Ngay cả các phóng viên cũng bắt đầu mất hứng thú vì đã có những chuyện giật gân mới.

Annika nhìn chăm chú vào những thông tin Martin đã đưa và tìm một số điện thoại trong sổ. Sau khi bị chuyển máy lòng vòng đến các bộ phận khác nhau trong công ty, cuối cùng cô cũng có tên của giám đốc kinh doanh. Cô giữ máy, với tiếng nhạc chờ cứ nheo nhéo trong tai, cô dành thời gian hồi tưởng lại những ký ức mơ màng của tuần nghỉ hè ở Hy Lạp, mà giờ như thể đã vĩnh viễn xa xôi. Trở về từ kỳ nghỉ, cô cảm thấy thư thái, khỏe mạnh và xinh đẹp. Sau khi lao vào cơn lốc xoáy ở đồn, những tác động của kỳ nghỉ đã mất sạch. Cô khao khát những bãi biển cát trắng, làn nước màu ngọc lam và những bát to xốt tzatziki. Cả cô lẫn chồng đều tăng thêm hơn hai cân khi ăn các món Địa Trung Hải ngon tuyệt vời, nhưng điều đó không làm họ lo lắng. Cả hai vốn đâu có gầy, và họ đã chấp nhận điều đó như một thực tế cuộc sống. Họ không hề bối rối mà rất vui vẻ khi thấy những lời khuyên giảm béo trên báo. Khi họ nằm gần nhau, đường cong của họ khớp nhau một cách hoàn hảo, và họ đã trở thành một làn sóng lớn, ấm áp xác thịt cuồn cuộn. Và cũng có rất nhiều cuộc mây mưa trong kỳ nghỉ của họ…

Ký ức về kỳ nghỉ của Annika đột ngột bị cắt ngang bởi một giọng đàn ông du dương, với âm sắc miền Nam Lysekil không thể nhầm lẫn được.

Annika báo với ông ta những gì cô cần biết.

“Ô, thú vị quá. Điều tra một vụ án mạng. Dù đã làm việc ba mươi năm trong ngành kinh doanh phân bón, nhưng đây là lần đầu tiên tôi được nhờ giúp đỡ trong một vụ án mạng.”

Hạnh phúc này có thể mạ vàng cho ngày của ông đấy, Annika chua chát nghĩ, nhưng cô giữ lại bình luận châm biếm này không nói ra, để không cản trở ông ta sốt sắng giúp đỡ cô. Đôi khi sở thích của công chúng đối với tin tức giật gân lại rất gần gũi với sự bệnh hoạn.

“Chúng tôi cần một danh sách khách hàng đã mua phân bón FZ-302,” Annika nói với người đàn ông.

“A, chuyện đó không dễ đâu. Chúng tôi đã ngừng bán loại đó từ năm 1985. Một sản phẩm tuyệt vời, nhưng các quy định mới về môi trường buộc chúng tôi phải ngừng sản xuất nó.” Ông giám đốc kinh doanh thở dài nặng nề trước sự bất công của luật bảo vệ môi trường, thứ đã giới hạn doanh số của một sản phẩm thành công.

“Nhưng tôi đoán là ông vẫn còn vài tài liệu chứ?” Annika dỗ ngọt ông ta.

“À, tôi phải kiểm tra phòng hành chính xem đã, nhưng có thể có thông tin về nó trong các kho lưu trữ cũ. Thực ra, đến tận năm 1987 chúng tôi vẫn lưu trữ tất cả các dữ liệu bằng tay – sau đó mọi thứ mới được số hóa. Nhưng tôi nghĩ rằng chúng tôi đã không vứt thứ gì đi.”

“Ông không nhớ bất cứ ai đã mua…” – cô kiểm tra lại ghi chú – “…loại FZ-302 ở khu vực này?”

“Không, cô bạn ơi. Đã lâu quá rồi, tôi lấy thông tin ở đâu ra được.” Ông ta cười to. “Đã bao nhiêu nước chảy qua cầu kể từ bấy đến nay.”

“Được rồi, thực ra tôi cũng nghĩ mọi chuyện sẽ không được dễ dàng mà. Ông sẽ mất bao nhiêu thời gian để thu thập các thông tin?”

Ông ta suy nghĩ một lúc. “Xem nào, nếu tôi mang ít bánh ngọt đến cho các cô ở phòng hành chính và nói khéo một tí, có lẽ cô sẽ có được câu trả lời vào cuối ngày hôm nay hoặc sáng sớm ngày mai. Vậy được không?”

Vậy là nhanh hơn so với Annika đã hy vọng khi ông ta bắt đầu nói về các kho lưu trữ cũ, nên cô vồn vã cảm ơn ông ta. Cô viết một ghi chú cho Martin về kết quả cuộc trao đổi của cô và đặt nó trên bàn.

“Này, Gösta?”

“Sao thế, Ernst?”

“Liệu đời có bao giờ khá hơn thế này được không?”

Họ đang ngồi tại một trạm nghỉ ven đường bên ngoài Tanumshede, chiếm một cái bàn picnic. Họ chẳng phải tay mơ, nên họ đã lo xa mà mang theo một bình cà phê từ nhà Ernst. Rồi họ mua một túi bánh lớn ở tiệm bánh Tanumshede. Ernst đã mở nút áo sơ mi để phơi bộ ngực trắng bệch hõm sâu ra nắng. Ông ta kín đáo quan sát qua khóe mắt những cô gái trẻ mới ngoài hai mươi đang cười nói trong lúc dừng xe nghỉ ngơi.

“Này, anh rụt lưỡi vào đi. Và cài luôn cả nút áo sơ mi nữa đi. Nếu một đồng nghiệp của ta lái xe qua thì sao? Ta phải trông giống như đang làm việc chứ.”

“Ô, thư giãn chút đi được không? Bọn họ đều đang bận tìm kiếm con gà con kia. Không ai quan tâm ta đang làm gì đâu.”

Mặt Gösta sa sầm. “Cô bé ấy tên là Jenny Möller. Không phải là ‘con gà con’. Và ta cũng nên giúp đỡ chứ nhỉ, thay vì ngồi đây như mấy thằng già bẩn thỉu?” Ông hất hàm về phía các cô gái ăn mặc thiếu vải ngồi cách đó mấy bàn. Ernst gần như không thể rời mắt khỏi họ.

“Anh là một gã dễ nói chuyện. Trước đây tôi chưa bao giờ nghe anh phàn nàn khi tôi cứu anh thoát khỏi những việc thường ngày. Đừng nói với tôi rằng con quỷ đã biến mất và cải đạo khi về già nhé.”

Ernst quay sang nhìn ông, đôi mắt ông ta nheo lại một cách đáng sợ. Gösta thấy chùn bước. Có lẽ nói gì thì cũng là ngu ngốc. Ông luôn có chút sợ Ernst. Ông ta nhắc ông nhớ về tụi con trai thường đứng chờ ông bên ngoài sân trường. Những thằng con trai đó có thể cảm nhận được sự yếu đuối và rồi sau đó chúng sẽ tàn nhẫn khai thác những ưu thế của chúng. Gösta đã thấy chuyện xảy ra cho những kẻ mâu thuẫn với Ernst, và ông lấy làm tiếc vì lời nói của mình. Ông lẩm bẩm đáp.

“À, tôi không có ý gì đâu. Tôi chỉ cảm thấy thương cho bố mẹ cô bé. Cô bé mới chỉ mười bảy tuổi.”

“Đằng nào thì họ cũng có muốn ta giúp đỡ đâu. Vì lý do gì đó mà Mellberg đã bắt đầu bợ đít cái thằng Hedström bỏ mẹ đó, nên sẽ không có chuyện tôi phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mà chẳng được gì đâu.” Giọng ông ta to và thù địch đến nỗi mà các cô gái phải quay lại nhìn họ.

Gösta không dám bảo Ernst hạ giọng xuống, nhưng ông tự nói nhỏ lại và hy vọng rằng Ernst sẽ theo gương. Ông không đề cập đến việc là lỗi của ai mà Ernst đã không còn trong nhóm điều tra nữa. Tự Ernst cũng ỉm đi sai phạm của mình khi không báo cáo Tanja mất tích.

“Tôi nghĩ Hedström đã làm việc rất tốt. Molin cũng rất chăm chỉ. Và thành thật mà nói, tôi đã không đóng góp nhiều hết sức mình,” Gösta nói.

Ernst trông như thể không tin vào tai mình. “Anh nói cái quái gì thế, Flygare? Anh đang ngồi đây mà tuyên bố rằng hai thằng nhãi không có tí kinh nghiệm nào lại có thể làm việc tốt hơn so với chúng ta ư? Có phải đó là những gì anh nói không, cái thằng ngu xuẩn này?”

Nếu Gösta nghĩ trước khi nói, ông đã có thể đoán trước bình luận của ông sẽ ảnh hưởng thế nào đến cái tôi đang tổn thương của Ernst. Giờ thì ông phải đạp ngược trở lại nhanh hết mức có thể.

“Không, ý tôi không hẳn là như thế. Tôi chỉ nói rằng… không, tất nhiên họ không có kinh nghiệm như chúng ta. Và họ vẫn chưa có được bất kỳ kết quả chính xác nào, vì vậy…”

“Không, chắc chắn là chúng không có,” Ernst đồng ý, hơi dịu đi. “Chúng đã làm được cái đếch gì đâu.”

Gösta thở phào nhẹ nhõm. Mong muốn thể hiện chút cứng rắn của ông đã nhanh chóng tiêu biến.

“Thế giờ sao, Flygare? Chúng ta có nên gọi thêm cà phê và bánh nữa không nhỉ?”

Gösta chỉ gật đầu. Ông đã sống quá lâu dưới luật không kháng cự đến nỗi bây giờ nó là thứ duy nhất tự nhiên đến với ông.

Martin nhìn quanh vẻ quan tâm khi họ tới căn nhà nhỏ. Trước đây anh chưa bao giờ đến gặp Solveig và các con trai của bà ta, và anh nhìn chằm chằm vào tình trạng lộn xộn nơi đây với sự chú ý cao độ.

“Làm thế quái nào mà lại có người có thể sống như vậy được nhỉ?”

Họ đã ra khỏi xe và Patrik vung tay lên. “Không phải tôi. Tay tôi đang ngứa ngáy muốn dọn dẹp đống lộn xộn đây này. Tôi nghĩ vài chiếc xe hỏng ở đây chắc đã có từ thời Johannes.”

Gõ cửa xong, họ nghe tiếng bước chân kéo lê. Solveig chắc vẫn ngồi ở vị trí thường lệ của mình ở bàn bếp, và bà ta không vội vàng ra mở cửa.

“Giờ sao? Những công dân trung thực không thể được yên thân nữa à?”

Martin và Patrik nhìn nhau. Câu nói chắc như đinh đóng cột của bà ta quá mâu thuẫn với hồ sơ tội phạm dày cộp của mấy đứa con trai.

