MÙA HÈ NĂM 1979
Giờ họ cùng chung nỗi đau đớn. Giống như cặp sinh đôi dính liền, họ ôm siết lấy nhau, một mối quan hệ cộng sinh được tạo bởi hai phần ngang nhau của yêu thương và thù hận. Một mặt, họ thấy an toàn khi không phải một mình ở trong bóng tối. Mặt khác, mối quan hệ đối lập đã được tạo ra từ mong muốn được chừa mình ra, mong muốn rằng cô gái kia sẽ phải chịu đựng nỗi đau đớn của lần tiếp theo khi hắn xuất hiện.
Họ không nói nhiều. Tiếng nói của họ vang vọng quá rùng rợn trong căn hầm tối tăm. Khi bước chân đến gần, họ buông nhau ra, từ bỏ sự tiếp xúc da thịt vốn là thứ duy nhất che chở để họ chống lại cái lạnh và bóng tối. Giờ thì họ chỉ nghĩ đến việc chạy trốn nỗi đau, và họ lao vào cuộc vật lộn với nhau để khiến cho cô gái kia là người đầu tiên rơi vào trong tay ma quỷ.
Lần này cô thắng, và cô nghe thấy tiếng la hét đã bắt đầu. Theo một cách nào đó, cô gần như cảm thấy tồi tệ vì đã là người thoát được. Tiếng xương bị vỡ đã in sâu vào trí nhớ thính giác của cô, và cô cảm nhận được từng tiếng thét trong tấm thân nham nhở sẹo của mình. Cô cũng biết điều gì sẽ đến sau những tiếng thét. Tiếp theo đôi bàn tay vừa mới cấu véo và xoắn đứt, kéo giật và xé toạc, sẽ biến đổi, giờ trở nên ấm áp và dịu dàng, đặt lên những chỗ đau đớn nhất. Đôi bàn tay mà giờ cô cũng biết rõ như tay mình. Chứng to lớn và mạnh mẽ, nhưng đồng thời cũng mềm mại, không thô ráp hay gồ ghề. Những ngón tay dài và nhạy cảm như của một nghệ sĩ dương cầm. Và mặc dù chưa bao giờ thực sự nhìn thấy chúng, nhưng cô có thể hình dung chúng khá rõ ràng trong tâm trí mình.
Bây giờ những tiếng thét dữ dội thêm, và cô ước mình có thể nhấc tay lên mà bịt tai lại. Nhưng cánh tay treo lủng lẳng và vô dụng bên hông đã từ chối tuân theo chỉ thị của cô.
Khi những tiếng thét nguôi đi và cửa hầm nhỏ ở trên đầu cô được mở ra rồi đóng lại ngay, cô trườn qua nền đất ẩm lạnh đến với nơi khởi sinh những tiếng thét.
Đã đến giờ an ủi.
Khi nắp quan tài được nâng lên, tất cả đều im lặng. Patrik thấy mình quay nửa người ra nhìn chằm chằm đầy lo lắng về phía nhà thờ. Anh không biết anh mong đợi gì. Có lẽ là một tia chớp từ tháp nhà thờ sẽ đánh xuống họ vì hành vi báng bổ này. Nhưng không có chuyện gì xảy ra cả.
Khi Patrik nhìn thấy bộ xương trong quan tài, tim anh thắt lại. Anh đã sai.
“Nào, Hedström. Xem cái mớ hỗn độn mà anh đã đưa chúng ta vào này.”
Mellberg lắc đầu vẻ tiếc nuối. Chỉ với câu đó ông ta đã khiến Patrik cảm thấy như đầu mình được đặt lên máy chém. Nhưng ông sếp của anh nói đúng. Loạn cả rồi.
“Chúng tôi sẽ mang thi thể đi, để có thể khẳng định rằng đây đúng là Johannes. Nhưng có lẽ sẽ chẳng có gì bất ngờ xảy ra cả. Anh không có bất kỳ giả thuyết nào về việc tráo đổi xác hay việc gì đó tương tự đúng không?”
Patrik chỉ lắc đầu. Anh cho rằng anh đã nhận được những gì mình xứng đáng. Các chuyên viên làm việc của họ và một lúc sau thì bộ xương lên đường đi Göteborg, khi đó Patrik và Martin cũng lên xe để về đồn.
“Anh có thể đã đúng. Không quá xa vời đâu,” Martin an ủi, nhưng Patrik chỉ lắc đầu một lần nữa.
“Không, anh nói đúng. Những thuyết âm mưu hơi quá hoành tráng nên thành ra vô lý. Tôi cho rằng tôi sẽ phải sống với sai lầm này trong một thời gian dài sắp tới.”
“Có, anh có thể trông mong vào đó mà,” Martin thông cảm nói. “Nhưng hãy tự hỏi điều này: anh có thể sống tiếp với chính mình được không nếu anh đã không làm chuyện này? Sẽ ra sao nếu sau này anh phát hiện ra mình đã đúng và nó đáng giá bằng cả mạng sống của Jenny Möller? Ít nhất anh đã thử. Chúng ta phải tiếp tục làm việc với tất cả những ý tưởng nảy ra trong đầu, dù có điên hay không. Đó là cơ hội duy nhất để chúng ta kịp tìm thấy cô bé ấy.”
“Nếu vẫn chưa quá muộn,” Patrik rầu rĩ nói.
“Xem nào, chúng ta không nên suy nghĩ như thế. Chúng ta vẫn chưa tìm thấy xác cô bé, nên cô bé vẫn còn sống. Không thể khác được.”
“Anh nói đúng. Nhưng tôi chỉ đơn giản là không biết phải xoay xở ra sao nữa. Chúng ta nên đi tìm ở đâu? Chúng ta tiếp tục quay trở lại với cái nhà Hult quái quỷ ấy, nhưng vẫn chưa có gì đủ cụ thể để tiếp tục.”
“Chúng ta có mối liên quan giữa các vụ sát hại Siv, Mona và Tanja.”
“Nhưng không có gì liên quan giữa chúng với vụ mất tích của Jenny.”
“Không,” Martin thừa nhận. “Nhưng điều đó không thực sự quan trọng, đúng không? Cái chính là chúng ta đang làm mọi thứ có thể để tìm ra kẻ giết Tanja và kẻ bắt cóc Jenny. Cho dù đó là cùng một kẻ, hay là hai, thì thời gian sẽ trả lời. Nhưng chúng ta đang làm mọi thứ có thể.”
Martin nhấn mạnh từng chữ trong câu cuối cùng, hy vọng rằng ý nghĩa của những gì anh nói sẽ thấm sâu. Anh hiểu tại sao Patrik lại tự trách mình sau khi vụ khai quật đã không ủng hộ giả thuyết của Patrik, nhưng ngay bây giờ họ không thể chấp nhận được việc người chỉ huy cuộc điều tra thiếu tự tin. Patrik cần phải tin vào những gì họ đang làm.
Khi họ về đồn, Annika chặn họ lại ở bàn tiếp tân. Cô đang cầm điện thoại bằng một tay và che ống nói bằng tay còn lại để người ở đầu bên kia không nghe được những gì cô nói với Patrik và Martin.
“Patrik, đó là Stefan Hult. Gã ta rất lo lắng muốn liên lạc với anh. Anh nhận điện thoại trong văn phòng của anh nhé?”
Patrik gật đầu và bước đi. Một giây sau điện thoại trên bàn anh reo lên.
“Xin chào, Patrik Hedström đây.”
Anh háo hức lắng nghe, cắt ngang với một vài câu hỏi, và sau đó lao vào văn phòng của Martin với nguồn sinh lực đã được phục hồi.
“Đi thôi, Martin, chúng ta đến Fjällbacka.”
“Nhưng chúng ta vừa ở đó mà. Giờ đi đâu đây?”
“Chúng ta có chút chuyện cần nói với Linda Hult đấy. Tôi nghĩ rằng có gì đó thú vị đang diễn ra, có gì đó thực sự thú vị.”
Erica đã hy vọng rằng những vị khách, cũng như gia đình Flood, sẽ muốn đi chèo thuyền vào ban ngày, nhờ vậy mà cô sẽ tống khứ họ đi được một lúc. Cô đã sai về điểm này.
“Chúng tôi không thích biển lắm, Madde và tôi. Chúng tôi thích bầu bạn với chị ngoài vườn hơn. Ở đây cảnh đẹp thật.”
Jorgen vui vẻ nhìn về phía hòn đảo và chuẩn bị cho mình một ngày sưởi nắng. Erica nén một tiếng cười. Anh ta trông thật ngu ngốc. Anh ta trắng bệch như bị bạch tạng và hình như có ý định giữ mãi như thế. Anh ta bôi kem chống nắng từ đầu đến chân nên thậm chí còn trắng hơn, nếu như anh ta còn có thể trắng hơn được. Mũi anh ta cũng được bao phủ bằng một loại kem màu neon nào đó để cung cấp thêm lớp bảo vệ. Một chiếc mũ tắm nắng lớn cho đồng bộ, và sau nửa giờ đi vơ vẩn xung quanh anh ta thở dài mãn nguyện rồi ngồi xuống một chiếc ghế ngoài vườn bên cạnh vợ. Erica cảm thấy như phải lấy ghế cho họ.
“A, đây đúng là thiên đường, em có nghĩ thế không, Madde?”
Anh ta nhắm mắt, nên Erica cho rằng cô có thể lẻn vào trong một lúc.
Ngay sau đó anh ta đã mở mắt và nói, “Nhờ chị mang cho chúng tôi cái gì đó để uống thì có phiền quá không nhỉ? Một ly nước ép lớn thì thật tuyệt vời. Madde có lẽ cũng thích một ly.”
Vợ anh ta chỉ gật đầu mà chẳng nhìn lên. Từ khi ra ngoài cô ta vẫn đang chìm đắm trong một cuốn sách về luật thuế, và hình như cô ta cũng có một nỗi kinh khiếp đối với nguy cơ bị rám nắng. Quần dài đến mắt cá chân và áo sơ mi dài tay đã xử lý rủi ro đó. Cô ta cũng đội một cái mũ tắm nắng và cái mũi màu neon. Rõ ràng là những người này không bao giờ cảm thấy đủ an toàn cả. Ngồi bên nhau họ trông giống như hai người ngoài hành tinh đã hạ cánh xuống thảm cỏ nhà Erica và Patrik.
Erica lạch bạch đi vào trong và pha nước trái cây. Miễn là cô không phải nói chuyện với họ. Họ là cặp đôi nhạt nhẽo đáng kinh ngạc nhất mà cô từng gặp. Nếu đêm qua có ai hỏi cô phải lựa chọn giữa nói chuyện với họ hay xem sơn khô, chắc chắn cô sẽ không chọn họ. Khi có dịp, cô sẽ nói cho mẹ Patrik một hồi vì đã quá hào phóng đem cho số điện thoại của họ.
Patrik ít nhất cũng có thể thoát được một lúc bằng cách đi làm. Mặc dù cô có thể nói rằng anh đã kiệt sức. Cô chưa bao giờ thấy anh bị ám ảnh như vậy, rất quyết tâm để tìm ra kết quả. Nhưng trước đây cũng chưa bao giờ có vụ nào nan giải như vậy.
Cô ước gì mình có thể giúp đỡ anh nhiều hơn. Trong cuộc điều tra cái chết của Alex bạn cô, cô còn có thể giúp cảnh sát một chút, nhưng hồi đó cô có một mối liên hệ cá nhân với vụ án. Bây giờ cô còn bị chính cơ thể khổng lồ của mình cản trở. Cái bụng và cái nóng đã âm mưu để buộc cô phải miễn cưỡng ăn không ngồi rồi lần đầu tiên trong đời. Theo một chiều hướng nào đó thì cứ như não của cô cũng trở nên lờ đờ. Tất cả những suy nghĩ của cô đều hướng vào em bé trong bụng và một nỗ lực hết sức nặng nề mà cô sẽ cần đến sớm thôi. Tâm trí cô ngoan cố từ chối tập trung lâu vào các vấn đề khác. Cô ngạc nhiên trước các bà mẹ vẫn làm việc cho đến tận trước khi sinh. Có lẽ cô chỉ đơn giản là khác biệt, vì trong quá trình mang thai, cô đã ngày càng trở nên thoái hóa – hoặc tiến hóa, tùy theo cách nhìn – trở thành một sinh vật truyền giống biết ấp ủ, biết rung động, biết nuôi con. Mọi thớ thịt trong cơ thể cô đều tập trung vào việc sinh con, và đó là lý do tại sao những kẻ xâm phạm không đơn thuần chỉ là một mối bận tâm. Họ làm phiền đến sự tập trung của cô. Cô không thể tin rằng cô lại từng cảm thấy bồn chồn như vậy khi được ở nhà một mmh. Ngay bây giờ viễn cảnh ấy đã có vẻ như là thiên đường.
Thở dài một tiếng, cô pha một bình nước trái cây lớn với đá bào và mang ra ngoài cùng với hai cái ly cho những cư dân từ Sao Hỏa đang ở trên bãi cỏ của cô.
Một cuộc kiểm tra nhanh tại Västergärden cho thấy rằng Linda không có ở đây. Marita có vẻ bối rối khi hai cảnh sát xuất hiện, nhưng cô ta không hỏi gì cả. Thay vào đó cô ta chỉ họ sang bên dinh thự. Lần thứ hai sau nhiều ngày, Patrik lái xe dọc con đường dài. Một lần nữa anh bị choáng váng bởi nơi này sao mà đẹp đẽ đến vậy. Anh có thể thấy Martin ngồi bên cạnh mình với cái miệng há ra.
“Khốn thật, một số người chắc chắn rất biết cách sống.”
“Ừ, một số người rất sành,” Patrik nói.
“Thế chỉ có hai người sống trong ngôi nhà khổng lồ này à?”
“Ba nếu tính cả Linda.”
“Chúa ơi, chả trách mà Thụy Điển lại thiếu hụt nhà ở như vậy.”
Lần này Laine ra mở cửa khi họ bấm chuông.
“Tôi có thể giúp gì cho các anh?”
Có phải Patrik đã cảm nhận được chút căng thẳng trong giọng nói của bà ta không nhỉ?
“Chúng tôi đang tìm Linda,” Martin nói. “Chúng tôi vừa tới Västergärden, nhưng con dâu của bà nói cô ấy ở đây.” Martin hất hàm một cách mông lung về phía ngược lại.
“Các anh muốn gì ở nó?” Gabriel đến từ đằng sau Laine, bà ta vẫn chưa mở cửa đủ rộng để cho họ vào.
“Chúng tôi có vài câu hỏi cho cô ấy.”
“Không ai được hỏi han gì con gái tôi hết, trừ phi chúng tôi biết câu hỏi là gì.” Gabriel ưỡn ngực ra, chuẩn bị để bảo vệ con mình.
Ngay khi Patrik chuẩn bị nói lý lẽ, Linda đã đi vòng qua góc nhà. Cô mặc quần áo cưỡi ngựa và mới từ chuồng ngựa trở về.
“Các chú đang tìm cháu à?”
Patrik gật đầu, nhẹ nhõm vì không phải tham gia một cuộc đối đầu trực tiếp với bố cô. “Đúng vậy, các chú có một vài câu hỏi dành cho cháu. Cháu muốn vào trong hay ở ngoài này?”
Gabriel cắt ngang. “Thế này là sao, Linda? Con có từng làm gì đó mà bố mẹ nên biết không? Bố mẹ không có ý định để cho cảnh sát hỏi con trừ phi bố mẹ cũng có mặt, nói cho con biết thế.”
Linda, đột nhiên trông như một cô bé sợ hãi, gật đầu yếu ớt. “Vào trong đi,” cô nói.
Cô bơ phờ đi theo Martin và Patrik qua cửa trước và vào phòng khách. Cô dường như không lo lắng gì về những món đồ nội thất mà ngồi phịch xuống xô-pha trong bộ quần áo hôi mùi ngựa. Laine không thể không chun mũi và lo lắng nhìn về phía những nệm ghế trắng. Linda nhìn mẹ thách thức.