“Chúng tôi muốn nói chuyện với bà một chút. Cả Stefan và Robert nữa, nếu họ ở nhà.”

“Chúng đang ngủ.”

Solveig ủ rũ bước sang một bên và để họ vào. Martin không thể che giấu được vẻ chán ghét, Patrik bèn huých anh một cái như để cảnh cáo. Martin nhanh chóng trưng ra vẻ mặt phớt tỉnh nhất của mình và theo Patrik cùng Solveig vào bếp. Bà ta để mặc họ ở đó trong khi đi đánh thức hai đứa con trai, đang ngủ trong phòng chung của họ, như bà ta nói. “Dậy đi chúng mày, bọn cớm lại đến đây rình mò nữa kìa. Dậy đi rồi còn thoát khỏi bọn cai ngục cho nhanh.”

Bà ta tỏ ra không quan tâm liệu Patrik và Martin có thể nghe thấy những gì mình nói hay không. Bà ta đi lạch bạch trở lại bếp và bình tĩnh ngồi xuống chỗ của mình.

Lảo đảo vì ngái ngủ, Stefan và Robert đi ra chỉ mặc mỗi quần lót.

“Mấy ông này không bao giờ bỏ cuộc, phải không nào? Với tôi thì nó bắt đầu giống như quấy rối rồi đó,” Robert nói. Hắn vẫn tỉnh rụi như thường.

Stefan nhìn chằm chằm vào họ qua những lọn tóc rủ xuống mắt. Gã với lấy một gói thuốc lá trên bàn và châm một điếu, lo lắng làm tàn rơi lả tả cho đến khi Robert rít lên bảo gã dừng lại.

Martin tự hỏi đồng nghiệp của anh sẽ đối phó với vấn đề nhạy cảm này ra sao. Anh vẫn còn khá chắc rằng Patrik đang cưỡi ngựa đấu thương với cối xay gió.

“Chúng tôi có một số câu hỏi liên quan đến cái chết của chồng bà.”

Solveig và các con trai bà ta kinh ngạc nhìn Patrik.

“Cái chết của Johannes? Tại sao? Anh ấy đã treo cổ tự tử, và chẳng có gì để nói về chuyện đó nữa cả. Ngoại trừ việc chính những kẻ như các người đã đẩy anh ấy đến cảnh đó!”

Robert giận dữ nói mẹ mình im đi. Hắn trừng mắt nhìn Patrik. “Dù sao thì, các anh đang định làm trò gì vậy? Mẹ tôi nói đúng. Ông ấy đã treo cổ tự tử, và đó là tất cả những gì cần nói.”

“Chúng tôi chỉ muốn tất cả mọi thứ được làm rõ. Anh là người đã tìm thấy ông ấy?”

Robert gật đầu. “Đúng vậy, và tôi sẽ phải sống với hình ảnh đó cho đến hết đời.”

“Anh có thể cho chúng tôi biết chính xác chuyện gì đã xảy ra ngày hôm đó không?”

“Tôi thấy chuyện đấy chẳng để làm gì cả,” Robert chua chát nói.

“Tôi vẫn rất cảm kích nếu anh kể cho chúng tôi,” Patrik thuyết phục hắn, và sau khi chờ một lúc, anh nhận được một cái nhún vai thờ ơ.

“Ờ, nếu điều này có ích gì đó cho các anh, thì…” Giống như em trai mình, hắn cũng châm một điếu thuốc. Khói giờ lơ lửng thành một đám mây dày bao trùm một góc bếp.

“Tôi trở về nhà sau giờ học và đi ra ngoài sân chơi một lúc. Tôi thấy cửa nhà kho đang mở nên tò mò. Tôi đã đi qua đó xem. Ở đó vẫn tối, như thường lệ. Ánh sáng duy nhất xuyên vào qua những thanh gỗ mỏng. Nó có mùi giống như cỏ khô.” Robert trông như thể đã biến mất trong thế giới riêng của mình. Hắn nói tiếp, “Có gì đó không ổn.” Hắn dừng lại. “Tôi không thực sự mô tả được nó, nhưng mà cảm giác khác lắm.”

Stefan nhìn anh trai mình như bị thôi miên. Martin có ấn tượng rằng đây là lần đầu tiên gã được nghe kể chi tiết về cái ngày ông bố treo cổ tự tử.

Robert tiếp tục. “Tôi rón rén đi sâu hơn vào trong, giả vờ mình đang lén tập kích người da đỏ. Tôi nhớn chân nhẹ nhàng bước về phía vựa cỏ khô, và khi đi thêm vài bước nữa, tôi thấy có thứ gì đó đang nằm trên sàn. Tôi đi đến chỗ đó. Khi thấy đó là bố, tôi rất vui. Tôi nghĩ rằng bố đang trêu đùa tôi. Tôi nghĩ rằng tôi phải bước qua bố rồi bố sẽ chồm lên và bắt đầu cù tôi hay gì đó.” Robert nuốt nước bọt. “Nhưng bố không động đậy. Tôi dùng chân chọc vào bố, nhưng ông ấy vẫn nằm yên. Rồi tôi thấy có một sợi dây thừng quấn quanh cổ bố. Khi nhìn lên tôi thấy đoạn dây thừng được buộc vào xà nhà.”

Bàn tay cầm điếu thuốc của hắn đang run lên. Martin liếc nhìn Patrik để xem anh phản ứng thế nào với câu chuyện. Martin thì đã khá chắc chắn là Robert không bịa chuyện. Nỗi đau của Robert quá rõ ràng đến nỗi Martin cảm thấy mình có thể đưa tay ra chạm vào nó. Anh thấy đồng nghiệp của mình cũng có suy nghĩ tương tự.

Nản chí, Patrik tiếp tục. “Sau đó, anh đã làm gì?”

Robert thở một vòng khói rồi nhìn nó tan ra và biến mất.

“Tất nhiên là tôi đã chạy đi gọi mẹ. Mẹ bước vào vựa cỏ khô và bắt đầu thét lên rất to, tôi nghĩ màng nhĩ của tôi sắp nổ tung. Rồi mẹ gọi cho ông nội.”

Patrik sửng sốt. “Không gọi cho cảnh sát à?”

Solveig lo lắng cào cào trên tấm khăn trải bàn và nói: “Không, tôi đã gọi cho Ephraim. Đó là điều đầu tiên tôi nghĩ tới.”

“Thế cảnh sát chưa bao giờ đến đây ư?”

“Không, Ephraim đã lo liệu tất cả mọi thứ. Ông cụ gọi cho bác sĩ Hammarström, lúc đó đang là bác sĩ quận, và ông ta đến khám nghiệm cho Johannes. Rồi ông bác sĩ viết một giấy xác nhận về nguyên nhân cái chết, hoặc là cái gì đó đại loại vậy, và chứng kiến khi người lo việc tang lễ đến và mang anh ấy đi.”

“Nhưng không có cảnh sát à?” Patrik vẫn khăng khăng hỏi.

“Không, tôi đã nói với anh rồi. Ephraim đã lo liệu tất cả mọi thứ. Bác sĩ Hammarström chắc chắn đã nói chuyện với cảnh sát, nhưng họ chẳng bao giờ đến đây. Mà sao họ lại phải đến cơ chứ? Đó là một vụ tự sát!”

Patrik không giải thích rằng cảnh sát phải luôn luôn được gọi đến hiện trường của một vụ tự sát. Rõ ràng Ephraim Hult và ông bác sĩ Hammarström này đã tự cho mình quyền quyết định không liên lạc với cảnh sát trước khi thi thể được mang đi khỏi hiện trường. Câu hỏi đặt ra là: tại sao? Dù trong trường hợp nào, thì cũng rõ ràng là bây giờ họ chưa đi xa thêm được tí nào cả. Nhưng Martin đã có một ý tưởng.

“Các anh đã bao giờ nhìn thấy một phụ nữ trẻ trong khu vực này chưa? Hai mươi lăm tuổi, tóc nâu, vóc dáng trung bình.”

Robert cười to. Tính chất nghiêm trang của câu chuyện hắn vừa kể giờ không để lại bất kỳ dấu vết gì trong giọng nói của hắn. “Quanh đây nhiều bò lạc lắm, các anh phải nói cụ thể hơn một chút.”

Stefan nhìn họ chăm chú. Gã nói với Robert, “Anh đã nhìn thấy một tấm ảnh của cô ta rồi đấy thôi. Cô ta là một trong những cô gái trên báo. Du khách người Đức mà họ tìm thấy cùng với các cô kia.”

Solveig như muốn nổ tung ra. “Các anh đang nói cái quái gì vậy? Tại sao cô ta lại có mặt ở đây được? Các anh định kéo nhà tôi xuống bùn lần nữa sao? Đầu tiên, các anh buộc tội Johannes bắt cóc mấy cô ả nào đó và bây giờ các anh đến đây hỏi con trai tôi những câu hỏi buộc tội. Cút đi! Tôi không bao giờ muốn nhìn thấy các anh ở đây một lần nào nữa! Quỷ tha ma bắt các anh đi!”

Bà ta đứng lên và lùa họ ra bằng toàn bộ sức lực của tấm thân khổng lồ. Robert cười phá lên, nhưng Stefan nhìn đăm chiêu.

Lúc Solveig quay lại, khịt mũi sau khi sập cửa vào Martin và Patrik, thì Stefan đã trở về phòng ngủ của mình mà không nói một lời. Gã kéo chăn lên đầu và giả vờ ngủ. Gã cần phải suy nghĩ về một chuyện.

Ngồi trên chiếc thuyền buồm sang trọng, Anna cảm thấy đau khổ. Gustav đã tự ý mà không hỏi han gì, anh ta ra khơi ngay lập tức và để mình cô ngồi yên lặng nơi mũi tàu, hai tay ôm quanh đầu gối. Với vẻ rộng lượng, anh ta đã chấp nhận lời xin lỗi của cô rồi hứa đưa cô và các con đến Strömstad. Từ đó, họ có thể bắt tàu hỏa về nhà.

Cả đời cô chẳng là gì ngoài một sự hỗn loạn không đổi. Sự bất công trong những lời của Erica khiến mắt cô cay sè những giọt nước mắt giận dữ, nhưng cơn thịnh nộ của cô đã hòa lẫn với nỗi buồn rằng họ cứ xung đột với nhau. Mọi chuyện đã quá phức tạp với Erica. Cô chưa bao giờ bằng lòng với vai trò một bà chị cả – đưa ra lời khuyên và những nhận xét khích lệ. Thay vì thế cô lại tự nhận lấy vào mình vai trò của người mẹ mà không hiểu rằng làm vậy chỉ tổ tăng thêm khoảng trống của tình mẫu tử mà đáng lẽ họ nên có.