“Nếu các chú hỏi cháu vài câu trước sự có mặt của bố mẹ cháu thì có được không? Nếu đây là một cuộc thẩm vấn chính thức, các chú sẽ không thể cấm họ tham gia vì cháu đang ở tuổi vị thành niên, nhưng ngay bây giờ các chú chỉ muốn hỏi vài câu, vậy…”
Gabriel trông như thể đang chuẩn bị lao vào một cuộc tranh cãi mới về điểm này, nhưng Linda chỉ nhún vai. Trong một khoảnh khắc, Patrik cũng nghĩ rằng mình thoáng nhìn thấy một vẻ hài lòng đầy mong đợi lẫn với sự căng thẳng trong cô gái. Nhưng nó biến mất ngay lập tức.
“Các chú vừa nhận được một cuộc gọi từ Stefan Hult, em họ của cháu. Cháu nghĩ nó có thể là về vấn đề gì?”
Linda nhún vai lần nữa và bắt đầu lơ đãng cạy lớp da chết ở móng tay.
“Hai người đã qua lại với nhau rất nhiều lần, phải không?”
Patrik thận trọng tiến lên, từng bước một. Stefan đã giải thích một chút về mối quan hệ của họ, và Patrik hiểu rằng những tin tức này sẽ không được Gabriel và Laine vui mừng đón nhận.
“Vâng, đúng vậy, bọn cháu đã qua lại với nhau rất nhiều lần.”
“Mày đang nói cái đếch gì thế?”
Cả Laine và Linda đều nhảy dựng lên. Giống con trai mình, Gabriel không bao giờ sử dụng những ngôn từ mạnh mẽ. Họ không thể nhớ được đã bao giờ nghe ông ta nói những lời như vậy hay chưa.
“Bố quan tâm làm gì? Con qua lại với bất kỳ ai mà con muốn. Đấy không phải là việc của bố.”
Patrik đã can thiệp trước khi tình hình có cơ hội xấu đi. “Các chú không quan tâm liệu hai người có qua lại với nhau hay không, hoặc là có thường xuyên không, và theo như quan điểm của các chú, cháu có thể giữ riêng những chuyện đó cho cháu. Nhưng có một lần các chú vô cùng quan tâm. Stefan nói rằng hai người đã hẹn hò vào một buổi tối cách đây hai tuần, trong vựa cỏ khô tại Västergärden.”
Mặt Gabriel trở nên đỏ như củ dền vì giận dữ, nhưng ông ta im lặng chờ đợi câu trả lời của Linda.
“Có thể. Bọn cháu đã gặp nhau ở đó nhiều lần, nhưng cháu không nhớ chính xác là khi nào.”
Cô vẫn cạy móng tay với sự tập trung cao độ và không nhìn bất kỳ người lớn nào xung quanh mình.
Martin tiếp lời Patrik. “Theo Stefan, vào buổi tối hôm ấy, cô đã thấy một cái gì đó đặc biệt. Cô vẫn không biết tôi có ý gì sao?”
“Chắc là anh biết, vậy sao anh không nói cho tôi luôn đi?”
“Linda! Đừng làm cho vấn đề tồi tệ hơn bằng cách cãi lại như thế! Bây giờ hãy trả lời câu hỏi của cảnh sát đi. Nếu con biết anh ta đang nói về cái gì, thì nói đi. Nhưng nếu đó là cái gì mà… thằng lưu manh kia lôi con vào, thì bố sẽ…”
“Bố? Bố thì biết cái đếch gì về Stefan. Bố làm ra vẻ sùng đạo bỏ mẹ đi được, nhưng…”
“Linda…” Giọng Laine đầy ý cảnh cáo. “Đừng khiến vấn đề tồi tệ hơn cho chính mình nữa. Làm như bố nói và trả lời các câu hỏi của cảnh sát đi. Rồi chúng ta sẽ nói về chuyện đó sau.”
Sau khi cân nhắc một lát, Linda có vẻ chấp nhận lời khiển trách của mẹ và ngúng nguẩy nói tiếp, “Cháu cho rằng Stefan đã nói với các chú là bọn cháu đã nhìn thấy cô gái đó?”
“Cô gái nào?” Một dấu hỏi rõ ràng in trên mặt Gabriel.
“Cô gái người Đức, cái cô đã bị giết đó.”
“Đúng, đó là những gì Stefan đã nói với các chú,” Patrik nói. Anh im lặng đợi Linda nói tiếp.
“Cháu không chắc chắn như Stefan rằng đó là cô ta. Bọn cháu đã nhìn thấy tấm ảnh trên các tờ rơi và trông giống cô ta lắm, nhưng mà cũng có nhiều cô gái giống như thế nữa. Mà cô ta làm gì ở Västergärden cơ chứ? Nó đâu có nằm trên tuyến đường du lịch.”
Martin và Patrik bỏ qua câu hỏi này. Họ biết chính xác cô gái ấy có việc gì cần làm ở Västergärden. Cô ấy đã lần theo đầu mối duy nhất liên quan tới sự mất tích của mẹ mình – Johannes Hult.
“Đêm đó Marita và bọn trẻ đã ở đâu? Stefan nói rằng họ không ở nhà, nhưng anh ta không biết họ đi đâu.”
“Họ đến chơi vài ngày với bố mẹ của Marita ở Dals-Ed.”
“Đôi khi Jacob và Marita làm vậy,” Laine giải thích. “Khi Jacob muốn chút yên tĩnh và trật tự để làm đồ mộc ở nhà, con bé và lũ trẻ lại đến chơi vài ngày ở nhà ngoại. Đấy cũng là cơ hội để họ được gặp các cháu thường xuyên hơn. Chúng tôi thì sống rất gần đây nên hầu như ngày nào cũng có thể gặp các cháu.”
“Quên chuyện hai người có nhìn thấy đúng Tanja Schmidt hay không đi. Nhưng cháu có thể mô tả xem cô gái ấy trông như thế nào được không?”
Linda do dự. “Tóc sẫm màu, vóc dáng trung bình. Tóc dài ngang vai. Trông giống như hầu hết mọi người thôi. Không xinh cho lắm,” cô nói thêm với sự tự mãn của một người biết mình đẹp bẩm sinh.
“Thế cô ta ăn mặc thế nào?” Martin vươn mình về phía trước để thử nắm bắt ánh mắt cô thiếu nữ. Anh đã thất bại.
“À, tôi không nhớ rõ lắm. Đã từ hai tuần trước rồi và bên ngoài thì trời đã tối…”
“Cô gắng đi,” Martin thúc giục cô.
“Tôi nghĩ là quần jean. Một loại áo phông bó và một cái áo khoác. Áo khoác xanh và áo phông trắng, tôi nghĩ thế, hay là ngược lại nhỉ? À, và một túi đeo vai màu đỏ.”
Patrik và Martin liếc nhìn nhau. Cô đã mô tả chính xác những gì Tanja mặc vào ngày cô gái ấy mất tích. Áo phông trắng và áo khoác xanh, chứ không phải ngược lại.
“Hai người nhìn thấy cô ta vào lúc nào?”
“Cháu nghĩ là lúc sẩm tối. Có lẽ là khoảng sáu giờ.”
“Cháu có thấy Jacob để cho cô ta vào nhà hay không?”
“Không có ai ra mở cửa – ít nhất không phải là khi cô ta gõ cửa. Sau đó, cô ta đi vòng quanh ngôi nhà và bọn cháu không thể nhìn thấy cô ta nữa.”
“Cháu có thấy cô ta bỏ đi không?” Patrik hỏi.
“Không, chú không thể nhìn thấy con đường từ chỗ vựa cỏ được. Và như cháu đã nói, cháu không chắc chắn như Stefan rằng cô gái bọn cháu thấy là Tanja Schmidt.”
“Cháu nghĩ đó có thể là ai khác được không? Ý chú là, không có nhiều người lạ đến gõ cửa ở Västergärden, phải không?”
Lại một cái nhún vai thờ ơ. Sau một lúc Linda mới nói, “Cháu không nghĩ ra đó có thể là ai được. Theo cháu, đó có thể là một người đến chào hàng gì đó.”
“Nhưng sau đó Jacob không hề đề cập đến một người khách nào cả?”
“Không.”
Cô không thêm mắm thêm muối cho câu trả lời của mình, và Patrik và Martin đều hiểu rằng cô lo lắng về những gì đã thấy hơn là cô đang ra vẻ. Với họ hoặc là với bố mẹ cô.
“Tôi có thể hỏi rằng các anh đang tìm kiếm gì không?” Gabriel nói. “Như đã nói trước đây, tôi nghĩ rằng chuyện này bắt đầu giống như một sự quấy rối đối với gia đình tôi. Như thể chuyện các người đào em trai tôi lên là còn chưa đủ xấu xa vậy! Mà chuyện đó sao rồi? Quan tài rỗng à?”
Giọng Gabriel đầy miệt thị, và Patrik không thể không nhận ra sự cay nghiệt trong lời chỉ trích cá nhân của ông ta.
“Chúng tôi đã tìm thấy một cái xác trong quan tài. Có thể là Johannes em trai của ông.”
“Có thể,” Gabriel khịt mũi, khoanh tay trước ngực. “Các người cũng bắt đầu làm phiền Jacob tội nghiệp luôn hả?”
Laine nhìn chồng thất vọng. Dường như chỉ đến bây giờ bà mới hiểu được ý nghĩa các câu hỏi của cảnh sát.
“Các anh không nghĩ rằng Jacob…” Tay Laine lần lần đến cổ họng.
“Chúng tôi vẫn chưa nghĩ gì cả. Nhưng chúng tôi rất quan tâm đến việc tìm ra những nơi Tanja đã đến trước khi cô ấy mất tích. Nên Jacob có thể là một nhân chứng quan trọng.”
“Nhân chứng! Các người chắc chắn đã cố gắng dựng chuyện đâu ra đấy rồi, tôi có lời khen đấy. Nhưng đừng có bao giờ nghĩ rằng chúng tôi sẽ chịu thua thiệt. Các người đang cố gắng làm sáng tỏ những gì mà các đồng nghiệp vụng về của các người đã bắt đầu từ năm 79, và các người có ném ai vào tù thì cũng không quan trọng, miễn đó là một người nhà Hult, có phải thế không? Đầu tiên, các người làm như Johannes vẫn còn sống và bắt đầu giết các cô gái ở đây sau hai mươi tư năm. Rồi khi nó rõ rành rành là đã chết khô trong quan tài, thì các người lại bắt đầu với Jacob.”
Gabriel đứng lên và chỉ vào cánh cửa. “Cút ra! Tôi không muốn nhìn thấy các người ở đây thêm một lần nào nữa trừ phi các người có lệnh và tôi được gọi luật sư của mình. Cho đến lúc đó quỷ tha ma bắt các người đi!”
Những câu rủa đã bắt đầu trôi tuột ra từ môi ông ta một cách dễ dàng, và nước bọt đã sùi ra trên mép ông ta. Patrik và Martin biết sự có mặt của họ đã không còn được hoan nghênh, nên họ đứng lên và đi ra cửa. Khi cánh cửa trước đóng lại với một tiếng sầm phía sau lưng, điều cuối cùng họ nghe được là giọng Gabriel đang la mắng con gái mình, “Bây giờ mày định giở trò gì đây, quý cô?”
“Tẩm ngầm tầm ngầm…”
“Ừ, tôi không thể tin được rằng đã có một ngọn núi lửa cháy âm ỉ bên dưới bề mặt ấy,” Martin nói.
“Mặc dù vậy tôi vẫn không thể nói rằng tôi trách ông ta được. Nhìn từ quan điểm của ông ta…” Suy nghĩ của Patrik lại quay về với cứ thất bại hoành tráng sáng nay.
“Tôi đã bảo anh đừng suy nghĩ về điều đó nữa. Anh đã làm hết sức rồi. Anh không thể cứ than thân trách phận mãi được,” Martin nói cộc lốc.
Patrik nhìn anh với vẻ ngạc nhiên. Thấy cái nhìn đó, Martin liền nhún vai xin lỗi. “Tôi xin lỗi. Tôi nghĩ là tôi cũng đã bắt đầu căng thẳng quá rồi.”
“Không, không. Anh hoàn toàn đúng. Chẳng có thời gian để mà thương thân nữa.” Anh rời mắt khỏi con đường một giây và nhìn người đồng nghiệp của mình. “Và đừng bao giờ xin lỗi vì đã nói lời trung thực.”
“Được rồi.”
Họ lái xe trong sự im lặng ngại ngùng một lúc. Khi họ đi qua sân golf Fjällbacka, Patrik lên tiếng để làm không khí nhẹ nhàng hơn, “Anh sẽ nhận được thẻ xanh của câu lạc bộ sớm chứ, để mình còn có thể ra ngoài và đánh một cú?”
Martin mỉm cười ranh mãnh. “Anh có chắc là anh dám không? Tôi có thể là một tay golf bẩm sinh và khiến anh đo ván đấy.”
“Không chắc đâu. Tôi cũng có chút tài lẻ với quả bóng golf chứ.”
“À, thế thì ta phải nhanh lên thôi, rồi sẽ không có nhiều thời gian mà chơi nữa đâu.”
“Ý anh là sao?” Patrik trông thật sự bối rối.
“Chắc anh quên, nhưng vài tuần nữa anh sẽ có con đấy. Rồi thì, anh biết đấy, sẽ chẳng có nhiều thời gian mà giải trí nữa đâu.”
“Ô, sẽ ổn cả thôi mà. Chúng ngủ rất nhiều, bọn trẻ con ấy, nên ta có thể đánh một vòng golf. Và Erica hiểu rằng tôi phải được ra ngoài và chơi bời một lúc. Chúng tôi đã nhất trí như thế khi quyết định có con. Chúng tôi đã đồng ý cho mỗi người một không gian riêng để lo liệu những việc cá nhân và không phải làm bố mẹ toàn thời gian.”
Ngay khi Patrik kết thúc câu nói, Martin đã đầm đìa nước mắt vì cười. Anh vừa cười vừa lắc đầu.
“Ờ chắc rồi, sẽ có nhiều thời gian cho anh làm những việc cá nhân. Chúng ngủ nhiều lắm, bọn trẻ con ấy mà,” Martin bắt chước anh. Điều đó còn khiến Martin cười nhiều hơn.
Patrik, vì biết chị gái của Martin đã có năm đứa con, nên bắt đầu có chút lo lắng. Anh tự hỏi phải chăng Martin đã biết điều gì đó mà anh không biết. Nhưng anh còn chưa kịp hỏi thì điện thoại đã reo.
“Hedström đây.”
“Xin chào, tôi là Pedersen. Giờ có nói chuyện được không?”
“Thực ra thì không. Giữ máy một giây nhé, tôi phải tìm chỗ nào đó để đậu xe đã.”
Họ mới đến gần khu cắm trại Grebbestad, bởi vậy một đám mây đen lướt qua khuôn mặt Patrik. Anh lái xe thêm vài trăm mét nữa cho đến khi tới bãi đậu xe tại Grebbestad Wharf, ở đó, anh rẽ vào và dừng lại để có thể nói chuyện điện thoại.
“Tôi đậu xe rồi. Anh đã tìm thấy gì sao?”
Anh không thể giấu được sự háo hức trong giọng nói, và Martin nhìn anh đầy căng thẳng. Bên ngoài, những chiếc xe của du khách lướt qua, đi ra đi vào bãi đỗ xe của các cửa hiệu và nhà hàng. Patrik ghen tị nhìn những gương mặt hạnh phúc và không chút nghi ngờ của họ.
“Có và không. Chúng tôi sẽ xem xét kỹ hơn, nhưng trong trường hợp này tôi nghĩ anh có thể vui mừng khi biết rằng lệnh khai quật của anh cũng đem lại những thứ hay ho, theo như tôi hiểu thì nó được thực hiện có phần vội vã đấy nhỉ.”