Không giống như Erica, Anna chưa bao giờ đổ lỗi cho Elsy vì sự thờ ơ của bà với các con gái. Hoặc ít nhất là Anna đã tin rằng mình chấp nhận điều đó như một sự thật phũ phàng của cuộc đời. Nhưng khi bố mẹ họ đột ngột qua đời, Anna nhận ra rằng cô vẫn luôn hy vọng Elsy sẽ dịu dàng hơn qua năm tháng và đảm đương vai trò của một bà mẹ. Điều đó sẽ cho Erica nhiều không gian hơn để có thể chỉ đơn giản là một người chị gái. Nhưng khi mẹ mất, hai chị em bị mắc kẹt trong những vai trò mà họ đều không biết làm thế nào để thay đổi. Những giai đoạn hòa bình ngấm ngầm chắc chắn đã bị thay thế bằng các chiến hào, và mỗi lần xảy ra chuyện đó, một phần linh hồn Anna lại bị xé ra khỏi thân thể cô.

Bây giờ Erica và bọn trẻ là tất cả những gì cô đang có. Mặc dù không muốn thừa nhận với Erica, nhưng cô đã thấy đúng bản chất của Gustav – một cậu trai hời hợt, hư hỏng. Thế mà cô vẫn không thể chống lại được sự cám dỗ – tự tôn của cô tăng lên khi đi cùng với một người đàn ông như Gustav. Ở trong vòng tay anh ta, cô đã trở nên hữu hình. Mọi người thì thầm và dò hỏi xem cô là ai. Phụ nữ nhìn với vẻ tán thưởng những bộ đồ thiết kế đẹp đẽ mà Gustav mua tặng cô tới tấp. Ngay cả trên mặt nước, mọi người cũng quay lại và chỉ trỏ vào chiếc thuyền buồm lộng lẫy, và cô cảm thấy một niềm tự hào ngu ngốc khi cô nằm dài trên mũi như một người đẹp đang tắm nắng.

Nhưng vào những lúc khác, cô lại cảm thấy xấu hổ khi nhận ra rằng bọn trẻ đang phải trả giá chỉ để cho cô được an tâm. Chúng đã phải chịu đựng quá nhiều trong những năm sống với bố mình, và Anna không khỏi cắn rứt lương tâm nếu dám cho rằng Gustav là một sự thay thế chấp nhận được cho vai trò làm bố. Anh ta nghiêm khắc và thiếu kiên nhẫn với trẻ con, và cô không bao giờ muốn để chúng lại với mình anh ta.

Đôi khi cô cảm thấy ghen tị với Erica bởi cô chị có thể tung hê tất cả. Trong khi Anna đang ở giữa một trận chiến khốc liệt giành quyền nuôi con với Lucas, vất vả kiếm sống, và dính vào một cái được gọi (thật ra) là một mối quan hệ trống rỗng, Erica oai vệ lướt đi như một thánh mẫu đang mang thai. Người đàn ông mà Erica đã lựa chọn làm bố của con mình chính xác là loại đàn ông mà Anna cần để có được hạnh phúc. Nhưng cô vẫn tiếp tục chọn những kẻ không phù hợp chỉ vì tính tự hủy của mình. Erica hiện đang sống một cuộc đời không chút rắc rối về mặt tài chính và thậm chí còn được hưởng chút danh tiếng nhất định. Và điều đó đã làm cho con quỷ ghen tị bé nhỏ giữa hai chị em tái xuất. Anna không muốn nhỏ nhen, nhưng thật khó kìm lại cảm giác cay đắng khi cuộc sống riêng của cô chỉ được vẽ bằng những màu xám xỉn.

Những tiếng la hét vui mừng của bọn trẻ rồi đến tiếng rền rĩ thất vọng của Gustav đã dứt cô ra khỏi nỗi thương thân và đưa cô trở lại với thực tế. Cô khép áo choàng chặt hơn và cẩn thận bước dọc theo lan can về phía đuôi tàu. Sau khi khiến bọn trẻ bình tĩnh lại, cô nặn ra một nụ cười với Gustav. Đời rất dở, nhưng vẫn phải niềm nở vậy.

Laine lang thang trong căn nhà lớn, giống như rất nhiều lần trước đây. Gabriel lại đi công tác, và bà lại một mình. Cuộc gặp gỡ Solveig đã để lại mùi vị khó chịu trong miệng bà, và bà cảm thấy tình cảnh này quá vô vọng. Bà sẽ không bao giờ được tự do. Thế giới bẩn thỉu, méo mó của Solveig cứ bám lấy bà như một thứ mùi hôi hám.

Bà dừng lại trước cầu thang dẫn lên tầng trên cùng phía cánh trái ngôi nhà. Tầng của Ephraim. Laine đã không lên đó kể từ khi ông cụ qua đời, mà có khi từ lâu trước đó nữa kia. Nó luôn là lãnh địa của Jacob, và đôi khi là của Gabriel nữa. Ephraim đã từng ngồi đó và tiếp những vị khách đàn ông, như một lãnh chúa phong kiến. Phụ nữ trong thế giới của ông cụ chỉ là những cái bóng đơn thuần, để phục vụ và làm việc nội trợ ở tầng trệt.

Bà ngập ngừng bước lên cầu thang. Bà dừng lại trước của. Rồi bà kiên quyết đẩy cửa vào. Càn buồng trông y như bà vẫn nhớ trước đây. Cái mùi đàn ông vẫn còn lơ lửng trong căn phòng thinh lặng. Hồi nhỏ con trai bà đã dành rất nhiều thời giờ ở đây. Bà đã rất ghen tị. So với ông nội Ephraim, cả bà và Gabriel đều quá kém cỏi. Đối với Jacob, họ có vẻ tầm thường, buồn tẻ và nhạt nhẽo khủng khiếp, trong khi thằng bé luôn coi Ephraim như thánh sống. Khi ông qua đời đột ngột, phản ứng đầu tiên của Jacob là sửng sốt. Làm sao mà Ephraim lại có thể biến mất đơn giản như thế? Hôm nay ông còn ở đây, hôm sau ông đã mất. Ông có vẻ giống như một pháo đài bất khả xâm phạm, một thực thể bất biến.

Laine xấu hổ khi phải thừa nhận điều này, nhưng khi bà nghe tin Ephraim đã chết, cảm xúc đầu tiên của bà là nhẹ nhõm. Và cả sự đắc thắng rằng ngay cả ông cụ cũng không thể kiểm soát được những quy luật tự nhiên. Đôi khi bà còn nghi ngờ liệu ông cụ có bao giờ chết không. Ông dường như rất chắc chắn rằng mình có thể thao túng và ảnh hưởng đến cả Thiên Chúa.

Cái ghế của Ephraim đặt bên cửa sổ, nhìn ra khu rừng bên ngoài. Cũng như Jacob, bà không thể cưỡng lại cám dỗ, bèn ngồi vào ghế của ông cụ, và trong một thoáng bà nghĩ mình cảm thấy linh hồn của ông ở ngay trong phòng. Những ngón tay bà trầm ngâm lướt theo đường may của vải bọc ghế.

Câu chuyện về khả năng chữa lành của Johannes và Gabriel đã ảnh hưởng đến Jacob. Bà không đồng tình chút nào. Thỉnh thoảng thằng bé lại đi xuống cầu thang với cái nhìn như đang bị thôi miên. Nó luôn luôn làm cho bà sợ hãi. Những lúc ấy bà ôm con trai mình thật chặt và ấn mặt nó vào người bà cho đến khi bà cảm thấy nó đã thả lỏng ra. Khi bà buông nó ra thì mọi thứ trở lại bình thường. Cho đến lần tiếp theo.

Nhưng bây giờ ông cụ đã chết từ lâu và đã được chôn cất rồi. Ơn Chúa.

“Anh thực sự nghĩ rằng có vấn đề gì đó với giả thuyết của anh à? Rằng Johannes có thể đã không chết?”

“Tôi không biết, Martin,” Patrik vừa lái xe vừa nói. “Nhưng bây giờ tôi sẽ chuẩn bị để chộp lấy bất cứ cọng rơm nào tôi có thể tìm thấy. Anh phải công nhận là có chút lạ lùng khi cảnh sát không được phép xem thi thể tại hiện trường vụ tự tử chứ.”

“Tôi biết, nhưng giả sử là cả bác sĩ và người lo việc tang lễ đều ở đó rồi,” Martin nói.

“Nghe vậy chứ không có gì khó tin đâu. Đừng quên rằng Ephraim rất tháo vát. Có tiền mua tiên cũng được. Và tôi sẽ không ngạc nhiên nếu như bọn họ đều quen biết nhau cả. Họ đều là những người nổi bật trong cộng đồng, chắc chắn sẽ cùng tham gia các hội huynh đệ, câu lạc bộ Sư tử, văn phòng thương mại, anh thích gọi là gì thì gọi.”

“Nhưng mà giúp đỡ một nghi can giết người chạy trốn ư?”

“Không phải là một nghi can giết người, mà là một nghi can bắt cóc. Theo những gì tôi biết, Ephraim Hult cũng là một người có sức thuyết phục rất lớn. Có lẽ ông ta đã nói để họ tin rằng Johannes vô tội, nhưng cảnh sát đang định bỏ tù hắn, và đây là cách duy nhất để cứu hắn.”

“Nhưng chẳng lẽ Johannes bỏ mặc gia đình của mình như thế sao? Với hai con trai?”

“Đừng quên rằng Johannes được người ta mô tả như thế nào. Một tay chơi, một người luôn đi theo con đường dễ dàng nhất. Một kẻ coi nhẹ hết thảy những quy tắc và ràng buộc. Nếu có ai sẵn sàng cứu mạng mình với cái giá là cả gia đình, thì đó là Johannes. Kịch bản phù hợp với hắn một cách hoàn hảo.”

Martin vẫn còn hoài nghi. “Nếu đúng như anh nói, thì trong suốt những năm qua hắn đã ở đâu?”

Patrik cẩn thận nhìn cả hai phía trước khi rẽ trái theo hướng Tanumshede. Anh nói, “Có lẽ là ở nước ngoài. Với rất nhiều tiền bố cho trong túi.” Anh nhìn Martin. “Anh có vẻ không bị giả thuyết xuất sắc của tôi thuyết phục nhỉ.”

Martin cười. “Không, anh có thể nói lại lần nữa. Tôi nghĩ rằng nó nghe có vẻ kỳ cục quá, nhưng mặt khác thì cho đến nay vẫn chưa có gì đặc biệt hợp lý trong vụ này cả, vậy thì tại sao không?”

Patrik trở nên nghiêm túc. “Tôi cứ nhìn thấy Jenny Möller trong đầu. Bị giam cầm ở đâu đó bởi kẻ nào đó đang tra tấn cô bé. Chính vì cô bé ấy mà tôi đang cố gắng suy nghĩ khác đi đây. Chúng ta không theo lệ thường được. Không còn đủ thời gian nữa. Chúng ta phải xem xét cả những thứ tưởng như vô lý. Có thể đây chỉ là một ý tưởng điên rồ của tôi, nhưng ngoài ra thì tôi chưa tìm thấy bất cứ điều gì khác thuyết phục được tôi cả. Tôi điều tra mọi hướng có thể là vì cô bé Möller đó, ngay cả khi kết quả là tôi bị coi như một thằng dở.”

Martin giờ đã hiểu rõ hơn lý luận của Patrik. Anh thậm chí còn ngả theo hướng thừa nhận rằng đồng nghiệp của mình có thể đã đúng. “Nhưng anh làm thế nào để xin giấy phép khai quật tử thi trên cơ sở suy luận mỏng manh như vậy, và nhanh như vậy?”

Mặt Patrik đanh lại khi anh nói, “Phải thật cứng đầu, Martin ạ, thật cứng đầu cứng cổ.”

Họ bị tiếng chuông điện thoại của Patrik cắt ngang. Anh trả lời, chỉ nói những tiếng ngắn gọn, trong khi Martin lo lắng nhìn vào và cố đoán xem cuộc trò chuyện nói về cái gì. Chỉ sau khoảng một phút Patrik đã đặt điện thoại xuống.

“Ai đấy?”

“Là Annika. Phòng thí nghiệm đã gọi lại để thông báo về mẫu DNA mà chúng ta đã lấy từ Mårten Frisk.”

“Sao?” Anh chân thành hy vọng rằng anh và Patrik đã sai. Kẻ giết Tanja giờ đang ngồi trong tù.

“Các mẫu không khớp. Tinh dịch mà chúng ta tìm thấy trên cơ thể Tanja không phải là của Mårten Frisk.”

Martin không nhận ra rằng anh đang nín thở cho đến khi không khí từ từ thoát ra trong một hơi thở dài.

“Chết tiệt. Tuy nhiên, cũng chẳng ngạc nhiên mấy, phải không?”

“Không, nhưng chúng ta đã hy vọng.”

Họ buồn rầu ngồi im lặng một lúc. Rồi Patrik nặng nề buông một tiếng thở sâu, như thể thu thập tất cả sức mạnh của mình cho nhiệm vụ mới đang lờ mờ hiện ra mà đã to như trái núi Everest ngay trước mặt họ.

“Không, tất cả những gì chúng ta phải làm bây giờ là xin cho được giấy phép khai quật tử thi trong thời gian kỷ lục.”

Patrik nhặt điện thoại lên và bắt đầu làm việc. Anh sẽ phải tỏ ra thuyết phục chưa từng có trong suốt sự nghiệp của mình. Mà thậm chí anh còn không thuyết phục nổi chính mình rằng anh có thể sẽ làm được.

Tâm trạng của Erica đã nhanh chóng rơi thẳng xuống đáy. Không có việc gì làm, cô đành phải lang thang quanh nhà, la cà ở đây, rồi ở kia. Ký ức về cuộc cãi cọ với Anna đã rữa ra trong tâm trí cô như dư vị khó chịu của con say, kéo tâm trạng của cô xuống thấp hơn nữa. Cô cũng thấy hơi thương hại chính mình. Cô đã thực sự có chút nhẹ nhõm khi Patrik trở lại làm việc, nhưng lại không tính đến chuyện anh sẽ dần bị vụ án này nuốt chửng. Ngay cả khi anh về nhà, cô có thể thấy rằng tâm trí anh vẫn đang bận rộn với vụ giết người. Cô hiểu tính chất nghiêm trọng của công việc anh đang làm, nhưng vẫn có một giọng nói nho nhỏ đáng thương trong cô đang ích kỷ muốn anh tập trung chú ý nhiều hơn vào cô.

Cô gọi điện cho Dan. Có lẽ anh đã về nhà và có thời gian để qua uống một tách cà phê. Con gái lớn của anh nghe máy và nói rằng bố đã đi chơi thuyền với Maria rồi. Rõ là thế. Mọi người đều bận rộn với cuộc sống của mình trong khi cô ăn không ngồi rồi ở đây với cái bụng to đùng.

Khi chuông điện thoại reo, cô chộp lấy nó háo hức đến nỗi suýt làm nó văng ra khỏi ghế.

“Xin chào, Erica Falck xin nghe.”

“Vâng, xin chào. Tôi muốn tìm Patrik Hedström.”

“Anh ấy đang ở chỗ làm. Tôi có thể giúp gì anh không, hay anh muốn gọi vào số di động của anh ấy?”

Người đàn ông ở đầu dây bên kia ngập ngừng.

“Vâng, chuyện là như thế này. Tôi có số của anh ấy từ mẹ anh ấy. Gia đình chúng tôi đã quen biết nhau trong một thời gian dài, và lần cuối cùng tôi nói chuyện với Kristina, bà ấy nghĩ tôi nên gọi cho Patrik nếu tình cờ gặp nhau. Thế nên bây giờ vợ tôi và tôi vừa mới đến Fjällbacka, và…”

Erica đã có một ý tưởng xuất sắc. Đây là giải pháp cho nỗi buồn chán của cô.

“Anh có muốn qua chơi không? Patrik sẽ về nhà lúc năm giờ, vậy anh có thể làm anh ấy bất ngờ. Và chúng ta sẽ có thời gian để làm quen với nhau. Anh nói các anh là bạn từ nhỏ?”

“Vâng, vậy thì tuyệt quá. Hồi nhỏ chúng tôi đã chơi với nhau rất thân. Khi lớn lên thì chúng tôi không gặp nhau nhiều nữa, nhưng thỉnh thoảng chúng tôi vẫn cố gắng thu xếp gặp nhau một lần. Thời gian trôi đi nhanh quá.” Anh ta cười khe khẽ.

“Vậy thì chúng ta chắc chắn cần phải khắc phục tình trạng đó. Bao lâu nữa thì anh có thể tới đây được?”

Anh ta trao đổi với ai đó ở phía sau và nhanh chóng trở lại đường dây.

“Chúng tôi không có kế hoạch đặc biệt nào, nên chúng tôi có thể qua ngay lập tức, nếu được.”

“Hết sảy!”

Erica cảm thấy nhiệt tình trở lại cùng với viễn cảnh được thay đổi không khí. Cô chỉ đường cho họ tới và vội vàng pha một bình cà phê. Khi chuông cửa reo, cô nhận ra rằng cô đã quên hỏi tên của họ. Ừm, họ có thể bắt đầu với lời giới thiệu…

Ba giờ sau, Erica đã chán muốn khóc. Cô chớp mắt và tập trung chút sức lực cuối cùng của mình trong nỗ lực để tỏ vẻ quan tâm.

“Một trong những khía cạnh thú vị nhất trong công việc của tôi là theo dòng các BBDLCG. Như tôi đã nói lúc trước, BBDLCG là viết tắt của ‘biên bản dữ liệu cuộc gọi’, hay là các giá trị chứa thông tin về việc ai đó nói chuyện điện thoại trong bao lâu, gọi từ đâu, vân vân. Khi soạn tất cả các BBDLCG, chúng tôi có được một nguồn khá tuyệt vời những thông tin liên quan đến ‘mô hình hành vi’ của khách hàng…”

Dường như anh ta sẽ lải nhải mãi mãi. Anh chàng này có bao giờ im lặng không? Jorgen Berntsson đã quá tẻ nhạt đến nỗi làm cho Erica chảy cả nước mắt, và vợ anh ta cũng không thua kém là mấy. Không phải vì cô ta cũng ăn nói dài dòng, chán ngắt như anh chồng, mà là vì cô ta chẳng nói một lời nào khác ngoài tên mình.

Khi Erica nghe tiếng bước chân của Patrik ngoài hiên, cô vui mừng nhảy lên khỏi xô-pha và đi ra đón anh.

“Mình có khách,” cô rít lên.

“Ai?” Anh thì thầm đáp lại.

“Một người bạn thời thơ ấu của anh. Jorgen Berntsson. Và vợ của anh ta.”

“Ồ không, hãy nói là em đang đùa đi.” Anh thốt ra một tiếng rên.

“Xin lỗi, em không đùa đâu.”

“Làm thế quái nào mà họ lại ở đây được?”

Erica cụp mắt xuống vẻ tội lỗi. “Em đã mời họ. Như một bất ngờ dành cho anh.”

“Em đã làm gì cơ?” Giọng anh to hơn một chút so với dự định và anh thì thầm, “Tại sao em lại mời họ tới đây?”

Erica xòe tay ra. “Em chán chết đi được, và anh ta nói rằng anh ta là một người bạn cũ, nên em tưởng rằng anh sẽ vui lòng.”

“Em có biết đã bao nhiêu lần hắn chơi xấu anh khi hai đứa còn là trẻ con không? Và sau đó thì hắn cũng chẳng vui tính hơn được chút nào.”

Họ nhận ra rằng họ đã đứng một lúc lâu đến đáng ngờ ngoài sảnh. Hai người hít một hơi thật sâu để tập trung sức lực.

“Ê, chào anh bạn! Thật bất ngờ!”

Erica rất ấn tượng với khả năng đóng kịch của Patrik. Cô chỉ cười yếu ớt khi họ ngồi xuống với Jorgen và Madeleine.

Một giờ sau, cô đã sẵn sàng mổ bụng tự sát. Patrik đã chịu đựng được vài giờ mà vẫn cố gắng tỏ ra tương đối quan tâm.

“Thế anh chỉ qua đây chơi thôi hả?”

“Ừ, bọn tôi định lái xe đến bờ biển. Bọn tôi dừng lại thăm một người bạn học cũ của Madde ở Smogen và một anh chàng ở Lysekil mà tôi từng làm việc cùng. Hai việc tuyệt vời nhất trên đời. Đi nghỉ mát và gặp lại người quen cũ cùng một lúc!”

Jorgen phủi một vệt bụi tưởng tượng trên quần và liếc vợ một cái trước khi quay trở lại với Patrik và Erica. Thực sự thì anh ta thậm chí còn không phải mở miệng. Họ đã biết tiếp theo là gì.

“À, giờ bọn tôi mới thấy anh chị có một ngôi nhà thật đẹp ở đây – mà còn rộng rãi quá nữa chứ,” anh ta nhìn lướt qua phòng khách như một chuyên viên định giá thuế, “bọn tôi muốn hỏi liệu có thể ở lại một hai đêm được không? Hầu hết các khách sạn đều kín phòng rồi.”

Jorgen và Madeleine nhìn chằm chằm vào Patrik và Erica chờ đợi. Và không cần phải có khả năng thần giao cách cảm Erica cũng hiểu những oán thán mà Patrik đang ngấm ngầm gửi về phía cô. Nhưng hiếu khách là một quy luật tự nhiên đối với hai người họ. Không có cách nào để thoát được.

“Tất nhiên là anh chị có thể ở lại nếu muốn. Bọn tôi có một phòng dành cho khách, anh chị có thể sử dụng.”