“Vâng, tôi không thể phủ nhận điều đó. Tôi cảm thấy mình như một thằng ngốc ấy, nên dù anh có tìm thấy bất cứ thứ gì thì tôi cũng rất quan tâm.” Patrik nín thở.
“Trước hết, chúng tôi đã kiểm tra hồ sơ nha khoa, và kẻ trong quan tài chắc chắn là Johannes Hult, nên về điểm đó tôi không thể cung cấp cho anh bất cứ điều gì thú vị nữa. Mặt khác,” chuyên viên pháp y không thể cưỡng lại sự cám dỗ phải tạm dừng một chút cho kịch tính, “đó là hắn hoàn toàn không chết vì treo cổ. Cái chết của hắn nhiều khả năng là do bị một vật cứng đập vào gáy.”
“Anh đang nói cái quái gì thế?” Patrik hét lên, làm cho Martin nhảy dựng. “Vật cứng nào? Hắn bị đập vào đầu, hay là sao?”
“Vẫn còn đang phải xem xét. Nhưng giờ hắn đang nằm trên bàn khám nghiệm tử thi, nên ngay khi biết thêm gì mới tôi sẽ lại gọi cho anh. Cho đến khi tôi có cơ hội để làm một cuộc kiểm tra chi tiết hơn, thì đây là tất cả những gì tôi có thể nói cho anh biết.”
“Cảm ơn anh đã gọi cho tôi sớm như vậy. Hãy cho tôi biết ngay khi có gì mới.”
Patrik đắc thắng đóng nắp điện thoại lại.
“Anh ta đã nói gì, anh ta đã nói gì?” Martin tưởng có thể chết được vì tò mò.
“Rằng tôi không hoàn toàn là một thằng ngốc.”
“À, cần phải có một bác sĩ tâm thần thì mới xác nhận được như thế chứ, nhưng anh ta còn nói gì khác nữa không?” Martin trả lời lạnh nhạt vì không thích bị làm cho hồi hộp.
“Anh ta nói rằng Johannes Hult đã bị giết.”
Martin cúi đầu về phía trước và chà xát khuôn mặt mình bằng cả hai tay trong nỗi tuyệt vọng giả vờ. “Tôi rút khỏi cuộc điều tra này. Thật điên rồ. Anh đang nói với tôi rằng nghi phạm chính trong vụ mất tích, hoặc là vụ sát hại như sau này phát hiện ra, của Siv và Mona, lại bị giết?”
“Đó chính xác là những gì tôi muốn nói. Và nếu Gabriel Hult nghĩ rằng ông ta có thể la hét to đến nỗi khiến cho chúng ta phải ngừng việc đào bới những bí mật bẩn thỉu của gia đình ông ta, thì ông ta có thể nghĩ lại đi là vừa. Nếu cần bất cứ điều gì để chứng minh rằng họ có một điều bí mật, thì nó đây. Một trong số họ biết Johannes đã bị giết như thế nào và tại sao, và cái chết của ông ta có liên quan như thế nào với những vụ sát hại các cô gái, tôi đặt cược với anh đấy!” Anh đấm nắm tay vào lòng bàn tay mình, thấy rằng sự kiện ảm đạm buổi sáng đã được thay thế bằng một nguồn sinh lực mới.
“Tôi chỉ hy vọng chúng ta có thể tìm ra đủ nhanh. Vì Jenny Möller,” Martin nói.
Bình luận của anh như giội một xô nước lạnh lên đầu Patrik. Anh không được để cho bản năng cạnh tranh của mình lấn lướt. Anh không được quên lý do tại sao họ lại làm việc này. Họ ngồi một lúc và nhìn những người đi ngang qua. Rồi Patrik khởi động xe và lái về phía đồn cảnh sát.
Kennedy Karlsson tin rằng tất cả đã bắt đầu với tên hắn. Thật sự thì cũng không biết đổ lỗi cho điều gì khác. Nhiều người khác có những cái cớ hay – bố mẹ họ uống rượu và đánh đập họ. Nhưng hắn chỉ có mỗi cái tên mình để đổ lỗi, có vẻ thế.
Mẹ hắn đã ở Mỹ vài năm sau khi tốt nghiệp. Thời trước nếu có ai đó rời bỏ cộng đồng mà đi đến Mỹ thì sẽ là một chuyện rất lớn. Nhưng vào giữa thập niên ba mươi, khi mẹ hắn ra đi, chiếc vé đến Mỹ đã không còn là vé một chiều nữa. Rất nhiều người có con đã trưởng thành, đi tới các thành phố lớn ở Thụy Điển hoặc ở nước ngoài. Điều duy nhất khác biệt là nếu ai đó rời bỏ sự an toàn của một thị trấn nhỏ, người ta sẽ bàn tán, dự đoán rằng mọi thứ sẽ trở nên tồi tệ. Và trong trường hợp của mẹ hắn, họ ít nhiều cũng đúng. Sau vài năm ở miền đất hứa, bà ta đã trở lại với một đứa con trong bụng.
Kennedy Karlsson chưa bao giờ nghe nói một lời nào về bố mình, nhưng ngay cả điều đó cũng không phải là một cái cớ hay. Ngay trước khi hắn ra đời, mẹ hắn đã kết hôn với Christer, và ông ấy cũng tốt như một ông bố thực sự. Không, tất cả là vì cái tên. Hắn cho rằng mẹ hắn muốn gây sự chú ý và thể hiện mình đã được đi đây đi đó, mặc dù bà ta đã phải trở về nhà với sự xấu hổ. Hắn sẽ luôn là một lời nhắc nhở về điều đó. Thế là bà ta sẽ không bao giờ bỏ lỡ một cơ hội nào để khoe khoang rằng con trai cả của mình đã được đặt theo tên của John F. Kennedy, bởi vì trong những năm ở Mỹ, tôi đã ngưỡng mộ ông ấy rất nhiều
. Nếu quả thế, hắn tự hỏi tại sao bà ta không thể chỉ đơn giản đặt tên hắn là John.
Mẹ hắn và Christer đã cho các anh chị em của hắn một số phận tốt đẹp hơn. Đối với họ thì gọi là Emelie, Mikael và Thomas cũng đủ rồi. Những cái tên Thụy Điển bình thường, chân chất khiến hắn càng nổi bật hơn. Việc bố đẻ của hắn là người da đen cũng không làm cho vấn đề có gì tốt đẹp hơn, nhưng Kennedy không tin rằng điều đó lại làm cho hắn thành ra kỳ quặc đến vậy. Hắn tin rằng đó là do cái tên chết tiệt.
Khi còn nhỏ, hắn thực sự mong được đi học. Hắn nhớ rõ lắm chứ. Sự phấn khích, niềm vui, lòng háo hức khi bắt đầu một điều gì đó mới mẻ, khi nhìn thấy một thế giới hoàn toàn mới mẻ đang mở ra. Chỉ mất một hai ngày họ đã đập tan lòng nhiệt tình của hắn. Bởi vì cái tên khốn nạn đó. Hắn đã sớm học được rằng nổi bật giữa đám đông quả thực là một tội lỗi. Một cái tên buồn cười, mái tóc kỳ lạ, quần áo cũ mèm, những điều đó sẽ cho thấy kẻ nào không giống với những người còn lại. Trong trường hợp của hắn thì còn có một tình tiết tăng nặng: theo những người khác, hắn nghĩ rằng hắn ưu tú hơn vì hắn có một cái tên kỳ lạ như vậy. Như thể hắn là người đã chọn nó. Nếu hắn có thể lựa chọn, hắn đã chọn một cái tên Thụy Điển điển hình như Stefan hoặc Oskar hay Fredrik. Một cái tên sẽ cho phép hắn tự động gia nhập các hội nhóm.
Những ngày đi học của hắn càng lúc càng khủng khiếp hơn. Bị chế giễu, bị đánh đập, địa vị ngoài lề của hắn đã khiến hắn xây một bức tường cứng như đá granite quanh mình. Chẳng mấy chốc hành động của hắn bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ. Tất cả những tức giận hắn đã giữ bên trong các bức tường bắt đầu thoát ra ngoài như hơi nước qua những cái lỗ nhỏ, rồi lớn dần và lớn dần cho đến khi tất cả mọi người đều có thể nhìn thấy sự tức giận của hắn. Nhưng đã quá muộn. Trường học đã mất hết ý nghĩa với hắn, cả lòng tin vào gia đình cũng thế. Và bạn bè của hắn cũng không phải là kiểu bạn bè mà hắn lẽ ra nên có.
Kennedy đã buông mình cho số phận mà cái tên ban cho hắn. Vấn đề
đã được xăm trên trán hắn, và tất cả những gì hắn cần làm là sống sao cho phá tan mọi sự mong đợi. Một cách sống dễ dàng nhưng, ngược đời thay, cũng thật khó khăn.
Tất cả đã thay đổi khi hắn miễn cưỡng đến trang trại ở Bullaren. Đó là một điều kiện quản chế sau khi hắn bị bắt trong vụ trộm xe xui xẻo. Lúc đầu, thái độ của hắn là hạn chế thể hiện sự kháng cự để có thể ra khỏi đây càng sớm càng tốt. Rồi hắn gặp Jacob. Và thông qua Jacob, hắn gặp Chúa.
Nhưng trong mắt hắn thì cả hai cũng gần giống nhau thôi.
Chẳng có phép lạ nào xảy ra. Hắn không nghe thấy giọng nói như sấm rền từ trên cao, hay nhìn thấy tia sét nào đánh vào dưới chân mình chứng tỏ Thiên Chúa hiện hữu. Thay vào đó là những giờ hắn ở bên Jacob và cùng trò chuyện. Từng chút một, hắn đã nhìn thấy hình ảnh Thiên Chúa của Jacob xuất hiện. Như những miếng ghép đã dần dần tạo ra dáng vẻ của bức tranh mẫu được in trên bìa hộp.
Lúc đầu, Kennedy đã chống cự. Hắn bỏ đi và tiếp tục chơi bời với bạn bè. Hắn đã say ầm ĩ và bị lôi về một cách nhục nhã. Ngày hôm sau, với một cái đầu nhức nhối, hắn gặp ánh mắt ân cần của Jacob – ánh mắt ấy, kỳ lạ thay, dường như không bao giờ quở trách.
Hắn đã than phiền với Jacob về cái tên của mình, đổ thừa rằng mọi sai lầm hắn đã gây ra đều là từ cái tên ấy. Jacob đã phản đối bằng cách giảng giải cho hắn rằng tên của hắn là một điều tốt đẹp và đó thực sự là một chỉ dẫn cho cuộc đời hắn. Tên của hắn là một món quà, Jacob giải thích như thế. Từ những giây phút đầu tiên trong đời đã nhận được một danh tính độc đáo như vậy thì chỉ có thể nghĩa là Thiên Chúa đã chọn hắn trong số tất cả những kẻ khác. Cái tên khiến hắn đặc biệt, chứ không khác biệt.
Với lòng hăng hái giống như một người chết đói được dẫn tới bàn ăn, Kennedy bám chặt vào những lời Jacob nói. Dần dần hắn cũng hiểu ra rằng Jacob đã đúng. Cái tên là một món quà. Điều đó khiến hắn đặc biệt và cho thấy rằng Thiên Chúa đã có một kế hoạch cụ thể dành cho hắn, Kennedy Karlsson. Và hắn phải cảm ơn Jacob Hult vì đã tìm ra điều này trước khi quá muộn.
Hắn buồn bực khi thấy gần đây Jacob có vẻ lo lắng. Kennedy không thể không nghe thấy những tin đồn về việc gia đình Hult có liên quan tới các cô gái đã chết, và hắn nghĩ là hắn đã hiểu được lý do khiến Jacob buồn phiền. Bản thân hắn đã cảm thấy sự ác ý từ một cộng đồng đang đòi trả nợ máu. Bây giờ thì rõ ràng là gia đình Hult đã trở thành mục tiêu.
Kennedy thận trọng gõ cửa phòng Jacob. Hắn tưởng như đã nghe những giọng nói kích động bên trong. Khi hắn mở cửa thì Jacob vừa mới gác máy, vẻ mặt buồn phiền.
“Cái gì thế?”
“Chỉ là một vấn đề nhỏ nhặt trong gia đình ấy mà. Cháu không cần quan tâm đâu.”
“Vấn đề của chú là vấn đề của cháu, Jacob. Chú biết thế mà. Chú không thể cho cháu biết nó là gì à? Hãy tin cháu như cháu đã tin chú.”
Jacob mệt mỏi dụi dụi mắt, có vẻ như sắp sụp xuống.
“Thật ngu ngốc, tất cả mọi thứ. Vì một sai lầm mà bố chú đã gây ra hai mươi tư năm về trước mà cảnh sát nghĩ rằng nhà chú có liên quan gì đó tới vụ giết hại cô du khách người Đức đăng trên báo ấy.”
“Thật khủng khiếp.”
“Ừ, và tin mới nhất là sáng nay họ đào mộ của chú Johannes.”
“Cái gì? Họ đã xâm phạm cả đến sự yên bình của ngôi mộ ư?”
Jacob nở nụ cười méo xệch. Một năm trước đây Kennedy còn không hiểu điều đó có nghĩa là gì.
“Thật không may, đúng thế. Cả nhà đều khổ sở. Nhưng bọn chú không thể làm gì được.”
Kennedy cảm thấy cơn tức giận quen thuộc đang dâng lên trong lồng ngực. Mặc dù vậy, bây giờ nó đã khá hơn. Bây giờ nó đã trở thành cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
“Nhưng chú không thể tố cáo chúng nó à? Rằng chúng sách nhiễu hay gì đó?”
Jacob lại cười méo xệch, sầu thảm. “Vậy, sau những trải nghiệm của cháu với cảnh sát thì cháu vẫn cho rằng chuyện đó có thể được sao?”
Không, rõ ràng là không. Sự tôn trọng của hắn đối với bọn cảnh sát là rất ít, gần như không có. Hơn ai hết, hắn hiểu sự thất vọng của Jacob.
Kennedy cảm thấy một lòng biết ơn to lớn khi Jacob đã chọn hắn để chia sẻ những lo lắng của mình. Đó là một món quà mà hắn sẽ nhớ để tạ ơn Chúa khi cầu nguyện buổi tối. Hắn chực mở miệng nói với Jacob thì tiếng chuông điện thoại cắt ngang.
“Xin lỗi nhé.” Jacob nhấc ống nghe lên.
Vài phút sau đó, khi gác máy lên, trông anh thậm chí còn nhợt nhạt hơn. Chỉ nghe loáng thoáng cuộc thoại Kennedy cũng nhận ra người gọi là bố của Jacob. Hắn cố gắng tỏ vẻ như thể mình không hề hau háu nghe trộm.
“Có chuyện gì vậy?”
Jacob chậm rãi đặt kính xuống.
“Kể cho cháu đi, ông ấy đã nói gì?” Kennedy không thể che giấu được sự thật rằng trái tim hắn đang đau nhói lên vì lo lắng và quan tâm.
“Đó là bố của chú. Cảnh sát đã thẩm vấn em gái chú. Thằng em họ Stefan đã gọi cho cảnh sát và nói rằng nó và em gái chú đã nhìn thấy cô gái bị giết tại trang trại của chú. Ngay trước khi cô ta mất tích. Chúa cứu giúp tôi.”
“Chúa sẽ cứu giúp chú,” Kennedy thì thầm như một tiếng vọng.
Họ đã tụ tập trong văn phòng của Patrik. Khá chật chội, nhưng với một chút nỗ lực thì họ cũng cố nhồi nhét vào được. Mellberg đã đề nghị đến văn phòng của ông ta, rộng gấp ba lần các phòng khác, nhưng Patrik không muốn di dời những thứ anh đã gắn lên bảng tin phía sau bàn làm việc.
Tấm bảng đầy ghi chú và những mẩu giấy, ở giữa là ảnh của Siv, Mona, Tanja và Jenny. Patrik đang ngồi trên mép bàn, hơi quay lưng lại những người khác. Từ rất lâu rồi, tất cả mới tập trung lại cùng một chỗ: Patrik, Martin, Mellberg, Gösta, Ernst và Annika. Tinh hoa của đồn cảnh sát Tanumshede. Mọi đôi mắt đều tập trung vào Patrik. Đột nhiên anh cảm thấy trách nhiệm nặng gánh trên vai, và lưng anh bắt đầu lấm tấm những giọt mồ hôi. Anh luôn ghét trở thành trung tâm của sự chú ý, và cái suy nghĩ rằng mọi người đều đang chờ anh nói khiến anh sởn gai ốc lên. Anh hắng giọng.
“Nửa giờ trước, tôi nhận điện thoại của Tord Pedersen bên pháp y, anh ta đã nói với tôi rằng cuộc khai quật sáng nay không hề uổng phí công sức chút nào.” Đến đây, anh dừng lại và cho mình hài lòng thoáng chốc với những gì vừa nói ra. Anh đâu có muốn về sau mình trở thành trò cười cho các đồng nghiệp.
“Khám nghiệm thi thể Johannes Hult cho thấy rằng ông ta đã không tự treo cổ. Thay vào đó có vẻ như ông ta bị đánh mạnh vào gáy.”
Cả phòng há hốc miệng vì kinh ngạc. Patrik tiếp tục, biết rằng giờ đây anh đã có được toàn bộ sự chú ý của tất cả mọi người. “Vậy nên, chúng ta có thêm một vụ giết người nữa, mặc dù nó không còn mới. Tôi nghĩ đã tới lúc chúng ta nên có một cuộc họp để điểm qua những gì đã biết. Có câu hỏi nào không?” Im lặng. “Được rồi. Vậy bắt đầu thôi.”
Patrik bắt đầu bằng cách điểm qua tất cả các tài liệu cũ mà họ có về Siv và Mona, bao gồm cả lời khai của Gabriel. Anh tiếp tục với cái chết Tanja và các bằng chứng pháp y cho thấy cô đã chịu những tổn thương giống y hệt như Siv và Mona. Anh cũng đề cập đến một mối liên hệ khác, Tanja hóa ra lại là con gái của Siv, rồi tiếp tục bàn về lời khai của Stefan rằng gã đã nhìn thấy Tanja ở Västergärden.
Gösta cân nhắc. “Nhưng còn Jenny Möller? ít ra thì tôi không tin rằng có bất kỳ mối liên hệ nào giữa sự mất tích của cô bé và những vụ giết người.”
Mọi người đều nhìn vào tấm ảnh cô bé tóc vàng mười bảy tuổi đang mỉm cười với họ từ trên tấm bảng. Patrik cũng nhìn theo. Anh nói, “Tôi đồng ý với ông ở điểm đó, Gösta. Bây giờ đó chỉ là một trong số rất nhiều giả thuyết thôi. Nhưng các đội tìm kiếm đã chẳng có tiến triển gì, và dù chúng ta có giám sát bọn du côn có tiếng trong khu vực này thì cũng chỉ dẫn tới cái ngõ cụt Mårten Frisk. Vậy nên hy vọng duy nhất của chúng ta là sự giúp đỡ của cộng đồng và có người đã nhìn thấy gì đó. Đồng thời chúng ta cần phải tiếp tục điều tra theo hướng kẻ giết Tanja và bắt cóc Jenny là một. Điều đó đã đủ trả lời cho câu hỏi của ông chưa?”
Gösta gật đầu. Về cơ bản như thế có nghĩa là họ không biết gì cả, và nó đã xác nhận những gì ông đang nghĩ.
“Nhân tiện, Gösta, tôi nghe Annika nói ông và Ernst đã đi kiểm tra manh mối phân bón. Có kết quả gì không?”
Ernst trả lời thay vì Gösta. “Không có gì cả. Ông nông dân mà chúng tôi đã nói chuyện không liên quan gì đến vụ này hết.”
“Nhưng các ông cũng nhìn xung quanh một cái chứ, để cho chắc?” Patrik không bị thuyết phục bởi sự đảm bảo của Ernst.
“Phải, tất nhiên là chúng tôi đã làm. Và như tôi đã nói, không có gì cả,” Ernst chua chát trả lời.
Patrik nhìn Gösta dò hỏi, ông này gật đầu xác nhận.
“Vậy được rồi. Chúng ta sẽ phải nghĩ xem liệu tiếp tục theo hướng này thì có kết quả gì không. Đồng thời, như tôi đã nói, chúng ta nhận được tin báo rằng có người đã nhìn thấy Tanja ngay trước khi cô ta mất tích. Con trai của Johannes, Stefan, sáng nay đã gọi đến và báo tin gã đã nhìn thấy một cô gái ở Västergärden mà gã thề là Tanja. Cùng với cô chị họ Linda, con gái của Gabriel. Hôm nay Martin và tôi đã lái xe tới đó và nói chuyện với cô ta. Cô ta khẳng định rằng họ đã nhìn thấy một cô gái, nhưng cô ta không chắc chắn như Stefan rằng liệu đó có phải là Tanja hay không.”
“Nhưng mà chúng ta có thể tin tưởng nhân chứng này không? Hồ sơ tội phạm của Stefan và những thù oán trong gia đình khiến cho nó có vẻ cực kỳ đáng nghi, chúng ta có thể tin được bao nhiêu lời gã nói đây, anh không nghĩ thế sao?” Mellberg nói.
“Ừ, điều đó cũng khiến tôi lo lắng. Chắc chúng ta sẽ phải chờ xem Jacob Hult nói gì. Nhưng, dù sao đi nữa, tôi nghĩ rất đáng để chúng ta vẫn tiếp tục tập trung vào gia đình này. Dù chúng ta có quay về phía nào, thì cũng vẫn đụng phải nhà Hult.”
Văn phòng chật chội đang nóng lên nhanh chóng. Patrik đã mở một cửa sổ ra, nhưng không ích gì vì bên ngoài cũng chẳng hề mát mẻ hơn. Annika cố gắng quạt cho mình bằng quyển sổ ghi chú. Mellberg dùng tay chùi mồ hôi trên lông mày, và dưới lớp da rám nắng vẻ mặt Gösta đã thành ra xám ngoét đáng sợ. Martin đã mở các nút áo trên cùng, khiến Patrik ghen tị nhận xét rằng ít nhất vẫn có người xoay xở được thời gian để tập thể hình.
Chỉ có Ernst là trông có vẻ hoàn toàn không hề hấn gì. Ông ta nói, “Đúng, trong vụ này thì tôi sẽ đặt cược vào mấy thằng con hoang ấy. Chỉ có chúng nó là từng gặp rắc rối với cảnh sát trước đây.”
“Cả ông bố của họ nữa,” Patrik nhắc nhở.
“Chính xác, cả ông bố nữa. Điều đó chỉ thể hiện rằng cái nhà này dột từ nóc.”
“Thế còn thông tin Tanja đã được nhìn thấy lần cuối ở Västergärden? Theo cô em gái, vào lúc đó Jacob đang ở nhà. Điều đó dường như nhắm vào anh ta?”
Ernst khịt mũi. “Nhưng ai nói cô gái đã ở đó? Stefan Hult. Không, tôi không tin một lời nào gã ta nói.”
“Anh nghĩ khi nào thì chúng ta nên nói chuyện với Jacob?” Martin hỏi.
“Tôi nghĩ rằng anh và tôi nên đi Bullaren ngay sau cuộc họp này. Tôi đã gọi để kiểm tra, và hôm nay anh ta đi làm.”
“Anh nghĩ liệu có phải Gabriel đã gọi để cảnh báo anh ta không?”
“Chắc chắn rồi, nhưng về chuyện đó thì chúng ta không làm được gì cả. Chúng ta sẽ phải xem anh ta sẽ nói gì.”
“Chúng ta sẽ phải làm gì với thông tin Johannes đã bị sát hại?” Martin vẫn bướng bỉnh tiếp tục.
Patrik không muốn thừa nhận rằng anh thực sự không biết. Bây giờ có quá nhiều thứ để theo dõi, và anh sợ rằng nếu anh lùi lại một bước và nhìn vào toàn bộ bức tranh khổng lồ, tính chất choáng ngợp của những nhiệm vụ cần làm sẽ khiến cho anh không thể hành động nổi. Anh thở dài. “Chúng ta sẽ phải làm từng việc một. Chúng ta sẽ không đề cập đến chuyện đó với Jacob khi nói chuyện với anh ta. Tôi không muốn Solveig va mấy đứa con trai được tiết lộ trước chuyện này.”
“Vậy bước tiếp theo là nói chuyện với họ à?”
“Ừ, tôi nghĩ vậy là hay nhất. Trừ phi mọi người có ý nào hay hơn?”
Im lặng. Có vẻ không ai có ý nào hay hơn.
“Vậy những người còn lại bọn tôi làm gì đây?” Gösta thở nặng nề, và Patrik đột nhiên lo rằng ông có thể lên cơn đau tim trong cái nóng này.
“Annika nói rằng những tin tức trong cộng đồng đã dần lọt ra kể từ khi chúng ta đăng ảnh của Jenny trên các tờ rơi. Cô ấy đã sắp xếp chúng theo thứ tự cần chú ý, nên ông và Ernst có thể bắt đầu duyệt qua danh sách.”
Patrik hy vọng rằng anh đã không nhầm khi cho phép Ernst trở lại điều tra. Anh sẽ cho đồng nghiệp của mình thêm một cơ hội. Đó là những gì anh quyết định sau khi thấy Ernst dường như đã biết tuân lệnh khi ông ta cùng với Gösta điều tra đầu mối về phân bón.
“Annika, tôi muốn cô liên hệ lại với công ty phân bón đó và yêu cầu họ mở rộng khu vực tìm kiếm khách hàng. Tôi thấy khó mà tin được rằng các thi thể lại được vận chuyển quá xa, nhưng để chắc ăn thì cứ kiểm tra.”
“Không thành vấn đề.” Annika cầm sổ mà quạt thậm chí còn mạnh hơn. Những giọt mồ hôi đọng ở môi trên của cô.
Mellberg không được giao nhiệm vụ gì cả. Patrik biết rằng anh khó mà ra lệnh cho trưởng đồn được, mà anh cũng không thích ông ta tham gia những việc hằng ngày của công tác điều tra. Mặc dù anh phải thừa nhận rằng Mellberg đã làm tốt đến kinh ngạc khi giữ được các chính trị gia khỏi làm phiền.
Nhưng hiện giờ ông ta vẫn có chút gì đó bất thường. Bình thường thì giọng Mellberg to nhất, nhưng bây giờ, ông ta ngồi lặng lẽ, trông như thể đang ở một xứ sở xa xôi. Thái độ hồ hởi khiến tất cả hoang mang trong vài tuần qua đã được thay thế bằng sự im lặng thậm chí còn đáng lo ngại hơn.
Patrik hỏi, “Bertil, ông có muốn nói thêm gì không?”
Mellberg giật mình. “Cái gì? Xin lỗi, anh vừa nói gì?”
“Ông có muốn nói thêm gì không?”
“A, tôi hiểu rồi,” Mellberg nói, hắng giọng khi nhận thấy mọi con mắt đều hướng vào mình. “Không, tôi không nghĩ vậy. Có vẻ như anh đã kiểm soát được tình hình.”
Annika và Patrik liếc nhìn nhau. Bình thường ông ta tinh tường mọi chuyện xảy ra ở đồn như con cú vọ, nhưng bây giờ ông ta chỉ nhún vai và nhướng mày để thể hiện rằng mình cũng chẳng có ý tưởng nào hay hơn.
“Có câu hỏi nào nữa không? Không à? Được rồi. Quay trở lại với công việc thôi.”
Tất cả đều nhẹ nhõm khi thoát được khỏi văn phòng nóng nực để tìm chỗ khác mát hơn. Chỉ có Martin ở lại.
“Khi nào chúng ta đi?”
“Tôi nghĩ chúng ta nên ăn trưa rồi hẵng đi.”
“Được. Tôi ra ngoài mua gì đó cho cả hai luôn nhé? Rồi ta có thể ăn trong phòng ăn trưa.”
“Chắc chắn rồi, vậy thì tốt quá. Giờ tôi phải gọi Erica đã.”
“Chào cô ấy hộ tôi nhé.” Martin đã trên đường đi ra.
Patrik quay số ở nhà. Anh hy vọng rằng Jorgen và Madde không làm cho cô chán đến chết…
“Đây chắc chắn là một địa điểm khá cô lập.” Martin nhìn quanh nhưng chỉ thấy cây cối. Họ đã lái xe mười lăm phút trên những con đường rừng chật hẹp, và anh bắt đầu tự hỏi liệu có phải họ bị lạc rồi không.
“Đừng lo, tôi biết đường mà. Tôi đã đến đây một lần khi một trong mấy cậu con trai có chút mất kiểm soát, nên tôi có thể tìm được.”
Patrik nói đúng. Vài phút sau, họ rẽ vào trang trại.
“Vị trí đẹp đấy,” Martin nói.
“Đúng vậy, và họ cũng có chút danh tiếng. Hoặc ít nhất họ đã cố gắng duy trì cái mã tử tế với thế giới bên ngoài. Tôi hơi ngờ là ở đây sùng tín quá, nhưng đó chỉ là ý kiến của tôi thôi. Ngay cả khi mục đích ban đầu của các cộng đồng tôn giáo tự do có tốt đẹp đi chăng nữa, thì sớm hay muộn họ cũng thu hút nhiều người lạ.Họ mang lại một cảm giác cộng đồng và gia đình mạnh mẽ, điều đó sẽ lôi cuốn những người cảm thấy mình không thuộc về nơi nào cả.”
“Nghe có vẻ như anh biết rõ anh đang nói về cái gì.”
“Ừ, em gái tôi đã từng bị lôi kéo vào một tình huống khá lạ lùng. Anh biết đấy, cái thời kỳ tò mò hồi nó mới dậy thì. Nhưng con bé đã thoát ra lành lặn, nên cũng không tệ lắm. Nhưng tôi đã biết những thứ này hoạt động ra sao đủ để có một thái độ hoài nghi chừng mực. Nhưng như tôi đã nói, tôi chưa bao giờ nghe bất cứ điều gì tiêu cực về cái nhóm này cả, do đó, có thể cũng không có lý do gì để phải nghi ngờ.”
“Ừ, cũng đâu có liên quan tới cuộc điều tra của chúng ta,” Martin nói.
Nghe có vẻ giống như một lời cảnh cáo, và anh cũng có ý cảnh cáo thật. Patrik thường suy nghĩ đúng mực, nhưng đã có cái vẻ khinh thường trong giọng anh khiến Martin thấy lo ngại rằng những cảm xúc cá nhân có thể ảnh hưởng đến cuộc thẩm vấn Jacob của họ.
Patrik dường như đọc được ý nghĩ của Martin. Anh mỉm cười. “Đừng lo. Nó chỉ là chút ác cảm cá nhân của tôi thôi, không liên quan tới vụ này đâu.”
Họ đậu xe và ra ngoài. Cả trang trại đang hăng say lao động. Các cô cậu bé dường như đang làm việc ở khắp mọi nơi, trong nhà và ngoài sân. Một nhóm đang bơi dưới hồ, ồn ào khủng khiếp. Trông thật bình dị. Martin và Patrik gõ cửa. Một gã trai trẻ ra mở cửa. Cả hai đều giật mình. Nếu không vì thái độ cau có của hắn thì họ cũng chẳng nhận ra.
“Chào, Kennedy.”
“Các ông muốn gì?” Giọng hắn gây gổ.