“Tuyệt vời quá! Chúa ơi, sẽ vui lắm đây! Tôi đang nói đến đâu rồi ấy nhỉ? À vâng, khi chúng tôi đã thu thập đủ tài liệu BBDLCG để có thể chạy các phân tích thống kê, thì…”

Buổi tối biến mất dần như trong một màn sương. Nhưng họ đã học hỏi được nhiều hơn mong đợi về công nghệ viễn thông.

Chuông điện thoại cứ reo và reo mãi ở đầu kia. Không có ai trả lời. Tiếng hộp thư thoại vang lên: “Xin chào, Linda đây. Để lại lời nhắn sau tiếng bíp và tôi sẽ gọi lại ngay khi có thể.” Stefan khó chịu dập máy. Gã đã để lại bốn tin nhắn mà cô vẫn chưa gọi lại. Gã ngập ngừng bấm số ở Västergärden. Gã hy vọng Jacob đang đi làm. Gã đã gặp may. Marita trả lời.

“Xin chào, có Linda ở đó không?”

“Có, em ấy đang ở trong phòng. Ai đang gọi đấy?”

Gã lại do dự. Nhưng có lẽ Marita sẽ không nhận ra giọng nói của gã ngay cả khi gã nói tên.

“Nói với cô ấy tôi là Stefan.”

Gã nghe tiếng chị ta đặt máy xuống và đi lên lầu. Gã hình dung ra nội thất của dinh thự ở Västergärden, bây giờ đã rõ ràng hơn trong tâm trí khi gã lại nhìn thấy nó sau nhiều năm.

Một lúc sau Marita trở lại. Bây giờ giọng chị ta đã có vẻ cảnh giác.

“Em ấy bảo không muốn nói chuyện với anh. Tôi có thể biết anh là Stefan nào không?”

“Cảm ơn chị đã giúp, nhưng tôi phải đi đây.” Gã vội vã cúp máy.

Những cảm xúc mâu thuẫn giằng xé gã. Gã chưa bao giờ yêu ai như yêu Linda. Có nhắm mắt lại gã vẫn có thể hình dung mình được chạm vào làn da trần của cô. Đồng thời gã cũng ghét cô. Chuỗi phản ứng này đã bắt đầu khi họ gặp lại nhau như hai chiến binh ở Västergärden. Cảm giác thù hận và mong muốn làm tổn thương cô đã mạnh mẽ đến nỗi gã gần như không thể kiềm chế được mình. Làm sao hai cảm xúc khác nhau đến vậy lại có thể tồn tại song hành chứ?

Có lẽ gã đã ngu ngốc khi tin rằng họ thực sự phù hợp với nhau. Chuyện này chẳng hơn một trò chơi đối với cô. Bây giờ ngồi bên điện thoại gã cảm thấy mình giống một thằng ngốc, và cảm giác đó như đổ thêm dầu vào ngọn lửa giận dữ đang thiêu đốt bên trong. Nhưng gã có thể làm vài chuyện khiến cho cô phải chia sẻ cảm giác bị sỉ nhục với mình. Cô rồi sẽ hối tiếc những ngày mà cô đã tin rằng có thể thích làm gì gã thì làm.

Gã sẽ nói ra những gì gã đã thấy.

Patrik chưa bao giờ nghĩ rằng anh sẽ xem một cuộc khai quật tử thi là sự thay đổi thú vị trong một ngày đơn điệu. Nhưng sau buổi tối dài đau khổ với Jorgen và Madeleine, thậm chí việc này cũng thật dễ chịu.

Mellberg, Martin và Patrik đứng yên lặng trong nghĩa trang nhà thờ Fjällbacka và quan sát cảnh rùng rợn đang diễn ra trước mặt họ. Mới bảy giờ sáng và nhiệt độ khá dễ chịu, mặc dù mặt trời đã lên được vài giờ. Vài chiếc xe phóng ngang qua nghĩa trang nhà thờ, và trừ tiếng chim líu lo thì âm thanh duy nhất là tiếng những chiếc xẻng ấn mạnh vào mặt đất lạo xạo.

Đó là một trải nghiệm mới với cả ba người. Một vụ đào mộ là dịp hiếm có trong công việc hằng ngày của một cảnh sát, và không ai trong số họ thực sự biết việc này được thực hiện như thế nào, từ góc độ hoàn toàn thực tế. Họ sẽ mang đến một cái máy xúc nhỏ và cày xuống các lớp đất để tới chỗ quan tài? Hay một đội đào mộ chuyên nghiệp sẽ thực hiện cái nhiệm vụ khủng khiếp này bằng tay? Phương án sau hóa ra là gần với sự thật hơn. Vẫn những người chuyên đào mộ để chôn cất nay lại cố gắng khai quật một người đã an nghỉ lên. Họ kiên trì thọc những cái thuổng vào đất, không nói một lời. Mà có gì để nói đâu? Trò chuyện về trận đấu trên truyền hình đêm qua? Nói về bữa nướng cuối tuần trước? Không, lúc này tính nghiêm trang đã phủ một tấm mạng che nặng nề im lặng lên trên công việc của họ và nó sẽ vẫn còn đó cho đến lúc chiếc quan tài rốt cuộc cũng được nhấc ra khỏi chốn an nghỉ của mình.

“Anh có chắc chắn rằng anh biết mình đang làm gì không, Hedström?”

Mellberg có vẻ bồn chồn, và Patrik chia sẻ nỗi lo lắng của mình với ông ta. Ngày hôm qua ông ta đã vận dụng tất cả sức mạnh thuyết phục của mình – nài nỉ, đe dọa và cầu xin – để khiến bánh xe công lý quay nhanh hơn bao giờ hết, nên họ mới nhận được giấy phép đào mộ Johannes Hult. Nhưng sự nghi ngờ vẫn chỉ là một linh cảm, không hơn.

Patrik không phải là một người sùng đạo, nhưng ý nghĩ rằng mình đang quấy quả sự yên bình của ngôi mộ vẫn khiến anh buồn bực. Có gì đó thiêng liêng trong sự tĩnh lặng của nghĩa trang nhà thờ và anh hy vọng rằng người chết đã bị quấy rầy bởi lý do chính đáng.

“Ngày hôm qua Stig Thulin đã gọi cho tôi từ tòa thị chính, và ông ta không vui, tôi phải nói với anh như thế. Rõ ràng là hôm qua một trong số các anh đã gọi điện và làm phiền ông ta về âm mưu nào đó giữa Ephraim Hult và hai trong số những người đàn ông đáng kính nhất ở Fjällbacka. Anh đã đề cập đến hối lộ và có Chúa mới biết còn gì khác nữa. Ông ta cực kỳ khó chịu. Ephraim có thể đã chết, nhưng bác sĩ Hammarström vẫn còn sống, và cả người lo dịch vụ mai táng hồi đó nữa. Nếu hóa ra là chúng ta đang xướng lên những cáo buộc vô căn cứ, thì…”

Mellberg ngửa hai tay ra. Ông ta không cần phải kết thúc câu nói của mình. Patrik biết hậu quả sẽ là gì. Đầu tiên, anh sẽ bị khiển trách một trận nhớ đời, rồi anh sẽ vĩnh viễn là trò cười của đồn cảnh sát.

Mellberg dường như đọc được ý nghĩ của anh. “Cho nên anh đúng thì sẽ tốt hơn đấy, Hedström!”

Ông ta chỉ một ngón tay mập mạp vào ngôi mộ của Johannes và sốt ruột đổi chân trụ. Đống đất đã cao hơn một mét, mồ hôi lấp lánh trên lông mày những người đào mộ. Sẽ không còn lâu nữa.

Sáng nay khiếu hài hước của Mellberg đã giảm đi một chút. Dường như không chỉ vì giờ giấc quá sớm và nhiệm vụ quá khó chịu. Còn hơn thế nữa kia. Sự cáu kỉnh trước đây từng là một phần thâm căn cố đế của ông ta giờ đã trở lại sau vài tuần thay đổi tính khí rõ rệt. Tâm trạng tồi tệ của ông ta vẫn chưa đạt đến múc tối đa, nhưng cũng sắp sửa rồi. Ông ta chẳng làm gì trừ việc phàn nàn, chửi thề và càu nhàu suốt thời gian chờ đợi. Thật kỳ lạ, như vậy cảm giác lại thoải mái hơn thời gian ân cần thân mật ngắn ngủi vừa qua. Hoặc ít nhất thì cũng là quen thuộc hơn. Mellberg rời khỏi chỗ họ, vẫn chửi thề, đi ra và nịnh hót đội chuyên gia từ Uddevalla vừa mới đến để hỗ trợ.

Martin thì thầm, “Dù nó có là gì đi nữa, thì nó cũng đã hết rồi.”

“Anh nghĩ nó là gì mới được?” Patrik hỏi.

“Chứng điên nhất thời?”

“Hôm qua Annika đã nghe được một tin đồn rất buồn cười.”

“Gì thế? Kể cho tôi đi.”

“Hôm qua ông ta tan làm sớm…” Patrik bắt đầu.

“Thế thì có gì mới mẻ đâu.”

“Không, có lẽ anh nói đúng. Nhưng Annika nghe thấy ông ta gọi đến sân bay Arlanda ở Stockholm. Và hình như ông ta đang vội lắm.”

“Arlanda? Chắc ông ta đi đón ai đó nhỉ? Ông ta vẫn ở đây, nên ông ta không thể là người bay đi đâu được.” Martin trông cũng kinh ngạc như Patrik. Và tò mò.

“Ông ta làm gì ở đó thì tôi cũng chẳng biết rõ hơn anh. Nhưng tình tiết đã trở nên phúc tạp ly kỳ…”

Một trong những người đào mộ vẫy tay với họ. Họ thận trọng đi đến bên đống đất lớn và nhìn xuống cái hố. Một cái quan tài màu nâu đã lộ ra.

“Người của các anh đây. Chúng tôi đưa hắn lên nhé?”

Patrik gật đầu. “Cẩn thận nhé. Tôi sẽ nói với cả đội, rồi họ sẽ tiếp quản công việc ngay khi các anh mang được quan tài lên.”

Anh đã đi qua ba chuyên viên đến từ Uddevalla. Họ trông có vẻ nghiêm trọng và đang nói chuyện với Mellberg. Một chiếc xe tang từ nhà tang lễ đã tiến vào trên con đường rải sỏi và đậu sẵn ở đó với cửa sau mở toang, sẵn sàng để vận chuyển quan tài, dù có hay không có cái xác bên trong.

“Chúng tôi hầu như đã sẵn sàng. Chúng ta sẽ mở quan tài ở đây, hay các anh sẽ làm chuyện đó ở Uddevalla?”

Người đứng đầu đội Pháp y, Torbjom Ruud, không trả lời Patrik mà lại bảo người phụ nữ duy nhất trong nhóm đi ra chụp vài tấm ảnh. Xong việc đó, ông ta mới quay sang Patrik.

“Có lẽ chúng tôi sẽ mở nắp quan ở đây. Nếu anh nói đúng và chúng tôi không tìm thấy cái xác nào trong quan tài, thì phần việc của chúng tôi đã xong. Nếu kịch bản có nhiều khả năng xảy ra hơn lại xảy ra thật, và có một cái xác trong quan tài, thì chúng tôi sẽ mang nó đến Uddevalla để nhận dạng. Bởi vì tôi giả định đó là những gì anh muốn làm, đúng không?” Bộ ria hải mã của ông ta rung rung khi ông ta nhìn Patrik chế nhạo.

Patrik gật đầu. “Đúng vậy, nếu có một cái xác trong quan tài, tôi muốn xác nhận chắc chắn một trăm phần trăm rằng đó là Johannes Hult.”

“Chúng tôi có thể làm được việc đó. Hôm qua tôi đã trung dụng hồ sơ nha khoa của hắn, do đó anh sẽ không tốn thời gian chờ đợi. Tôi biết đây là chuyện khẩn cấp, rốt cuộc…”

Ruud cụp mắt xuống. Ông ta có một cô con gái mười bảy tuổi và không cần phải thông báo tính cấp bách của tình hình cho ông ta biết. Vậy cũng đủ để tưởng tượng ra một phần nhỏ của nỗi kinh hoàng mà bố mẹ Jenny Möller đang phải chịu.

Họ im lặng nhìn quan tài từ từ được đưa lên khỏi mộ. Cuối cùng họ cũng nhìn thấy cái nắp hiện ra, và bàn tay Patrik bắt đầu râm ran lên vì căng thẳng. Họ sẽ biết ngay thôi. Qua khóe mắt anh nhìn thấy có gì đó di chuyển ở ngoài rìa nghĩa trang nhà thờ. Anh quay lại nhìn. Khốn thật! Qua cánh cổng dẫn đến trạm cứu hỏa Fjällbacka anh thấy Solveig đang đi đến, dồn hết tốc độ lao về phía trước. Bà ta không thể chạy nổi, nên cứ lạch bạch y như một con tàu trong vùng biển động, đôi mắt vẫn dán chặt vào ngôi mộ nơi cỗ quan tài giờ đây đã lộ ra toàn bộ.

“Chúng mày nghĩ chúng mày đang làm cái quái gì vậy, mấy thằng bú kẹc này?”

Những chuyên viên đến từ Uddevalla, chưa từng gặp Solveig Hult trước đây, nhăn mặt trước thứ ngôn ngữ thô tục này. Giờ nhìn lại, Patrik mới nhận ra rằng đáng lẽ họ phải dự đoán được chuyện này và bố trí hàng rào. Anh đã nghĩ rằng giờ này còn sớm, đủ để giữ cho người ta khỏi đến xem khai quật. Mặc dù, tất nhiên, Solveig không phải là người ta nào đó. Anh đi đến gặp bà ta.

“Solveig, bà không nên ở đây.”

Patrik nhẹ nhàng nắm lấy cánh tay bà ta. Bà ta vùng ra và bước qua anh.

“Chúng mày không bao giờ bỏ cuộc à? Bây giờ chúng mày còn làm phiền Johannes dưới mộ nữa à? Có phải chúng mày đang cố phá hoại cuộc sống của chúng tao bằng bất cứ giá nào không?”

Chưa ai kịp phản ứng, Solveig đã lao đến chỗ quan tài và quăng mình lên đó. Bà ta rên rỉ như một góa phụ Ý tại một đám tang, đập nắm tay trên nắp quan tài. Mọi người đều đứng như đóng băng. Không ai biết phải làm gì. Rồi Patrik nhìn thấy hai người đang chạy đến, từ chính cái hướng Solveig khi nãy xuất hiện. Stefan và Robert nhìn những viên cảnh sát đầy hận thù khi chạy đến chỗ mẹ họ.

“Đừng làm vậy, mẹ ơi. Nào, về nhà thôi.”

Không ai di chuyển. Chỉ nghe thấy tiếng than khóc ai oán của Solveig và giọng cầu khẩn của các con trai bà ta trong nghĩa trang nhà thờ. Stefan quay lại.

“Bà ấy đã thức cả đêm. Kể từ khi các ông gọi điện và nói với bà ấy những gì các ông sẽ làm. Chúng tôi đã cố gắng ngăn bà ấy lại, nhưng bà ấy đã lẻn ra ngoài. Các ông đúng là những con quỷ, cái trò này sẽ không bao giờ kết thúc sao?”

Câu chữ của gã giống như vọng lại những lời bà mẹ nói. Trong một khoảnh khắc tất cả đều cảm thấy xấu hổ vì những việc bẩn thỉu họ bắt buộc phải làm, nhưng bắt buộc là một từ đúng. Họ phải hoàn thành những việc họ đã bắt đầu.

Torbjom Ruud gật đầu với Patrik và họ đi qua giúp Stefan và Robert nhấc Solveig ra khỏi quan tài. Dường như sức mạnh cuối cùng của bà ta đã được dùng hết, và bà ta đổ sụp vào lòng Robert.

“Hãy làm những gì các ông phải làm, nhưng sau đó hãy để cho chúng tôi được yên,” Stefan nói mà không nhìn vào họ.

Hai đứa con trai dìu mẹ ở giữa, đi về phía cổng dẫn ra ngoài nghĩa trang nhà thờ. Không ai di chuyển cho đến khi họ đã biến mất khỏi tầm nhìn. Không ai nhận xét về những gì đã xảy ra.

Cỗ quan tài ở bên cạnh huyệt mộ đã mở, vẫn chứa đựng những bí mật của nó.

“Cảm giác có cái xác nào bên trong không?” Patrik hỏi những người đàn ông đang nâng quan tài lên.

“Cũng khó nói. Chỉ riêng cỗ quan tài đã nặng lắm rồi. Và đôi khi đất cát có thể rơi vào qua một lỗ thủng. Cách duy nhất để biết được là phải mở nó ra.”

Không thể hoãn lại cái khoảnh khắc này được nữa. Người chụp ảnh đã chụp tất cả những bức ảnh cần thiết. Ruud và các đồng nghiệp của ông ta đeo găng tay vào và bắt đầu làm việc.

Nắp quan tài từ từ được mở ra. Mọi người đều nín thở.

Tám giờ đúng, Annika gọi điện. Họ đã có cả buổi chiều hôm qua để tìm kiếm các tài liệu lưu trữ, giờ chắc phải tìm thấy gì đó rồi. Cô đã đúng.

“Cô đúng giờ quá. Chúng tôi vừa tìm thấy một thư mục chứa danh sách khách hàng đã mua FZ-302. Mặc dù rất tiếc phải nói với cô rằng tôi không có tin tốt đâu. Mà biết đâu rốt cuộc nó lại là tin tốt. Chúng tôi chỉ có một khách hàng ở gần khu vực của cô thôi. Rolf Persson, hiện vẫn là khách mua hàng ở đây, nhưng tất nhiên không phải của sản phẩm đó. Địa chỉ đây.”

Annika viết nhanh thông tin mà người đàn ông cung cấp vào một tờ giấy nhớ. Thật thất vọng khi không có nhiều cái tên hơn. Chỉ có một khách hàng để kiểm tra thì hơi hẻo, nhưng ông giám đốc kinh doanh có thể đã nói đúng. Có lẽ đây là một tin tốt. Một cái tên duy nhất thực sự là tất cả những gì họ cần.

“Gösta?” Cô xoay ghế sang phía cửa và ló đầu ra ngoài hành lang để gọi ông.

Không có ai trả lời. Cô gọi lại lần nữa, lần này to hơn, và hài lòng khi thấy Gösta cũng ló đầu ra hành lang.

“Tôi có việc cho ông đây. Chúng ta có tên của một người nông dân ở trong vùng đã sử dụng loại phân bón được tìm thấy trên thi thể các cô gái.”

“Chúng ta nên hỏi ý kiến Patrik trước đã chứ?”

Gösta miễn cưỡng không muốn đi. Ông vẫn còn ngái ngủ và đã dành mười lăm phút vừa qua ngồi trước bàn phím, vừa ngáp vừa dụi mắt.

“Patrik, Mellberg và Martin đang ở chỗ khai quật. Bây giờ chúng ta không thể làm phiền họ được. Ông biết tại sao phải vội mà. Lần này chúng ta không thể cứ quan liêu được, Gösta.”

Ngay cả trong hoàn cảnh bình thường, thật khó để từ chối Annika khi cô khăng khăng làm gì đó, mà bây giờ thì Gösta cũng phải đồng ý rằng cô muốn ông giúp đỡ là vì tình huống đặc biệt khẩn cấp. Ông thở dài.

“Đừng đi một mình,” Annika nói. “Có phải chúng ta đang truy lùng một thằng cha buôn lậu rượu tầm thường nào đó đâu. Hãy để Ernst đi với ông.”

Rồi cô lẩm bẩm gì đó nhỏ tiếng quá nên Gösta phải căng tai ra để nghe.

“Chúng ta cũng phải để gã óc chó đó làm việc gì chứ.” Rồi cô lại nói bằng giọng bình thường. “Và nhất định phải tìm kiếm ở chỗ đó thật cẩn thận. Nếu ông thấy bất kỳ dấu hiệu nào đáng ngờ dù là nhỏ nhất, đừng cho ai biết, mà hãy trở lại đây và báo cáo với Patrik. Rồi anh ấy có thể quyết định xem chúng ta nên làm gì.”

“Tôi không biết là cô đã được thăng chức thành thư ký cho trưởng đồn đấy, Annika. Chuyện gì đã xảy ra trong kỳ nghỉ của cô vậy?” Gösta chua chát lẩm bẩm. Nhưng ông không dám nói đủ to để cho Annika nghe thấy. Như thế chẳng khác gì tự đâm đầu vào rắc rối, ông đâu có điên.

Ngồi đằng sau cửa sổ của mình, Annika mỉm cười. Cặp kính của cô vẫn ngự trên chóp mũi như thường lệ. Cô biết chính xác những ý nghĩ bất mãn nào đang lẹt xẹt trong đầu Gösta, nhưng cô cũng chẳng quan tâm lắm. Cô đã không còn coi trọng ý kiến của ông ta từ lâu rồi. Chỉ cần ông ta làm phần việc của mình và không phá hỏng nhiệm vụ này là được. Ông ta và Ernst có thể là một kết hợp nguy hiểm khi được cử ra ngoài điều tra cùng nhau. Nhưng trong trường hợp này, cô phải trích lời Kajsa Warg, tác giả cuốn sách nấu ăn nổi tiếng của Thụy Điển thế kỷ mười tám: “Méo mó có hơn không.”

Ernst chẳng vui lòng chút nào khi bị xua ra khỏi giường. Biết sếp sáng nay đi vắng nên ông ta định ngủ nướng một chút trước khi bị yêu cầu trình diện ở đồn. Tiếng chuông reo chói tai chắc chắn sẽ xáo trộn hết cả kế hoạch của ông ta.

“Cái quái gì thế?”