Cả Patrik lẫn Martin đều không thể không nhìn hắn chằm chằm. Mái tóc dài luôn rũ xuống mặt đã biến mất. Cũng biến mất luôn cả những bộ đồ đen và nước da ốm yếu. Gã trai đứng trước mặt họ bây giờ quá sạch sẽ và được chải chuốt đến mức gần như tỏa sáng. Nhưng vẻ gây gổ của hắn khiến họ nhớ rằng họ đã bắt hắn nhiều lần vì ăn cắp xe, tàng trữ ma túy và nhiều tội khác.
“Trông cậu khá đấy, Kennedy,” Patrik nói với giọng thân thiện. Anh luôn cảm thấy thương hại cho gã trai này.
Kennedy không thèm trả lời. Thay vào đó, hắn lặp lại, “Các ông muốn gì?”
“Chúng tôi muốn nói chuyện với Jacob. Anh ta có ở trong không?”
Kennedy chặn họ lại. “Các ông muốn làm gì với chú ấy?”
Vẫn với vẻ thân thiện, Patrik nói, “Không liên quan đến cậu. Để tôi hỏi lại lần nữa, anh ta có ở trong không?”
“Quỷ tha ma bắt tôi đi nếu các ông đến đây và quấy rầy chú ấy. Hoặc gia đình chú ấy. Tôi đã nghe nói các ông đang cố gắng làm gì rồi, và các ông nên biết rằng tôi thấy việc đó thật đê tiện. Nhưng các ông sẽ nhận được những gì xứng đáng. Chúa nhìn thấy tất cả, và Người có thể thấu đến tận tim các ông.”
Martin và Patrik nhìn nhau. “Được rồi, ổn mà, Kennedy, nhưng bây giờ thì tốt nhất là cậu tránh sang một bên và để cho chúng tôi vào.”
Giờ thì giọng Patrik trở nên đe dọa, và sau một lúc cân nhắc, Kennedy lùi lại miễn cưỡng cho họ vào.
“Cảm ơn,” Martin nói cộc lốc và theo Patrik đi xuống sảnh. Patrik dường như biết mình đang đi đâu.
“Văn phòng của anh ta ở cuối hành lang, theo như tôi nhớ.”
Kennedy theo sau, cách họ một vài bước, như một cái bóng im lặng. Dù trời nóng, Martin vẫn phải rùng mình.
Họ gõ cửa. Khi họ bước vào thì Jacob đang ngồi sau bàn làm việc. Anh ta không có vẻ ngạc nhiên khi thấy họ.
“Ô, xem ai đến đây này. Mấy anh cảnh sát. Các anh không bắt được tên tội phạm thực sự nào hả?”
Đằng sau họ, Kennedy đứng ở cửa, hai tay nắm chặt.
“Cảm ơn, Kennedy, cháu có thể đi được rồi. Và đóng cửa lại.”
Không nói gì nhưng vẻ đầy miễn cưỡng, hắn đành tuân lệnh.
“Thế anh cũng biết lý do tại sao chúng tôi lại ở đây rồi nhỉ, tôi nghĩ vậy,” Patrik nói.
Jacob bỏ kính ra và ngả người về phía trước. Anh ta trông như thể thấy phiền.
“Vâng, bố tôi đã gọi cho tôi khoảng một giờ trước. Ông ấy kể một câu chuyện điên rồ rằng cậu em họ thân mến của tôi đã tuyên bố nó nhìn thấy cô gái bị giết kia ở nhà tôi.”
“Chuyện đó có thật chứ?” Patrik nhìn Jacob chăm chú.
“Tất nhiên là không.” Anh ta gõ gõ cái kính trên bàn. “Tại sao mà cô ta lại đến Västergärden chứ? Theo những gì tôi biết thì cô ta là du khách, mà trang trại thì đâu có ở trên tuyến đường du lịch. Và chừng nào cái gọi là lời chứng của Stefan được quan tâm… à, các anh cũng biết vào lúc này thì hoàn cảnh gia đình chúng tôi như thế nào rồi. Thật không may là Solveig và các con trai của bà ta đã tận dụng mọi cơ hội để bôi nhọ gia đình chúng tôi. Điều đó rất khó chịu, một vài người trong tim chẳng hề có Chúa. Cái mà họ có là một thứ gì đó hoàn toàn khác…”
“E rằng điều đó lại đúng đấy,” Patrik nói, mỉm cười nhã nhặn, “thực ra chúng tôi biết tại sao cô gái ấy lại có việc ở Västergärden.” Có phải anh vừa nhìn thấy một tia lo lắng lóe lên trong mắt Jacob không nhỉ? Anh nói tiếp, “Cô ấy không đến Fjällbacka du lịch, mà là đi tìm cội nguồn của mình. Và có lẽ để tìm hiểu thêm về sự mất tích của mẹ mình.”
“Mẹ cô ta?” Jacob hoang mang nói.
“Vâng, cô ta là con gái của Siv Lantin.”
Kính của Jacob rơi lanh canh xuống bàn làm việc. Sự kinh ngạc này là vờ vịt hay thực lòng? Martin tự hỏi, để cho Patrik thực hiện cuộc thẩm vấn. Trong lúc đó, anh dành thời gian quan sát phản ứng của Jacob khi họ nói chuyện.
“Vâng, đó là tin quan trọng đấy, tôi phải nói thế. Nhưng tôi vẫn không hiểu cô ta có việc gì ở Västergärden.”
“Như tôi đã nói, cô ấy dường như đang cố gắng tìm hiểu thêm thông tin về những gì đã xảy ra với mẹ mình. Và xét đến chuyện chú của anh là nghi phạm chính trong vụ án…” Anh không nói hết câu.
“Tôi phải nói rằng tất cả những điều này đối với tôi đều chỉ là suy đoán ngông cuồng. Chú tôi vô tội, vậy mà các anh đã đưa chú ấy đến cái chết bằng những lời ám chỉ bóng gió. Chú ấy đã mất, dường như các anh muốn thử đưa một người khác trong nhà tôi vào tù. Nói cho tôi nghe xem nào, cái dằm nào trong tim các anh đang ăn mòn các anh và khiến các anh cảm thấy cần phải hủy hoại những gì người khác đã tạo ra? Có phải đức tin và niềm vui chúng tôi tìm thấy trong đó khiến các anh không thể chịu nổi?”
Jacob đã chuyển sang chế độ giảng đạo, và Martin đã hiểu tại sao anh ta lại là một nhà thuyết giáo được yêu mến như vậy. Có gì đó thật hút hồn trong giọng nói nhẹ nhàng lên bổng xuống trầm của anh ta.
“Chúng tôi chỉ làm công việc của mình thôi.”
Giọng Patrik cộc lốc và anh buộc phải ngăn mình thể hiện sự chán ghét đối với tất cả những gì anh coi là chuyện tôn giáo tầm phào vô vị. Nhưng anh cũng phải thừa nhận rằng Jacob đã có một sức mạnh nhất định khi anh ta nói. Những người yếu đuối hơn có thể sẽ dễ dàng đầu hàng giọng nói và bị cám dỗ bởi thông điệp của anh ta. Anh nói tiếp, “Vậy anh nói rằng Tanja Schmidt chưa bao giờ đến Västergärden?”
Jacob vung tay lên. “Tôi thề rằng tôi chưa bao giờ nhìn thấy cô gái ấy. Còn gì nữa không?”
Martin nghĩ về những gì họ đã nghe được từ Pedersen, chuyên viên pháp y. Sự thực là Johannes đã không tự tử. Thông tin đó có thể sẽ lung lay Jacob được một chút. Nhưng anh biết rằng Patrik đã đúng. Có khi họ còn chưa ra khỏi phòng thì điện thoại đã bắt đầu đổ chuông ở nhà của những thành viên còn lại trong gia đình Hult.
“Không, tôi nghĩ đó là tất cả. Nhưng có thể chúng tôi sẽ quay lại sau.”
“Tôi sẽ không ngạc nhiên.”
Giọng Jacob đã mất đi vẻ thuyết giáo và lại trở về nhẹ nhàng và bình tĩnh. Martin mới chạm vào tay nắm cửa thì cửa đã lặng lẽ mở ra. Kennedy đứng lặng lẽ bên ngoài, và hắn đã mở cửa đúng lúc. Không còn nghi ngờ gì, hắn đã nghe trộm. Một ngọn lửa đen sáng rực trong mắt hắn. Martin chùn lại vì lòng căm thù anh nhìn thấy ở đó. Jacob chắc đã dạy hắn về mạng đền mạng
nhiều hơn yêu người quanh ta
.
Không khí quanh cái bàn nhỏ thật ngột ngạt. Nhưng cũng chẳng phải ở đây đã từng vui vẻ gì cho cam. Không còn vui vẻ nữa, kể từ khi Johannes chết.
“Khi nào thì chuyện này mới kết thúc?” Solveig nói, ấn tay vào ngực. “Tại sao chúng ta cứ giẫm phải cứt thế? Mọi người hình như tin rằng chúng ta chỉ ngồi đây chờ bị ăn đạp!” bà ta rên rỉ. “Người ta sẽ nói gì bây giờ, khi họ nghe tin cảnh sát lại đào Johannes lên! Khi họ phát hiện ra cô gái mới bị giết ấy mẹ cứ tưởng rằng tin đồn cuối cùng cũng chấm dứt, nhưng bây giờ thì tất cả lại bắt đầu.”
“Kệ bọn họ nói, chết tiệt! Chúng ta quan tâm làm gì chuyện họ xì xầm sau lưng mình?” Robert dụi điếu thuốc mạnh đến nỗi cái gạt tàn lật nghiêng sang một bên.
Solveig chộp lấy những quyển album của bà ta. “Robert! Cẩn thận! Con làm cháy sém quyển album thì sao.”
“Con phát ốm với mấy quyển album khốn kiếp của mẹ rồi! Ngày này qua ngày khác mẹ ngồi đó mà nghịch vớ vẩn những tấm ảnh cũ rích chết giẫm. Mẹ không hiểu à? Những ngày ấy đã qua rồi. Giống như từ một trăm năm trước rồi, nhưng mẹ cứ thở dài và xới tung lên những tấm ảnh của nợ. Bố đã mất rồi và mẹ không còn là hoa khôi nữa đâu. Mẹ tự nhìn lại mẹ đi.”
Robert giật lấy mấy quyển album và quăng xuống sàn. Solveig thét lên rồi lao theo và bắt đầu nhặt nhạnh những tấm ảnh đang vương vãi khắp sàn. Điều đó chỉ làm cho Robert điên tiết thêm. Hắn lờ đi cái nhìn cầu xin của Solveig, cúi xuống, nhặt vài tấm ảnh lên và bắt đầu xé ra từng mảnh nhỏ.
“Không, Robert, không, đừng xé ảnh của mẹ! Làm ơn đi, Robert!” Miệng bà ta giống như một vết thương hở.
“Mẹ là một bà già béo phì, mẹ không nhận ra điều đó à? Còn bố thì tự tử rồi. Đã đến lúc mẹ phải chấp nhận điều đó.”
Stefan ngồi như đóng băng giữa cảnh này. Bây giờ gã đứng dậy và tóm chặt lấy tay Robert. Gã nhẹ nhàng nạy ra những tấm ảnh còn lại mà Robert vẫn nắm chặt và buộc thằng anh trai phải lắng nghe.
“Nào, anh bình tĩnh lại. Đây chính là những gì họ muốn, anh không thấy à? Họ muốn chúng ta chống lại nhau để gia đình mình tan đàn xẻ nghé. Nhưng chúng ta sẽ không cho họ được hài lòng, anh có nghe em nói không? Chúng ta phải đồng lòng. Bây giờ thì giúp mẹ dọn mấy quyển album đi.”
Cơn tức giận của Robert xì ra như khí trong quả bóng. Hắn dụi dụi mắt và nhìn đống lộn xộn mình gây ra với vẻ kinh hoàng. Solveig nằm sụt sịt trên sàn nhà như một hiện thân to béo và mềm oặt của nỗi tuyệt vọng, những mẩu ảnh trượt qua ngón tay bà. Tiếng bà nức nở thật đau lòng. Robert quỳ xuống và vòng tay quanh bà. Hắn nhẹ nhàng vuốt một sợi tóc nhờn trên trán bà rồi giúp bà đứng lên.
“Mẹ tha lỗi cho con, con rất xin lỗi, rất xin lỗi. Con sẽ giúp mẹ sửa lại những quyển album. Con không thể dán lại những tấm ảnh con đã xé, nhưng cũng không nhiều lắm đâu. Xem này, những cái đẹp nhất vẫn ở đây. Nhìn mẹ trong ảnh này này, mẹ đẹp chưa kìa.”
Hắn giơ một tấm ảnh lên trước mặt bà ta. Solveig tạo dáng trong bộ áo tắm giản dị đeo băng rôn ghi Nữ hoàng Tháng Năm 1967
. Và quả thực hồi đó bà rất xinh đẹp. Những tiếng nức nở của bà trở thành tiếng ho khan. Bà cầm lấy tấm ảnh từ hắn và mỉm cười. “Mẹ đẹp thật mà, phải không, Robert?”
“Đúng thế, mẹ ạ, mẹ rất đẹp. Cô gái xinh đẹp nhất mà con từng thấy!”
“Con nghĩ như vậy thật hả?”
Bà cười điệu đà và vuốt tóc hắn. Hắn giúp bà ngồi lên ghế.
“Vâng, thật mà. Con thề đấy.”
Một lúc sau, tất cả đã được nhặt nhạnh hết và bà lại vui vẻ nghịch những quyển album của mình. Stefan ra hiệu cho Robert rằng họ nên đi ra ngoài. Họ ngồi trên bậc thềm bên ngoài nhà và mỗi người châm một điếu thuốc.
“Chết tiệt, Robert, bây giờ anh không thể làm loạn thế được.”
Robert sục chân vào đám sỏi lạo xạo. Hắn không nói gì. Mà hắn có thể nói gì được?
Stefan đã rít một hơi thật sâu và hưởng thụ cảm giác khói rỉ ra giữa môi mình. “Chúng ta không được trúng kế của họ. Ý em là như em đã nói ở trong đó. Chúng ta phải đồng lòng.”
Robert vẫn ngồi im lặng. Hắn cảm thấy xấu hổ. Hắn sục chân qua lại tạo thành một cái lỗ giữa đám sỏi. Hắn quẳng đầu mẩu thuốc xuống lỗ và phủ đất lên nó, dù cũng không cần thiết phải làm thế. Mặt đất xung quanh họ rải rác đầy những tàn thuốc cũ. Sau một lúc, hắn quay sang nhìn Stefan.
“Stefan, mày bảo mày đã thấy cô ả kia ở Västergärden.” Hắn do dự. “Có thật không?”
Stefan rít một hơi thuốc cuối và cũng ném đầu lọc xuống đất. Gã đứng lên mà không nhìn anh trai mình.
“Thật bỏ mẹ đi được ấy chứ.” Rồi gã đi thẳng vào trong nhà.
Robert ngồi đó và lần đầu tiên trong đời, hắn cảm thấy một vực thẳm đã mở ra giữa mình với thằng em trai. Nó khiến hắn phát hoảng.
Buổi chiều trôi qua trong một sự yên bình giả tạo. Patrik không muốn vội vàng làm gì cho đến khi họ biết chi tiết hơn về việc khám nghiệm tử thi Johannes, nên anh cứ ngồi chờ điện thoại reo. Thấy bồn chồn, anh quyết định đi nói chuyện với Annika.
“Việc của anh thế nào rồi?” Như thường lệ, cô chăm chú nhìn anh qua vành kính.
“Cái nóng chẳng khiến nó dễ dàng hơn chút nào.” Vừa nói anh đã nhận thấy có làn gió dễ chịu trong văn phòng của Annika. Một cái quạt lớn được đặt trên bàn làm việc của cô, và Patrik khoan khoái nhắm mắt lại.
“Sao tôi không nghĩ ra cái này nhỉ? Tôi đã mua một cái quạt cho Erica ở nhà, vậy sao tôi không để một cái ở văn phòng luôn? Đó chắc chắn là việc đầu tiên tôi sẽ làm vào sáng mai.”
“Thế chuyện bầu bí của Erica sao rồi? Đúng thật là đáng thương cho cô gái tội nghiệp trong cái nóng thế này.”
“Ừ, trước khi tôi mua cho cô ấy cái quạt, cô ấy căng thẳng bức bối lắm. Cô ấy không ngủ được, lại còn bị chuột rút bắp chân, và hoàn toàn không thể nằm sấp được. Cô biết chuyện đó như thế nào mà.”
“Không, tôi không biết,” Annika nói.
Patrik bàng hoàng khi nhận ra anh vừa nói gì. Annika và chồng cô không có con, và anh chưa bao giờ dám hỏi lý do tại sao. Có lẽ họ không thể có con. Nếu vậy, anh đã phạm một sai lầm ngớ ngẩn với câu nói vừa rồi. Cô nhìn thấy sự bối rối của anh .
“Đừng lo. Chúng tôi đã quyết định vậy mà. Chúng tôi chưa bao giờ cảm thấy muốn có con. Đối với chúng tôi thì dành tình cảm cho lũ chó là đủ rồi.”
Patrik có thể cảm nhận được khí sắc đã trở lại trên gò má mình. “Tôi cứ sợ mình lỡ lời. Dù sao thì, bây giờ cả hai chúng tôi đều gặp khó khăn, nhưng rõ ràng là Erica phải chịu phần khó khán hơn. Chúng tôi chỉ muốn vượt qua nó bằng cách nào đó thôi. Và nhà tôi gần đây lại còn bị xâm chiếm nữa.”
“Xâm chiếm?” Annika nhướng mày.
“Họ hàng và người quen nghĩ rằng đến Fjällbacka chơi vào tháng Bảy là một ý tưởng bá cháy.”
“Và họ thật sự thích sai bảo hai người này nọ, phải không?” Annika nói. “Ừ, chúng tôi biết hết mà. Lúc đầu chúng tôi cũng gặp vấn đề đó với căn nhà mùa hè, cho đến khi chúng tôi chịu hết nổi và bảo tất cả lũ ăn bám ấy biến đi. Từ đó chúng tôi không nghe tin tức gì từ họ nữa, nhưng chúng tôi cũng chẳng nhớ họ là mấy. Bạn bè thực sự thì vẫn đến thăm vào tháng Mười một. Những người khác thì anh phải chấp nhận là mất thôi.”
“Đúng, quá đúng,” Patrik nói, “nhưng nói dễ hơn làm. Về cơ bản thì Erica đã quẳng đám khách đầu tiên ra khỏi nhà, nhưng bây giờ chúng tôi lại đang mắc kẹt với một đám nữa, cố gắng tỏ ra mến khách. Và tội nghiệp Erica, ở nhà cả ngày, tiếp tục chờ đến lúc họ bỏ đi.” Anh thở dài.
“Thế thì có lẽ anh cần phải đàn ông lên một tí và giải quyết tình hình này đi.”
“Tôi á?” Patrik nhìn Annika như thể bị xúc phạm.
“Chứ sao nữa, nếu Erica ở nhà bị căng thẳng quá mức trong khi anh thì lại xoay xở để trốn thoát được cả ngày, có lẽ anh nên bình tâm lại mà xem xem liệu cô ấy có được yên ổn một chút nào không. Có thể không dễ dàng gì với cô ấy. Cô ấy đã quen có sự nghiệp riêng, và đột nhiên cô ấy phải ngồi ở nhà và nhìn chằm chằm vào rốn trong khi cuộc sống của anh vẫn cứ sôi nổi như bình thường.”
“Tôi chưa bao giờ nghĩ theo chiều hướng đó,” Patrik ngại ngùng nói.
“Ừ, tôi nghĩ là anh chưa từng. Vậy tối nay anh cần phải tống cổ đám khách đi, dù Martin Luther có thì thầm gì vào tai anh đi chăng nữa. Rồi anh phải tỏ ra cuống quýt một cách thích hợp với bà mẹ tương lai. Anh đã nói chuyện với cô ấy và hỏi cô ấy làm gì khi ở nhà một mình cả ngày chưa? Tôi đoán là cô ấy không thể đi ra ngoài trong cái nóng này, nên cô ấy gần như là tù nhân trong nhà thôi.”
“Đúng thế.” Giờ thì Patrik thì thầm. Giống như bị một cái xe lu cán qua. Cổ họng anh nặng trĩu lo lắng. Không cần phải là thiên tài cũng thấy rằng Annika đã đúng. Sự kết hợp của thói vô tâm ích kỷ và thói quen vùi đầu vào công việc đã khiến anh bỏ bê Erica. Anh lại tưởng rằng cô đã rất vui sướng khi được nghỉ và toàn tâm toàn ý cho cái thai. Điều khiến cho anh phải xấu hổ là anh biết Erica rõ hơn thế. Anh biết rằng đối với cô, được làm việc gì đó có ý nghĩa là điều quan trọng như thế nào. Ăn không ngồi rồi thì không giống cô chút nào. Chắc chắn lý lẽ kia đã thỏa mãn mục đích đánh lừa bản thân anh.
“Thế anh không nghĩ rằng anh nên về nhà sớm một chút và chăm sóc vợ à?”
“Nhưng tôi đang chờ một cuộc gọi,” là phản ứng tự động của anh. Cái nhìn Annika dành cho anh nói rằng đó là câu trả lời sai.
“Điện thoại di động của anh chỉ hoạt động bên trong các bức tường của đồn cảnh sát, ý anh là thế hả? Kiểu như giới hạn phạm vi, anh nghĩ thế à?”
“Phải,” Patrik rên rỉ. Anh nhảy ra khỏi ghế. “Tôi sẽ về nhà ngay bây giờ. Cô sẽ chuyển hướng các cuộc gọi qua điện thoại di động cho tôi…?”
Annika nhìn anh như thể đầu óc anh có vấn đề, và anh lùi ra cửa. Nếu anh có một chiếc mũ, anh sẽ nắm chặt nó trong tay, cúi đầu bước ra khỏi phòng…
Nhưng có những biến cố không lường trước được lại xảy ra, và phải hơn một giờ sau anh mới rời đồn được.
Ernst đang lựa bánh để ăn kèm cà phê ở quán Hedemyr. Ông ta đã định vào tiệm bánh ngọt, nhưng chuỗi người đang xếp hàng đợi khiến ông ta đổi ý.
Đang lúc quyết định giữa bánh quế cuộn và bánh viên Delicato, ông ta chợt để ý thấy một vụ ồn ào dễ sợ trên lầu. Ông ta đặt bánh xuống và đi kiểm tra. Cửa hàng được chia thành ba tầng, ở tầng trệt là nhà hàng, buồng điện thoại công cộng và hiệu sách, tầng hai là cửa hiệu tạp hóa và tầng trên cùng là quần áo, giày dép và quà tặng. Hai người phụ nữ đứng cạnh quầy thanh toán giành giật một cái túi xách. Một người đeo phù hiệu trên ngực là nhân viên cửa hàng, còn người kia trông giống một nhân vật xuất hiện trong các bộ phim Nga rẻ tiền. Váy ngắn, tất lưới, mảnh áo trên trông như vừa với cỡ trẻ con mười hai tuổi, và lớp trang điểm đủ nhiều để tô màu bản đồ đường bộ từ Beckers.
“Không, không, túi của tôi!” cô ả rít lên bằng thứ tiếng Anh bồi.
“Tôi đã thấy chị lấy một món đồ,” người bán hàng trả lời, cũng bằng tiếng Anh nhưng với ngữ điệu Thụy Điển đặc biệt. Cô ta có vẻ nhẹ nhõm khi nhìn thấy Ernst.
“Ơn Chúa, hãy bắt giữ người phụ nữ này. Tôi thấy cô ta đi loanh quanh và nhét các thứ vào túi xách của mình, rồi trơ trẽn định đi ra khỏi đây.”
Ernst không chần chừ. Bằng hai bước dài ông ta đã đến bên cô ả và tóm lấy tay nghi phạm ăn cắp. Vì không biết tiếng Anh, ông ta cũng chẳng bận tâm hỏi han gì. Thay vào đó, ông ta thô lỗ giật chiếc túi xách to khỏi tay cô ả và cứ thế đổ hết mọi thứ bên trong xuống sàn. Một máy sấy tóc, một máy cạo râu, một bàn chải đánh răng chạy điện và, chẳng rõ vì sao, có cả một con lợn gốm với vòng hoa mùa hè trên đầu, tất cả đổ ra khỏi túi.
“Cô nói gì về chuyện này, hả?” Ernst nói bằng tiếng Thụy Điển. Người bán hàng dịch lại.
Cô ả chỉ lắc đầu và cố trông như thể bị choáng váng. Cô ả nói, “Tôi không biết gì. Nói chuyện với bạn trai của tôi, anh ấy sẽ xử lý. Anh ấy là trưởng đồn cảnh sát!”
“Quý cô đây nói gì thế?” Ernst rít lên. Ông ta phát cáu khi phải dựa vào một người phụ nữ để dịch cho mình.
“Cô ta nói rằng cô ta không biết gì cả. Và rằng ông nên nói chuyện với bạn trai của cô ta. Cô ta nói ông ấy là trưởng đồn cảnh sát?”
Người trợ lý bán hàng ngạc nhiên nhìn qua nhìn lại từ Ernst sang cô ả kia, giờ đang đứng cười hợm hĩnh.
“À vâng, cô ta sẽ có cơ hội được nói chuyện với cảnh sát, được thôi. Rồi để xem cô ta còn tiếp tục câu chuyện nhảm nhí của mình về anh ‘bạn trai trưởng đồn cảnh sát’ nữa hay thôi. Trò này có thể có tác dụng ở Nga hay cái nơi quỷ quái nào đó của cô, quý cô ạ, nhưng nó sẽ không ăn thua gì ở đây đâu,” ông ta hét lên, mặt chỉ cách mặt cô ả vài phân. Ả không hiểu gì, nhưng đây là lần đầu tiên ả trông có chút nao núng.
Ernst thô bạo hộ tống cô ả ra khỏi Hedemyr và băng qua đường để sang đồn cảnh sát. Ả bị lôi xềnh xệch phía sau trên đôi giày cao gót, và dân tình lái xe chậm lại để xem cảnh này. Annika trợn mắt khi ông ta xông qua bàn tiếp tân.
“Mellberg!” Ernst gọi vang vọng khắp hành lang. Patrik, Martin và Gösta đều ló đầu ra xem có chuyện gì. Ernst lại hét lên một lần nữa về phía văn phòng của Mellberg. “Mellberg, đến đây, có bạn gái của anh ở đây này!” Ông ta cười khoái trá ra mặt. Bây giờ cô ả sẽ nhận được sự trừng phạt xứng đáng. Trong văn phòng của Bertil yên tĩnh đến đáng ngại, và Ernst bắt đầu tự hỏi liệu trưởng đồn có bỏ ra ngoài khi ông ta đi mua sắm không. “Mellberg?” ông ta lại gọi lần thứ ba, giờ đã bớt sốt sắng với kế hoạch khiến cho người phụ nữ phải rút lại những lời đã nói. Ernst đứng ở giữa hành lang tóm chặt lấy cô ả và tất cả mọi người đều nhìn chằm chằm vào ông ta. Cuối cùng Mellberg bước ra khỏi văn phòng của mình, mắt dán xuống sàn. Ernst cảm thấy một khối u hình thành trong bụng mình khi nhận ra điều này có thể sẽ không xuôi chèo mát mái như ông ta đã tưởng tượng.
“Be-e-ertil!” Cô ả vùng ra và chạy về phía Mellberg, ông ta đóng băng tại chỗ như một con nai trước ánh đèn pha. Vì ả cao hơn ông đến hai mươi phân, nên thật buồn cười khi nhìn ả ôm chặt lấy ông ta. Ernst há hốc mồm. Cảm thấy muốn độn thổ, ông ta đã quyết định sẽ bắt đầu viết đon từ chức ngay lập tức. Trước khi bị đuổi cổ. Ông ta kinh hoàng nhận ra rằng bao nhiêu năm cần mẫn bợ đỡ sếp đã bị hủy hoại chỉ bởi một hành động lỡ dại.
Cô ả rời khỏi Mellberg và quay sang chỉ vào Ernst, ông ta đang đúng cầm túi xách đầy ngượng ngùng.
“Gã thô lỗ này đụng vào em! Gã bảo em ăn cắp! Ôi, Bertil, anh phải giúp Irina đáng thương của anh!”
Mellberg lúng túng vỗ nhẹ vào vai cô ả, có nghĩa là ông ta phải giơ tay lên ngang mũi mình. “Em về nhà đi, Irina, có được không? Về nhà. Anh sẽ về sau. Được không?”
Tiếng Anh của ông ta khá ngắc ngứ, nhưng cô ả hiểu những gì ông ta nói và không vui chút nào.
“Không, Bertil. Em ở lại đây. Anh nói chuyện với gã đó, và em ở lại đây xem anh làm việc, được không?”
Ông ta lắc đầu cương quyết và bắt đầu đẩy ả ra. Ả trở nên lo lắng và nói, “Nhưng mà Bertil, anh yêu, Irina không ăn cắp, nhỉ?”
Rồi ả khệnh khạng bỏ đi trên giày cao gót sau khi ném nốt cái nhìn hằn học đắc thắng về phía Ernst. Ông này giờ vẫn ngó chằm chằm xuống thảm và không dám nhìn thẳng vào mắt Mellberg.
“Lundgren! Vào văn phòng tôi ngay!”
Đến tai Ernst thì câu này nghe cứ như ngày tận thế. Ông ta cun cút đi theo sau Mellberg. Trong hành lang, những cái đầu vẫn ló ra, miệng há hốc. Giờ thì ít nhất họ cũng biết nguyên nhân khiến tâm tính Mellberg thất thường như vậy.
“Bây giờ anh vui lòng cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra chứ?” Mellberg nói.
Ernst yếu ớt gật đầu. Mồ hôi túa ra trên trán ông ta. Lần này thì không phải vì nóng.
Ông ta kể cho sếp nghe về vụ lộn xộn ở Hedemyr và ông ta đã nhìn thấy cô ả kia giằng co với người bán hàng như thế nào. Với giọng run run, ông ta cũng đã kể lại rằng mình đã đổ hết mọi thứ trong túi xách ra, và có vài món đồ chưa được trả tiền. Rồi ông ta im lặng và chờ đợi sự phán quyết. Ngạc nhiên thay, Mellberg chỉ ngả lưng vào ghế thở dài một tiếng.
“Đúng là tôi tự đâm đầu vào rắc rối.” Ông ta dừng lại một lúc, rồi cúi xuống và mở một ngán kéo. Ông ta lấy ra một thứ rồi ném qua bàn về phía Ernst.
“Đây là điều mà tôi đã mong đợi. Trang ba.”
Tò mò, Ernst cầm lên cái thứ trông giống như một quyển danh sách lớp học và mở trang ba. Các trang đầy ảnh phụ nữ, với những mô tả ngắn gọn về chiều cao, cân nặng, màu mắt và sở thích. Ông ta chợt nhận ra Irina là gì: một cô dâu đặt hàng qua thư
. Mặc dù vậy, Irina thục tế và chân dung của cô ả trong catalogue không giống nhau cho lắm. Trong bản mô tả, cô ả đã khấu trừ đi ít nhất mười tuổi, mười cân và cả tấn son phấn. Trong ảnh cô ả xinh đẹp và ngây thơ, nhìn thẳng vào máy ảnh với nụ cười tươi tắn. Ernst nhìn bức hình chân dung rồi lại nhìn Mellberg, ông này vung tay lên.