Bên ngoài cửa Gösta đang ấn ghì ngón tay vào cái chuông.

“Chúng ta có công việc cần làm đây.”

“Không chờ thêm một tiếng được à?” Ernst càu nhàu nói.

“Không, chúng ta phải đi ra ngoài và thẩm vấn một người nông dân đã mua loại phân bón mà đám chuyên viên tìm thấy trên mấy cái xác.”

“Có phải thằng bỏ mẹ Hedström đó ra lệnh không? Nó bảo cả tôi đi cùng nữa à? Tôi tưởng tôi bị cấm dự phần vào cái cuộc điều tra chết giẫm của nó cơ mà?”

Gösta đấu tranh tư tưởng xem liệu nên nói dối hay nói thật. Ông quyết định nói thật.

“Không, Hedström đã đi Fjällbacka với Martin và Mellberg. Chính Annika đã bảo chúng ta đi.”

“Annika?” Ernst cười gằn. “Từ khi nào mà anh với tôi lại phải nhận lệnh từ một con thư ký ranh? Không, tôi sẽ quay vào giường đây.”

Vẫn cười khùng khục, ông ta chực sập cửa vào mặt Gösta, nhưng một cái chân chặn vào cửa ngăn ông ta lại.

“Nghe này, tôi thực sự nghĩ rằng chúng ta phải đi kiểm tra chuyện này.” Gösta dừng lại rồi sử dụng lý lẽ duy nhất mà ông biết Ernst sẽ lắng nghe. “Hãy tưởng tượng đến vẻ mặt của Hedström nếu chúng ta phá được vụ này. Ai biết được, có lẽ thằng cha nông dân này lại nhốt các cô gái ở ngay chỗ của hắn. Chẳng phải sẽ rất tuyệt nếu có thể trưng ra cho Mellberg cái tin này ư?”

Một tia sáng quét qua mặt Ernst, xác nhận rằng lý lẽ này đã trúng đích. Ông ta tưởng như đã nghe thấy những lời khen ngợi từ sếp.

“Được rồi, chờ một lát, tôi mặc quần áo đã. Gặp anh ngoài xe nhé.”

Mười phút sau, họ đã trên đường hướng tới Fjällbacka. Trang trại của Rolf Persson nằm ngay phía Nam lãnh địa của gia đình Hult, và Gösta không thể không tự hỏi liệu đó có phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Sau một lần rẽ nhầm, họ đã tìm thấy đúng đường và đậu xe vào trong sân. Không có lấy một dấu hiệu của sự sống ở đây. Khi đã đến trang trại, họ xuống xe và nhìn quanh.

Trang trại này trông giống như mọi trang trại khác trong vùng. Một vựa cỏ với những bức tường bằng gỗ đỏ cách ngôi nhà một tầm ném đá, ngôi nhà màu trắng với những khung cửa sổ viền xanh. Mặc dù báo chí nói rằng doanh số bán hàng vào EU đã khiến nông dân Thụy Điển bội thu, Gösta biết thực tế ảm đạm hơn nhiều. Không thể tránh khỏi ấn tượng là trang trại đang mục nát. Chủ nhân dường như đã làm hết sức để duy trì nó, nhưng nước sơn ở cả trang trại và vựa cỏ đều đã bắt đầu bong tróc, và cảm giác tuyệt vọng lan tỏa đang bám chặt vào những bức tường. Gösta và Ernst bước lên bậc thềm vào hiên, những món đồ gỗ lộng lẫy cho thấy rằng ngôi nhà đã được xây dựng từ trước khi thời hiện đại biến tốc độ và năng suất trở thành những ý niệm thần thánh.

“Mời vào.”

Chất giọng kèo kẽo của một bà già nói vọng ra với họ, và họ cẩn thận chùi chân trên tấm thảm ở cửa trước khi bước vào trong. Trần thấp khiến Ernst phải cúi đầu, nhưng Gösta, vốn chưa bao giờ thuộc về cái bộ lạc oai vệ của những người cao lớn, cứ đi thẳng vào mà không sợ bị đụng.

“Chào buổi sáng, chúng tôi là cảnh sát. Chúng tôi đang tìm ông Rolf Persson.”

Bà già, đang chuẩn bị bữa sáng, liền chùi tay vào một chiếc khăn lau đĩa.

“Chờ chút nhé, tôi sẽ đi gọi ông ấy. Ông ấy đang ngủ trên xô-pha kìa, nhìn thấy chưa. Già rồi thì toàn thế thôi.” Bà ta cười khùng khục rồi biến vào phía trong nhà.

Gösta và Ernst do dự nhìn quanh rồi ngồi xuống bên bàn bếp. Bếp nhắc Gösta nhớ về ngôi nhà thời thơ ấu của mình, mặc dù bà Persson chỉ lớn hơn ông chừng mười tuổi là cùng. Mới đầu trông bà ta rất già, nhưng nhìn kỹ hơn, ông nhận thấy đôi mắt bà ta dường như trẻ hơn so với người. Làm lụng vất vả có thể khiến một người thành ra thế đấy.

Họ vẫn còn dùng một cái bếp củi cũ rích để nấu nướng. Sàn nhà được lót vải sơn, có thể đã che mất đi mặt sàn ốp ván gỗ cứng đẹp tuyệt. Thế hệ trẻ thường để lộ ra lớp ván sàn như vậy, nhưng đối với thế hệ của ông và gia đình Persson, thì nó vẫn còn là một lời nhắc nhở quá nặng nề về thời thơ ấu nghèo khổ. Khi vải sơn được giới thiệu lần đầu tiên, nó đã trở thành một biểu tượng hiển nhiên của cuộc sống không còn sa lầy trong nghèo đói của thế hệ trước.

Những tấm ván ốp tường cũ mòn cũng nhen lên những ký ức ủy mị. Gösta không thể nhịn được bèn lướt ngón tay dọc theo khe hở giữa hai tấm ván. Cảm giác giống hệt như hồi còn bé, ông vẫn làm thế trong nhà bếp của bố mẹ.

Tiếng tích tắc yếu ớt của đồng hồ nhà bếp là âm thanh duy nhất nghe thấy được, nhưng sau một hồi chờ đợi họ nghe tiếng xì xào ở phòng kế bên. Họ có thể nghe rõ một giọng vang lên đầy kích động, một giọng khác cầu xin. Sau vài phút, bà già đã trở lại và ông chồng theo sau. Ông ta trông cũng già hơn cái tuổi ước chừng khoảng bảy mươi của ông. Mới bị đánh thức khỏi giấc ngủ, ông trông không được tươm tất. Tóc ông dựng ngược lên và những nếp nhăn mệt mỏi hằn sâu trên má. Bà già trở lại bên cái bếp. Bà ta cụp mắt xuống và tập trung vào nồi cháo đang khuấy.

“Có việc gì mà cảnh sát lại đến đây thế này?”

Giọng Persson nghe hách dịch, và Gösta không thể không nhận thấy rằng bà già đang nao núng. Ông bắt đầu hiểu tại sao bà trông lại già hơn nhiều so với tuổi của mình. Bà làm cho cái nồi kêu lanh canh và Persson hét lên, “Bà thôi đi được không? Bà có thể nấu bữa sáng sau. Bây giờ thì để chúng tôi yên.”

Bà cúi đầu xuống và nhanh chóng nhấc nồi ra khỏi bếp. Không nói một lời, bà bỏ đi, để mặc họ trong bếp. Gösta mong muốn đi theo sau bà và nói một lời hòa giải thân thiện nhưng ông đã kìm lại được.

Persson tự rót cho mình một ly và ngồi xuống. Ông ta không hỏi Ernst và Gösta xem họ có muốn uống không, mà họ cũng sẽ không dám nói có. Sau khi uống một ngụm ông ta lau miệng bằng mu bàn tay và nhìn họ thách thức.

“Sao? Các ông muốn gì đây?”

Ernst nhìn cái ly rỗng thèm muốn. Gösta lên tiếng.

“Ông đã bao giờ sử dụng một loại phân bón được gọi là…” – ông nhìn vào sổ tay – “…FZ-302 chưa?”

Ông nông dân Persson cười rất sảng khoái. “Đó là lý do các ông đánh thức tôi khỏi giấc mộng đẹp à? Để hỏi tôi xem tôi sử dụng phân bón loại gì? Chúa ơi, cảnh sát ngày nay rảnh quá nhỉ.”

Biểu cảm của Gösta không thay đổi. “Chúng tôi có lý do để hỏi. Và chúng tôi muốn có được câu trả lời.” Sự khó chịu với ông già tăng lên từng giây.

“Được rồi, được rồi, không có lý do gì để mà phải kích động thế. Tôi không có gì phải che giấu cả.” Ông ta lại cười và tự rót cho mình một ly.

Ernst liếm môi và dán mắt vào cái ly. Từ hơi thở của Persson, có thể thấy đây không phải là những ly rượu đầu tiên ông ta uống vào buổi sáng hôm đó. Với lũ bò cần vắt sữa, chắc ông ta đã dậy được vài giờ rồi, nên có lẽ đây đã là giờ ăn trưa với ông ta. Mặc dù có thể vẫn còn hơi sớm để uống rượu, Gösta nghĩ. Ernst thì dường như không đồng ý.

“Tôi đã sử dụng loại phân bón đó cho tới khoảng năm 84 hay 85, tôi nghĩ thế. Rồi vài tổ chức môi trường bỏ mẹ gì đó đã quyết định rằng nó có thể có một tác động tiêu cực đến cân bằng sinh thái.” Ông ta nói bằng giọng the thé và dùng tay làm dấu ngoặc kép trong không khí. “Thế là sau đó chúng tôi đã phải chuyển sang một loại phân bón tệ hơn gấp mười lần và đắt hơn gấp mười lần. Những thằng ngu xuẩn.”

“Ông đã sử dụng loại phân bón đó trong bao lâu?”

“Ờ, chắc khoảng mười năm. Tôi có số liệu chính xác trong sổ, nhưng tôi nghĩ chắc tôi bắt đầu dùng nó từ khoảng giữa thập niên bảy mươi. Tại sao các anh lại quan tâm đến chuyện đó?” Ông ta chăm chú nhìn Ernst và Gösta vẻ ngờ vực.

“Nó có liên quan tới một cuộc điều tra mà chúng tôi đang tiến hành.”

Gösta không nói gì thêm, nhưng ông có thể nhìn thấy một tia sáng từ từ vỡ ra trên mặt ông nông dân.

“Đó là các cô gái, phải không? Các cô gái trong Khe Vua ấy? Và cô bé đã mất tích nữa? Các anh nghĩ rằng tôi có liên quan tới chuyện đó à? Có phải đó là những gì các anh đang nghĩ không? Chúa ơi.”