“Anh thấy đấy, đó là cô nàng mà tôi đã mong đợi. Chúng tôi đã trao đổi thư từ suốt một năm, và tôi gần như không thể đợi được đến lúc có được cô ta ở đây.” Ông ta hất hàm về phía quyển catalogue trên đùi Ernst. “Rồi cô ta đến.” Ông thở dài. “Như giội một gáo nước lạnh, tôi phải nói thế. Và nó bắt đầu ngay lập tức: Bertil, anh yêu, mua cho em cái này cái kia.
Tôi thậm chí còn bắt gặp cô ta lục ví của tôi khi cô ta nghĩ tôi không nhìn. Tôi thề, loạn cả lên.”
Ông ta vỗ nhẹ vào mớ tóc trên đỉnh đầu mình và Ernst nhận thấy rằng cái ông Mellberg chăm chút ngoại hình đã biến mất. Giờ áo của ông ta lại ố bẩn và những vệt mồ hôi dưới nách ông ta to như cái đĩa xa lát. Vậy cũng yên tâm phần nào. Mọi thứ đã trở lại với trật tự tự nhiên của chúng.
“Tôi mong anh sẽ không tiết lộ chuyện này.” Mellberg khua ngón tay về phía Ernst, ông này lắc đầu mạnh mẽ. Ông ta sẽ không nói một lời. Nhẹ nhõm cả người – cuối cùng thì ông ta sẽ không bị đuổi.
“Chúng ta có thể quên đi sự cố nhỏ này, được không? Tôi đảm bảo là sẽ lo liệu chuyện này. Cô ta sẽ bay chuyến sớm nhất về nhà.”
Ernst đứng dậy, cúi chào và lùi ra khỏi văn phòng.
“Mà anh bảo mọi người ngoài kia đừng có xì xào nữa và thay vào đó hãy bắt đầu làm việc nghiêm túc đi.”
Ernst ngoác miệng ra cười khi nghe thấy giọng nói cộc cằn của Mellberg. Trưởng đồn đã trở lại rồi.
Nếu Patrik có nghi ngờ gì về tính đúng đắn trong lời khuyên của Annika, nó đã biến mất ngay khi anh bước qua cửa. Erica lao vào vòng tay anh, và anh thấy vẻ kiệt sức phủ trên mặt cô như một tấm màn. Lương tâm tội lỗi ngay lập tức bắt đầu gặm nhấm anh. Lẽ ra anh cần phải nhạy cảm hơn, lưu tâm hơn tới tâm trạng của Erica. Thay vào đó, anh lại vùi đầu vào công việc thậm chí còn hơn cả lúc bình thường và để mặc cô loanh quanh trong nhà mà chẳng có việc gì thú vị để tiêu tán thời gian.
“Họ đang ở đâu?” anh thì thầm.
“Ngoài vườn,” Erica thì thầm đáp lại. “Ôi, Patrik, em không thể chịu đựng được họ thêm một ngày nữa đâu. Họ cứ ngồi ườn ra cả ngày và chờ em phục vụ. Em không thể chịu được nữa.”
Cô ngã quỵ trong vòng tay anh và anh vuốt ve mái tóc cô. “Đừng lo, anh sẽ xử lý vụ này. Anh xin lỗi, tuần vừa rồi anh không nên làm việc quá nhiều.”
“Anh đã hỏi em có ổn không và em bảo không sao. Mà anh cũng đâu có được lựa chọn,” Erica dựa vào sơ mi của anh, thì thầm.
Mặc dù cắn rứt lương tâm, Patrik cũng phải đồng ý vậy. Anh có thể làm gì khác đây nếu có một cô gái mất tích, có lẽ đang bị giam giữ ở đâu đó? Đồng thời, anh cũng cần phải đặt Erica và em bé và sức khỏe của hai mẹ con lên hàng đầu.
“Anh không phải là người duy nhất ở đồn. Anh có thể ủy thác nhiều việc chứ. Nhưng trước hết chúng ta có một vấn đề cấp bách hơn cần giải quyết.”
Anh rời khỏi Erica, hít một hơi thật sâu và đi ra ngoài vườn.
“Chào mọi người. Vui vẻ cả chứ?”
Jorgen và Madde hướng cái mũi màu neon về phía anh và hớn hở gật đầu. Tôi cá là mấy người rất vui, anh nghĩ – được phục vụ đầy đủ suốt cả ngày, nghĩ rằng đây là cái khách sạn chết tiệt nào đấy chắc.
“Nghe này, tôi đã giải quyết khó khăn của anh chị rồi. Tôi đã gọi một vòng và kiểm tra. Có chỗ trống ở Grand Hotel đấy, bởi vì nhiều người đang rời Fjällbacka, nhưng hình như anh chị đi du lịch với một ngân sách eo hẹp như vậy thì có lẽ sẽ không thích hợp?”
Jorgen và Madde, lúc đầu có vẻ lo lắng, giờ hăm hở đồng ý. Không, không thích hợp chút nào.
“Nhưng đừng lo,” Patrik nói, hài lòng khi nhìn thấy họ lại nhíu mày. “Tôi cũng đã gọi cho nhà khách ở Valo, và anh chị có tin được không? Họ có một phòng trống! Hết sảy, phải không? Giá rẻ và sạch sẽ. Không thể tuyệt vời hơn được!”
Anh vỗ tay với vẻ vui sướng phóng đại, đã lường trước lời phản đối mà anh nhìn thấy đang thành hình trên môi vị khách của mình. “Thế nên tốt nhất là anh chị phải bắt đầu đóng gói đồ đạc ngay đi thôi. Một giờ nữa tàu sẽ khỏi hành từ quảng trường Ingrid Bergman.”
Jorgen chực nói gì đó, nhưng Patrik giơ tay lên. “Không, không, không cần phải cảm ơn tôi đâu. Thực sự không phiền gì cả. Chỉ phải gọi vài cuộc điện thoại thôi.”
Với một nụ cười, anh trở lại nhà bếp, Erica đang nghe trộm bên cửa sổ. Họ đập tay nhau và cố nhịn để không phá lên cười.
“Hay thật,” Erica thì thầm với sự ngưỡng mộ. “Em không biết là em đã sống chung với một bậc thầy xảo quyệt tầm cỡ như vậy!”
“Có rất nhiều điều em không biết về anh, em yêu ạ. Anh là một người rất phức tạp, em thấy đấy…”
“Đúng rồi. Thế mà trước đây em luôn nghĩ rằng anh có vẻ chỉ làm được mỗi một việc,” cô cười trêu chọc anh.
“Ừ, nếu em không có cái bụng to chừng này, thì em sẽ biết được chính xác anh chỉ làm được mỗi một việc gì đấy,” Patrik cũng đong đưa. Anh cảm thấy nỗi căng thẳng bắt đầu tan đi sau những câu đùa cợt âu yếm của họ.
Anh bỗng trở nên nghiêm túc. “Em có nghe tin tức gì từ Anna không?”
Nụ cười của Erica biến mất. “Không, không gì cả. Em đã đi xuống bến tàu để kiểm tra nhưng thuyền không còn thả neo ở đó nữa.”
“Em có nghĩ rằng em ấy đã về nhà không?”
“Em không biết. Có thể là thế hoặc là họ đang tiếp tục chèo thuyền đến một bờ biển ở đâu đó. Nhưng anh biết gì không? Em không còn sức mà lo về chuyện đó nữa. Em đã phát ốm lên vì cái bệnh giận dỗi và cái thói cáu bẳn của nó ngay khi em nói sai cái gì.”
Cô thở dài và bắt đầu nói gì đó nữa, nhưng họ đã bị cắt ngang vì Jorgen và Madde lướt qua để đi thu dọn đồ đạc của họ.
Một lúc sau, sau khi Patrik đã chở những du khách bất đắc dĩ xuống tàu tới Valo, họ lại ngồi ngoài hiên nhà để tận hưởng sự tĩnh lặng. Háo hức được làm hài lòng vợ mà vẫn có cảm giác muốn đền bù thật nhiều, Patrik xoa bóp bàn chân và bắp chân sưng phù của cô để cô thở dài khoan khoái. Anh gạt đi mọi ý nghĩ về những cô gái đã bị sát hại, và cả Jenny Möller đang mất tích. Đôi khi tâm hồn anh cũng phải được nghỉ ngơi một chút.
Cuộc gọi tới vào buổi sáng. Là một phần trong quyết định sẽ chăm sóc vợ tốt hơn, Patrik đã quyết định nghỉ làm sáng nay. Họ đang ngồi ăn sáng trong sự yên bình và tĩnh lặng của khu vườn thì Pedersen gọi. Nhìn Erica đầy hối lỗi, anh đứng dậy khỏi bàn, nhưng cô chỉ mỉm cười vẫy tay với anh. Trông cô đã mãn nguyện hơn nhiều.
“Các anh đã có gì đó đáng chú ý hả?” Patrik nói.
“Anh có thể nói vậy. Nếu chúng ta bắt đầu với nguyên nhân tử vong của Johannes Hult thì quan sát ban đầu của tôi đã đúng. Johannes đã không tự treo cổ. Nếu anh nói với tôi rằng ông ta đã được tìm thấy trên sàn nhà với một cái thòng lọng quanh cổ, thì thòng lọng đã được tròng vào đó sau khi ông ta chết. Nguyên nhân tử vong thực sự là một cú đánh mạnh vào gáy bằng một vật cứng, nhưng không cùn. Cái gì đó có cạnh sắc. Ông ta cũng bị chấn thương quai hàm, có thể là do một đòn đánh từ phía trước.”
“Vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta đang nói về một vụ giết người sao?” Patrik nắm chặt điện thoại.
“Đúng vậy, đây không thể là những vết thương tự gây ra được.”
“Ông ta đã chết được bao lâu?”
“Khó nói. Nhưng ông ta đã nằm dưới đất lâu rồi. Tôi đoán thời điểm tử vong cũng tương ứng với thời điểm ông ta được cho là đã treo cổ tự tử. Vậy, không phải về sau này ông ta mới được chôn cất đâu, nếu đó là giả thuyết anh đang theo đuổi,” Pedersen nói với giọng buồn cười.
Một khoảnh khắc im lặng khi Patrik nghĩ về những gì Pedersen vừa nói. Rồi một ý nghĩ đến với anh. “Anh nói rằng anh đã tìm thấy một cái gì đó nữa khi kiểm tra Johannes. Đó là gì?”
“A phải, anh sẽ thích điều này đấy. Ở đây chúng tôi có một thực tập sinh rất mạnh dạn, và cô ta đã có ý tưởng lấy mẫu DNA từ Johannes, đằng nào thì gã cũng bị đào lên rồi, và so sánh nó với mẫu tinh dịch đã được tìm thấy trên Tanja Schmidt.”
“Sao?” Patrik có thể nghe thấy tiếng mình thở nặng nhọc, căng thẳng dè trước.
“Kết quả gần giống hệt, thề luôn! Kẻ đã giết Tanja Schmidt chắc chắn có họ hàng với Johannes Hult.”
Patrik chưa bao giờ nghe thấy tiếng chửi thề từ Pedersen con người nghiêm túc, nhưng bây giờ lòng anh cũng đang dội lại cảm xúc của anh ta. Ừ, khốn kiếp thật, anh nghĩ. Anh ngừng một chút để trấn tĩnh lại rồi nói, “Anh có biết được là có họ hàng như thế nào không?” Tim anh đập thình thịch trong lồng ngực.
“Có, chúng tôi đang xem xét nó đây. Nhưng chúng tôi cần nhiều mẫu vật liên quan hơn nữa, vậy nên nhiệm vụ của anh bây giờ là phải thu thập mẫu máu của tất cả các thành viên trong gia đình Hult.”
“Tất cả bọn họ?” Patrik nói. Chỉ cần nghĩ về cách phản ứng của nhà ấy trước sự xâm phạm quyền riêng tư này, anh đã thấy mệt mỏi.
Anh cảm ơn Pedersen vì thông tin và trở lại bàn ăn sáng, Erica vẫn ngồi như một thánh mẫu, với chiếc áo ngủ màu trắng bồng bềnh và mái tóc vàng suôn dài. Cô vẫn luôn khiến anh kinh ngạc đến nín thở.
“Đi đi,” cô nói, vẫy tay chào anh, và anh hôn lên má cô đầy cảm kích.
“Hôm nay em có việc gì để làm không?” anh hỏi.
“Một lợi thế của việc có những vị khách hay đòi hỏi là em sẽ trông chờ được dành cả một ngày để thư giãn. Nói cách khác, em đã quyết định hôm nay sẽ không làm gì cả. Chỉ nằm ngoài trời và đọc sách, và ăn vài món ngon.”
“Vậy cũng nghe như một kế hoạch rồi. Hôm nay chắc chắn anh sẽ về nhà sớm. Muộn nhất là bốn giờ thì anh đã ở nhà rồi, anh hứa.”
“Cố lên anh nhé. Khi nào mình gặp thì gặp. Giờ chạy đi, em thấy đế giày của anh đang cháy kìa.”
Cô không phải nói đến lần thứ hai. Anh vội vàng đi tới đồn cảnh sát.
Hai mươi phút sau đó, khi anh đến nơi, những người khác đang ngồi trong phòng ăn và uống cà phê sáng. Với vẻ có lỗi, anh nhận thấy rằng đã muộn hơn anh nghĩ.
“Chào, Hedström, hôm nay anh quên đặt đồng hồ báo thức hay sao thế?”
Ernst, sự tự tin đã được khôi phục hoàn toàn, lại có vẻ hách dịch như thường.
“Chỉ dành vài giờ để đền bù cho những buổi làm thêm thôi mà. Vợ tôi cũng cần một chút yêu thương chăm sóc nhẹ nhàng chứ,” Patrik nói, nháy mắt với Annika vừa từ chỗ bàn tiếp tân tạt vào.
“À, đây chắc là một trong những đặc quyền của sếp, được ngủ thêm vài giờ nếu anh ta thích,” Ernst không thể nhịn được vặn lại.
“Tôi phụ trách cuộc điều tra này, dĩ nhiên, nhưng tôi không phải là sếp,” Patrik nhẹ nhàng chỉ ra. Annika nhìn Ernst không chút thân thiện.
Patrik tiếp tục, “Và với tư cách là người đứng đầu cuộc điều tra, tôi có vài tin tức – và một nhiệm vụ mới.”
Anh thông báo với họ những gì Pedersen vừa nói, và trong một khoảnh khắc tâm trạng hoan hỉ lan khắp phòng ăn của đồn cảnh sát Tanumshede.
“Vậy, giờ chúng ta đã nhanh chóng thu hẹp phạm vi chỉ còn bốn nghi phạm,” Gösta nói. “Stefan, Robert, Jacob và Gabriel.”
“Đúng thế, và đừng quên nơi Tanja được nhìn thấy lần cuối,” Martin nói.
“Theo Stefan,” Ernst nhắc nhở họ. “Đừng quên rằng Stefan là người khẳng định đã nhìn thấy cô ta. Cá nhân tôi thì tôi muốn tìm một nhân chứng đáng tin cậy hơn một chút.”
“Nhưng Linda cũng nói rằng họ đã nhìn thấy ai đó khi họ ở đấy vào buổi tối hôm đó, nên…”
Patrik cắt ngang Ernst và Martin. “Đó có thể là một điểm cần tranh luận. Chúng ta phải tập hợp mọi người trong nhà Hult và thực hiện xét nghiệm DNA ngay lập tức, chúng ta sẽ không cần phải suy đoán nữa. Chúng ta sẽ biết. Trên đường tới đây, tôi đã gọi điện để xin những giấy phép cần thiết. Mọi người đều biết tại sao việc này lại khẩn cấp thế, nên giờ tôi đang mong một gã tháo vát từ văn phòng công tố có thể đến vào bất cứ lúc nào.”
Anh rót cho mình một tách cà phê và ngồi xuống với những người khác. Anh đặt điện thoại di động của mình ở giữa bàn, ai nấy đều không kìm được mà liếc qua nó.