Persson loạng choạng đứng dậy. Ông ta là một người cao lớn. Không thấy bất kỳ dấu hiệu nào của sự suy giảm thể chất đi kèm với tuổi tác. Bắp tay ông ta gân guốc và mạnh mẽ dưới lớp áo sơ mi. Ernst giơ tay lên và cũng đứng dậy. Ông ta luôn hữu ích trong những tình huống như thế này, Gösta cảm kích nghĩ. Ông ta sống vì những giây phút như thế này.

“Bây giờ tất cả hãy bình tĩnh lại. Chúng tôi đang theo dõi một đầu mối, và phải ghé thăm một vài người. Không có lý do gì để ông phải cảm thấy chúng tôi đặc biệt nhắm vào ông cả. Nhưng chúng tôi muốn xem xét quanh đây, chỉ có thế chúng tôi mới gạch tên ông ra khỏi danh sách được.”

Ông nông dân có vẻ nghi ngờ nhưng rồi gật đầu. Gösta cẩn thận xen vào, “Ông có phiền không nếu tôi dùng nhà vệ sinh?”

Bàng quang của ông từng có thời tốt hơn thế này, nhưng nhu cầu bài tiết đã tăng dần lên và giờ trở thành cấp thiết. Persson gật đầu và chỉ về phía một cánh cửa với chữ WC trên đó.

“Ờ, mẹ nó chứ, cái lũ trộm cắp như rươi,” Ernst nói. “Những kẻ thật thà như ông và tôi…” Ông ta ngừng nói với vẻ có lỗi khi Gösta quay trở lại. Một cái ly rỗng ở trước mặt Ernst cho thấy ông ta đã có được thức uống mà ông ta khao khát từ nãy, giờ ông ta và ông nông dân trông như hai người bạn cũ.

Nửa giờ sau, Gösta lấy hết can đảm để khuyên bảo đồng nghiệp của mình.

“Này, anh nồng nặc mùi rượu. Anh định qua mặt Annika với hơi thở này như thế nào đây?”

“Ồ, thôi nào, Flygare. Đừng có như một bà giáo già thế chứ. Tôi chỉ uống một chút, không có gì sai cả. Bên cạnh đó, thật bất lịch sự nếu từ chối khi ai đó mời mình uống.”

Gösta chỉ khịt mũi nhưng không nói gì. Ông cảm thấy chán nản. Nửa giờ la cà ở trang trại chẳng đem lại điều gì cả. Không có dấu vết của bất kỳ cô gái nào hay ngôi mộ mới đào nào, thật lãng phí cả buổi sáng. Nhưng Ernst và ông nông dân đã tìm được tiếng nói chung khi Gösta vào nhà vệ sinh và đã tán chuyện trong suốt thời gian họ đi quanh nhà. Cá nhân Gösta thấy rằng đáng ra nên giữ khoảng cách với một kẻ tình nghi của vụ án mạng, nhưng Ernst chỉ theo ý mình, như mọi khi.

“Persson có nói điều gì hữu ích không?”

Ernst thở vào bàn tay khum khum của mình rồi ngửi. Ban đầu ông ta lờ đi câu hỏi của Gösta. “Này, Flygare, anh có thể dừng lại ở đây cho tôi mua mấy viên ngậm không?”

Ủ rũ và im lặng, Gösta dừng lại ở trạm xăng Q8 OK và đợi trong xe còn Ernst chạy vào mua gì đó để khắc phục vấn đề hơi thở của mình. Khi trở lại xe, Ernst mới trả lời câu hỏi.

“Không, thực sự ta đã phí thời gian đến đó. Mặc dù ông ta rất là tốt đấy, và tôi có thể thề rằng ông ta không có liên quan gì cả. Không, ta có thể loại bỏ giả thuyết đó ngay bây giờ. Điều tra theo hướng phân bón cũng mờ mịt quá. Lũ chuyên viên pháp y chết tiệt cứ ngồi cả ngày trong phòng thí nghiệm mà phân tích cho đến hết đời, trong khi chúng ta làm việc vất vả trong thế giới thực thì mới thấy giả thuyết của chúng vô lý đến thế nào. DNA và lông tóc và phân bón và dấu lớp xe và tất cả những thứ của nợ khác. Không, một cú nện vào đúng chỗ, đó là những gì thực sự giải quyết được vụ án, Flygare à.” Ông ta siết chặt nắm đấm để minh họa cho quan điểm của mình. Hài lòng vì đã chứng tỏ được là cảnh sát thực sự phải tiến hành công việc như thế nào, ông ta lại ngả đầu vào ghế và nhắm mắt lại.

Gösta im lặng lái xe về Tanumshede. Ông không chắc chắn lắm.

Tin tức cũng đã tới chỗ Gabriel và gia đình ông ta. Cả ba người họ yên lặng ngồi vào bàn ăn sáng, ai nấy đều suy nghĩ mông lung. Trước sự ngạc nhiên của họ, Linda đã xách đồ về nhà đêm hôm trước và không nói một lời, đi thẳng vào phòng ngủ của mình, nơi vẫn sẵn sàng chờ cô.

Ngập ngừng, Laine phá vỡ sự im lặng. “Thật tốt khi con trở về nhà, Linda.”

Linda lẩm bẩm gì đó để trả lời, mắt vẫn dán chặt vào miếng bánh mì cô đang phết bơ.

“Nói to lên, Linda, thật bất lịch sự khi nói lí nhí như thế.”

Gabriel nhận được một cái nhìn trách móc từ Laine, nhưng ông ta không quan tâm mấy. Đây là nhà của ông và ông ta không có ý định nhặng xị lên vì một đứa con gái chỉ bởi niềm vui mơ hồ khi có nó ở nhà một lúc.

“Con đã nói với mẹ là con sẽ chỉ được ở đây một hai đêm thôi, rồi con sẽ trở lại Västergärden. Chỉ muốn thay đổi không khí chút thôi. Tất cả những thứ hallelujah tào lao đã làm con phát chán. Và thật buồn khi nhìn cách họ đối xử với lũ trẻ. Con nghĩ rằng chuyện đó cũng thực là rợn tóc gáy, cái cách lũ trẻ đi khắp nơi nói về Jesus ấy…”

“Ừ, bố đã nói với Jacob rằng bố nghĩ chúng nó hơi quá nghiêm khắc với lũ trẻ. Nhưng chúng nó có ý tốt. Và đức tin rất quan trọng đối với Jacob và Marita, chúng ta phải tôn trọng điều đó. Bố cũng biết rằng Jacob sẽ rất khó chịu khi nghe con chửi thề. Đó thực sự không phải là ngôn ngữ của một quý cô đâu.”

Linda đảo mắt vẻ khó chịu. Cô đơn giản chỉ muốn tránh xa Stefan một thời gian, và cô biết gã sẽ không dám gọi đến đây cho cô. Nhưng nghe lải nhải mãi cô cũng đã bắt đầu phát cáu. Chắc tối nay cô sẽ phải quay trở lại nhà anh trai thôi. Cô không thể sống như thế này được.

“Này, chắc ở nhà Jacob con cũng đã nghe nói về vụ quật mộ rồi,” Laine nói. “Hôm qua bố gọi cho nó sau khi cảnh sát liên lạc với bố. Họ đã nêu ra một giả thuyết ngu ngốc làm sao! Họ nói về cái kế hoạch nào đó mà Ephraim có khi đã dựng lên để làm ra vẻ Johannes đã chết. Đó là điều ngu xuẩn nhất mà mẹ từng nghe.”

Những mảng đỏ xuất hiện trên làn da ngực trắng bệch của Laine, và bà cứ bồn chồn mân mê sợi dây chuyền ngọc trai. Linda phải kiềm chế thôi thúc vươn ra giật lấy sợi dây và nhét tất cả những viên ngọc trai khốn kiếp ấy xuống cổ họng bà.

Gabriel hắng giọng và tham gia cuộc trò chuyện bằng giọng hách dịch. Toàn bộ việc quật mộ này khiến ông phiền lòng. Nó đã xáo trộn thói quen của ông và khuấy tung bụi bặm lên thế giới ngăn nắp của ông. Ông đã cực lực phản đối toàn bộ ý kiến này. Ông không nghĩ rằng cảnh sát lại có lý lẽ nào cho sự khẳng định của họ, nhưng đó không phải là vấn đề. Cũng chẳng phải nỗi băn khoăn rằng nơi an nghỉ cuối cùng của em trai mình sẽ bị quấy rầy, mặc dù điều đó chắc chắn không hề dễ chịu. Không, vấn đề là sự xáo trộn mà toàn bộ những thủ tục này sẽ gây ra. Quan tài là để chôn xuống, không phải để đào lên. Một khi những ngôi mộ đã đắp xong, chúng nên được để yên, và quan tài đã đóng lại thì mãi mãi nên đóng. Đó là cách mọi thứ nên diễn ra. Ghi nợ và tín dụng. Tất cả mọi thứ phải ở đúng chỗ của nó.

“Ừ, bố nghĩ cũng hơi lạ khi cảnh sát lại được phép hành động tùy tiện như thế này,” Gabriel nói. “Bố không biết họ đã phải làm trò gì để có được giấy phép, nhưng bố định sẽ tìm hiểu đến cùng, tin bố đi. Dù sao thì chúng ta cũng đâu sống trong chế độ chuyên chế cảnh sát.”

Một lần nữa Linda lẩm bẩm điều gì đó với cái đĩa của mình.

“Xem nào, con nói gì vậy, con yêu?” Laine nói, quay sang con gái.

“Con nói rằng, chẳng phải bố ít nhất cũng nên nghĩ xem chuyện này sẽ thế nào với Solveig, Robert và Stefan hay sao? Bố có biết họ sẽ cảm thấy ra sao khi chú Johannes bị đào lên như thế này không? Nhưng không, điều duy nhất bố có thể làm là than phiền về nỗi xấu hổ nó gây ra cho bố. Tại sao bố không thử một lần nghĩ cho người khác đi?”

Cô ném khăn ăn lên đĩa và rời khỏi bàn. Tay Laine lại sờ lên dây chuyền và bà có vẻ như đang tự hỏi liệu có nên chạy theo con gái mình hay không. Một cái nhìn từ Gabriel đã khiến bà ngồi yên.

“Thế đấy, chúng ta biết cái tính dễ kích động của con bé là từ đâu mà có rồi đấy.”

Giọng ông ta trách móc. Laine không nói một lời.

“Con bé đã có gan nói rằng chúng ta không hề quan tâm đến Solveig và mấy thằng con trai. Tất nhiên là chúng ta quan tâm, nhưng hết lần này đến lần khác họ tỏ rõ là không cần sự cảm thông từ chúng ta. Mình làm thì mình chịu…”

Đôi khi Laine thấy ghét chồng mình. Ông ta ngồi đó đầy tự mãn, ăn trứng với vẻ cực kỳ ngon miệng. Trong đầu, bà hình dung ra mình đi về phía ông ta, cầm đĩa của ông ta lên và từ từ chà xát nó vào ngực ông ta. Thay vào đó, bà lại đứng dậy dọn bàn.