“Vậy, các anh nghĩ gì về chuyện hôm qua?” Ernst cười sằng sặc. Ông ta đã nhanh chóng và tự tin quên lời hứa rằng sẽ không buôn chuyện về những gì Mellberg nói với mình. Đến lúc này, tất cả bọn họ đều đã nghe về cô dâu đặt qua thư của Mellberg, và họ chưa từng có một trận cười nào đã như vậy trong suốt cả năm qua. Đó là chuyện sẽ được đem ra bàn tán ngoài tầm tai của trưởng đồn trong một thời gian dài sắp tới.
“Thằng cha tội nghiệp,” Gösta cười. “Nếu anh thèm đàn bà đến nỗi phải đặt một ả qua catalogue, thì anh chỉ có thể đổ lỗi cho chính mình thôi.”
“Chắc ông ta phải ê mặt lắm khi đến đón nàng ở sân bay và nhận ra mình đã vỡ mộng nhỉ, đấy là nói giảm nói tránh đấy.” Annika cũng cười nhạo trưởng đồn. Cười trên nỗi bất hạnh của người khác cũng không tệ lắm khi Mellberg là mục tiêu.
“Ừ, tôi phải nói rằng cô ta chẳng thỏa mãn với vinh quang đã đạt được chút nào. Cô ta đi thẳng đến cửa hàng để nhét cho đầy túi mình. Và hình như ăn cắp cái gì cũng không quan trọng lắm với cô ta, miễn là nó có gắn một nhãn ghi giá tiền,” Ernst cười. “Mà đang nói đến ăn cắp, nghe này. Lão Persson già, mà Gösta và tôi đến hỏi thăm hôm qua ấy, kể với chúng tôi rằng có thằng đần nào đó cứ ăn cắp phân bón của lão. Lão đã bị mất vài bao tải lớn môi lần đặt hàng mới. Các anh có thể tin được rằng có kẻ nào đó keo bẩn đến mức chôm vài bao phân? Tất nhiên là phân cũng khá đắt, nhưng vẫn…” Ông ta đập vào đầu gối mình. “Ôi, Chúa ơi,” ông ta nói, quẹt một giọt nước mắt. Rồi ông ta nhận ra xung quanh mình chỉ còn sự im lặng chết chóc.
“Ông vừa nói gì?” Patrik hỏi bằng giọng đáng sợ. Ernst đã nghe giọng nói đó chỉ mới vài ngày trước, và ông ta biết rằng thôi lại xong rồi.
“A, ừ, lão nói rằng có ai đó đã ăn cắp những bao tải phân bón của lão.”
“Và rằng Västergärden là trang trại gần nhất, vậy ông không thấy rằng chuyện này có thể là thông tin giá trị à?”
Giọng nói của người đồng nghiệp lạnh lùng đến nỗi Ernst cảm thấy da thịt tê cóng. Patrik quay sang Gösta. “Ông có nghe thấy chuyện này không, Gösta?”
“Không, lão nông dân đó chắc đã nói với anh ta trong vài phút khi tôi vào nhà vệ sinh.” Ông trừng mắt nhìn Ernst.
“Tôi không hề nghĩ gì đến nó cả,” Ernst rên rỉ nói. “Chết tiệt, tôi làm sao mà nhớ được tất cả mọi thứ.”
“Đó chính xác là việc ông cần phải nhớ đấy. Nhưng chúng ta sẽ nói thêm về điều này sau. Câu hỏi đặt ra là, điều đó có nghĩa gì đối với chúng ta?”
Martin giơ tay lên, như thể anh vẫn còn đang ở trường học. “Có phải tôi là người duy nhất nghĩ rằng chúng ta nên bắt đầu từ Jacob?” Không ai trả lời nên anh bèn giải thích. “Trước hết, chúng ta có một lời chứng, mặc dù từ một nguồn không chắc chắn, nói rằng Tanja đã ở Västergärden ngay trước khi cô ấy biến mất. Thứ hai, DNA đã được tìm thấy trên cơ thể Tanja là từ một người nào đó có họ hàng với Johannes. Và thứ ba, những bao tải phân bón đã bị đánh cắp từ một trang trại nằm ngay bên cạnh Västergärden. Vậy ít nhất cũng đủ lý do để tôi nghĩ rằng chúng ta nên gọi anh ta tới để trò chuyện một chút. Và trong thời gian đó chúng ta có thể khám xét quanh nhà anh ta.”
Vẫn không ai nói gì, nên Martin tiếp tục với lập luận của mình. “Như anh đã nói, Patrik, đây là việc khẩn cấp. Chúng ta cũng chẳng thiệt gì nếu khám xét một chút và siết mấy ngón tay của Jacob. Chúng ta sẽ chỉ thiệt nếu chúng ta không làm gì cả. Chắc chắn, chúng ta sẽ tìm ra gì đó sau khi đã lấy mẫu xét nghiệm của tất cả các thành viên nhà Hult và so sánh DNA, nhưng trong lúc ấy chúng ta không thể cứ ở đây mà ăn không ngồi rồi. Chúng ta phải làm gì đó chứ!”
Cuối cùng Patrik tiếp lời. “Martin nói đúng. Có lý do để tin rằng sẽ bõ công nói chuyện với anh ta, và cũng không hại gì nếu kiểm tra Västergärden luôn thể. Vậy đây là những gì chúng ta sẽ làm: Gösta và tôi sẽ đem Jacob về. Martin, anh liên hệ với Uddevalla và yêu cầu họ điều quân tiếp viện để lục soát toàn bộ trang trại. Nhờ Mellberg lấy giúp lệnh khám xét, nhưng phải chắc chắn rằng chúng không chỉ áp dụng cho nơi cư trú mà còn cho tất cả những tòa nhà khác trên cùng một khu đất. Chúng ta sẽ báo cáo lại cho Annika khi cần. Được chưa? Có câu hỏi nào không?”
“Có, chúng ta nên làm gì với các mẫu máu?” Martin hỏi.
“Chết tiệt, tôi quên mất chuyện đó. Chúng ta cần phải phân thân ra mất.” Patrik suy nghĩ một lúc. “Martin, anh có thể lo chuyện đó luôn không, nếu anh được bên Uddevalla giúp đỡ?” Martin gật đầu. “Tốt, sau đó liên hệ với phòng khám Fjällbacka và gọi một người biết cách lấy mẫu máu. Và phải cực kỳ chắc chắn rằng các mẫu máu được dán nhãn chính xác đấy. Rồi đưa chúng xuống phòng thí nghiệm của Pedersen nhanh hết sức có thể. Được rồi, đi thôi. Và đừng quên lý do tại sao chúng ta phải vội thế này!”
“Thế tôi nên làm gì?” Ernst thấy đây là cơ hội để lấy lại cảm tình.
“Ông ở lại đây,” Patrik nói, và không phí lời thảo luận thêm.
Ernst lẩm bẩm nhưng cũng biết đây là lúc nên nằm im thở khẽ. Ông ta sẽ thực sự cần phải nói chuyện với Mellberg ngay khi vụ này kết thúc. Ông ta đâu có làm hỏng chuyện nhiều cho lắm. Suy cho cùng thì ông ta cũng chỉ là một con người.
Trái tim Marita phập phồng trong lồng ngực. Buổi lễ ngoài trời vẫn tuyệt vời như thường lệ, và đứng ở vị trí trung tâm là Jacob của cô. Thẳng tắp và mạnh mẽ với giọng nói vững chãi, anh tuyên lời Chúa. Nhiều người đã tụ tập lại. Bên cạnh đó, hầu hết mọi người trong trang trại – một số người vẫn chưa giác ngộ và từ chối tham gia – một trăm tín đồ trung thành khác đã đến. Họ ngồi trên bãi cỏ với đôi mắt nhìn dán vào Jacob, anh đứng ở vị trí thường lệ của mình trên tảng đá quay lưng lại bờ hồ. Xung quanh họ là một lùm cây cáng lò cao vút, tỏa bóng mát khi giữa tiết trời ngột ngạt và xào xạc đệm theo giọng nói du dương của Jacob. Đôi khi cô không thể tin nổi vào sự may mắn của mình. Người đàn ông được tất cả ngước nhìn đầy ngưỡng mộ như vậy mà lại chọn cô.
Lần đầu tiên gặp Jacob cô mới mười bảy tuổi. Còn Jacob hai mươi ba tuổi mà đã có được tiếng tăm là một người quyền lực trong giáo đoàn. Điều này một phần là nhờ ông nội của anh, danh vọng của ông cụ đã rải trên anh, nhưng phần lớn là nhờ vào uy tín của chính anh. Sự kết hợp bất thường của lòng tử tế và sức mạnh đã cho anh một vầng hào quang mà không ai có thể không để ý. Marita và bố mẹ mình đã là thành viên của giáo đoàn trong một thời gian dài và chưa bao giờ bỏ lỡ một buổi lễ nào. Thậm chí trước khi họ tham dự buổi lễ đầu tiên mà Jacob Hult cử hành, Marita đã cảm thấy náo nức trong lòng như linh cảm được rằng có điều gì đó lớn lao sắp xảy ra. Và nó đã xảy ra. Cô đã không thể rời mắt khỏi anh. Cô nhìn chằm chằm vào miệng anh, từ đó những lời của Chúa đã tuôn dễ dàng như dòng nước chảy. Khi ánh mắt Jacob chạm ánh mắt cô, cô bắt đầu cầu nguyện với Thiên Chúa. Những lời cầu nguyện sôi nổi, khẩn khoản, van xin. Cô đã được dạy rằng không nên cầu nguyện bất cứ điều gì cho bản thân mình, giờ lại đang khẩn nài một thứ trần tục là một người đàn ông. Nhưng cô không thể dừng lại được. Mặc dù cảm thấy ngọn lửa luyện ngục đã bắt đầu thiêu đốt cô trong cuộc săn lùng các tội đồ, cô vẫn vững lòng cầu nguyện thiết tha và không dừng lại cho đến khi cô nhận thấy Jacob đang nhìn cô với ánh mắt khát khao.
Thực sự, cô không hiểu tại sao Jacob lại chọn cô làm vợ. Cô biết rằng mình có ngoại hình giản dị, còn tính cách thì ôn hòa và hướng nội. Nhưng anh muốn cô, và ngày họ kết hôn có tự hứa với mình sẽ không bao giờ lo lắng hay nghi ngờ ý muốn của Thiên Chúa. Người rõ ràng đã nhìn thấy hai người bọn họ trong đám đông và quyết định rằng cuộc hôn nhân của họ sẽ thật tốt lành, và như vậy cô cũng thấy thỏa mãn rồi. Có lẽ một người mạnh mẽ như Jacob cần một bạn đời yếu đuối như vậy để không phải mệt mỏi vì sự kháng cự. Cô thì biết gì được?
Bọn trẻ bồn chồn ngọ nguậy khi ngồi trên mặt đất bên cạnh cô. Marita nghiêm khắc suỵt chúng. Cô biết rằng chân chúng đang ngứa ngáy muốn chạy chơi, nhưng chuyện đó để sau. Bây giờ chúng phải nghe bố mình rao giảng lời của Chúa.
“Đức tin được thử thách khi chúng ta phải đối mặt với khó khăn. Nhưng đó cũng là lúc đức tin của chúng ta trở nên mạnh mẽ hơn. Nếu không có chướng ngại nào, đức tin sẽ yếu ớt và khiến chúng ta trở nên thỏa mãn và lười biếng. Chúng ta bắt đầu quên lý do tại sao chúng ta nên trở về với Chúa để được dẫn lối. Và chẳng bao lâu sau chúng ta sẽ lạc đường. Gần đây, như các bạn đã biết, bản thân tôi đã được thử thách. Và cả gia đình tôi cũng được thử thách nữa. Những thế lực tà ác đang cố gắng thử thách đức tin của chúng tôi. Nhưng chúng sẽ phải chịu số phận thất bại. Đức tin của chúng tôi đã mạnh mẽ đến mức những quyền năng tà ác không thể có cơ hội chạm tới tôi. Vinh danh Chúa, Người đã ban cho tôi sức mạnh đến nhường này!”
Anh giơ tay về phía thiên đường và cả giáo đoàn cùng vỡ òa trong một tiếng Hallelujah
, khuôn mặt họ rạng rỡ niềm vui và đức tin. Marita cũng giơ tay lên trời và tạ ơn Chúa. Những lời của Jacob khiến cô quên đi những khó khăn trong tuần vừa qua. Cô dựa vào anh và cô tin tưởng vào Chúa, và nếu cả hai người họ ở bên nhau, không gì có thể lay chuyển được họ.
Một lúc sau, khi Jacob đã hoàn thành buổi lễ, đám đông tụ tập quanh anh. Mọi người đều muốn bắt tay anh, cảm ơn anh và xin được giúp đỡ. Mọi người dường như đều muốn chạm vào anh và bằng cách đó sẽ mang theo được sự bình tĩnh và niềm tin của anh về nhà với họ. Tất cả họ đều muốn có một phần của anh. Marita ở lại phía sau, hân hoan biết rằng Jacob là của cô. Đôi khi cô thấy có lỗi và tự hỏi rằng đây có phải là một tội không, khi cảm thấy khát khao muốn sở hữu chồng mình, muốn mỗi thớ thịt của anh đều thuộc về mình, nhưng cô luôn bác lại những ý nghĩ đó. Rõ ràng là ý Chúa muốn cho họ được ở bên nhau, nên nó không thể bị coi là sai trái được.
Khi đám đông bắt đầu giải tán xung quanh Jacob, cô dắt bọn trẻ đi về phía anh. Cô hiểu anh rất rõ. Cô thấy những thứ đã lấp đầy anh trong buổi lễ giờ đã bắt đầu phai nhạt, và thay vào đó sự mệt mỏi tràn ngập đôi mắt anh.
“Đi nào, ta về nhà thôi, Jacob.”
“Chưa được, Marita. Anh còn có việc phải làm trước đã.”
“Không có việc gì mà không thể đợi đến ngày mai cả. Em sẽ đưa anh về nhà ngay bây giờ để anh có thể nghỉ ngơi. Em có thể thấy anh đang mệt mỏi.”
Anh mỉm cười và nắm lấy tay cô. “Như thường lệ, em nói đúng, cô vợ thông thái của anh ạ. Anh chỉ đi lấy vài thứ từ văn phòng, rồi chúng ta có thể về nhà.”
Họ vừa bắt đầu đi tới ngôi nhà thì có hai người đàn ông tiến về phía họ. Lúc đầu, dưới ánh mặt trời chói mắt, họ không thể nhìn thấy hai người kia là ai, nhưng khi đến gần hơn thì Jacob buông ra một tiếng kêu bực dọc.
“Giờ các anh lại muốn gì nữa đây?”
Marita hoang mang nhìn từ Jacob đến những người đàn ông kia, cho đến khi cô nhận ra rằng, dựa vào tông giọng của Jacob, họ chắc hẳn là cảnh sát. Cô khó chịu nhìn họ. Họ là những kẻ đã gây cho Jacob và gia đình quá nhiều rắc rối gần đây.
“Chúng tôi cần trò chuyện với anh một chút, Jacob.”
“Tôi còn có thể nói gì khác ngoài những điều tôi đã nói với các anh ngày hôm qua?” anh thở dài một tiếng. “Được rồi, chúng tôi có thể chịu đựng được. Đến văn phòng của tôi đi.”
Những người cảnh sát không nhúc nhích. Họ ngại ngùng nhìn bọn trẻ, và Marita bắt đầu cảm thấy có âm mưu gì ở đây. Theo bản năng, cô kéo các con lại gần mình hơn.
“Không phải ở đây. Chúng tôi muốn nói chuyện với anh ở đồn cảnh sát.” Viên cảnh sát trẻ hơn nói. Người lớn tuổi hơn đứng lùi sang bên một chút và nhìn Jacob với vẻ nghiêm nghị. Nỗi sợ hãi bấu chặt móng vuốt vào trái tim Marita. Đó chính là những thế lực tà ác đang tiến đến gần, giống như Jacob đã nói trong bài thuyết giáo của mình.