CHƯƠNG 10:

Tung tích chiếc chóe cuối cùng

Tôi lại bên cửa sổ, nhìn qua tấm kính vẩn bụi bẩn. Cách vách là phòng thẩm vấn, Dược Bất Thị ngồi sau bàn, mặc áo số, nhắm mắt bất động.

Thẩm Vân Sâm bước đến cạnh tôi, vẻ mặt nghiêm nghị, tay lặng lẽ lần một chuỗi tràng hạt gỗ lim.

“Cậu nói chuyện với ông Vũ rồi à?”

“Vâng, vừa nói chuyện hôm qua, ông ấy sẽ chỉ huy Minh Nhãn Mai Hoa phản công.”

Thẩm Vân Sâm thở phào, “Chuyện này đúng là phải có ông ấy đứng ra mới được, bằng không chưa chắc tôi đã chèo chống nổi. Đám người đó ai ai cũng có quan hệ lợi ích sâu sắc với thế lực của Lão Triều Phụng, chẹt đường kiếm tiền cũng như giết cha giết mẹ của người ta ấy.”

“Câu kết với phần tử phạm tội làm việc phi pháp mà còn lý lẽ gớm, không chỉnh đốn lại e rằng Minh Nhãn Mai Hoa sẽ thành ổ tội phạm mất.” Tôi sầm mặt.

Thẩm Vân Sâm đâu phải không biết lợi hại bên trong, chỉ là bắt tay vào làm không dễ chút nào. Minh Nhãn Mai Hoa vốn do Lưu Nhất Minh nắm giữ, bà ta thường bị ba nhân vật cốt cán kia đẩy ra rìa. Giờ đột nhiên không còn ai lấn át nữa, dù bà ta kinh nghiệm dày dạn, thì uy quyền cũng khó mà trấn áp được cả Hội.

“Những chuyện bên ngoài giao cả cho ông Vũ vậy, tôi sẽ tập trung thanh lọc Thanh môn. Giờ là giai đoạn vàng để đẩy mạnh giao thương, không chấn chỉnh nội bộ cho tốt, sẽ để lại mối họa ngầm cực lớn.” Nói sang chuyện làm ăn, Thẩm Vân Sâm lại áp mặt vào lớp kính nhìn sang phòng bên cạnh.

Sáng sớm ra bà ta đã đón tôi tới trại tạm giam hẻo lánh này, nói là hôm nay có cách tra rõ rốt cuộc ai đã sửa đổi bố cục triển lãm. Tôi ngạc nhiên hỏi bà định tra tấn ép cung à, song bà ta đáp rằng mình thích những biện pháp mềm dẻo hơn.

Thẩm Vân Sâm cho tôi biết, tổng cộng có năm kẻ tình nghi đã động chân tay vào khu vực bày chóe Ba lần ghé lều tranh. Bà ta đã lần lượt mời cả năm người đó tới hỗ trợ cảnh sát thẩm vấn Dược Bất Thị.

“Bệ đặt Ba lần ghé lều tranh đã bị sửa đổi từ loại mộng hương vòng xẻ rãnh ghép mép sang nêm ngựa phi, đây là thay đổi đóng vai trò chủ chốt. Nêm ngựa phi có một đặc điểm là khi bên trên có vật nặng rơi xuống, nêm gỗ sẽ trượt ra cùng một tiếng cạch rất nhẹ. Thực ra là hai tiếng, trước là tiếng nêm trượt đi trong rãnh, sau là tiếng nêm rời ra khỏi rãnh, rất đặc biệt, khác hẳn những kiểu mộng khác. Tôi đã gà sẵn thoại cho Dược Bất Thị rồi. Cứ theo đúng lời thoại mà thẩm vấn, tên nội gián ắt sẽ lộ ra.”

Thẩm Vân Sâm nói hơi khó hiểu, nhưng nghĩ kỹ lại tôi lập tức hiểu ra chỗ xảo diệu bên trong.

Đây là một cái bẫy cực kỳ khéo léo.

Trong lời cung khai đã được dượt trước, Dược Bất Thị sẽ “vô tình” tiết lộ, khi chạm vào làm đổ chiếc chóe, anh ta nghe thấy một tiếng cạch rất lạ, dù thực ra chưa chắc anh ta đã nghe được. Nếu là kẻ vô tội, sẽ mặc nhiên cho rằng bệ đỡ dùng mộng xẻ rãnh ghép mép, không nghĩ ngại gì nhiều. Nhưng nếu là kẻ nội gián, biết rõ bệ đỡ đã bị sửa đổi, có tật giật mình, nghe nói tói tiếng cạch sẽ đoán ra ngay là do nêm ngựa phi rời ra, ắt hết sức căng thẳng. Âm thanh ấy quá đặc biệt, nếu dân trong nghề nghe được chuyện này thì rất dễ bại lộ.

Phản ứng của người biết và không biết nội tình trước chi tiết này sẽ khác hẳn nhau. Chỉ cần nhìn nét mặt, có thể dễ dàng đoán được kẻ nào là nội gián. Giống như một người bị lao phổi ho sù sụ ngoài đường, người thường không biết nội tình sẽ điềm nhiên đi ngang qua, nhưng bác sĩ chữa trị cho bệnh nhân, nắm rõ bệnh tình người bệnh, sợ lây nhiễm sẽ vội vàng đeo khẩu trang vào. Thế nên ai vừa thấy người bệnh nọ đã lật đật đeo khẩu trang thì chắc chắn là bác sĩ không sai vào đâu được.

Cái bẫy này khéo ở chỗ khi một người bị thẩm vấn, ắt sẽ đề cao cảnh giác, cân nhắc lời lẽ, nhưng khi cho rằng mình là người thẩm vấn, ở vào vị thế có lợi hơn, kẻ đó sẽ mất cảnh giác, rất dễ nói hớ.

Từ xưa biện pháp thẩm vấn đều là lấy trên ép dưới, Thẩm Vân Sâm làm ngược lại, kẻ phụ trách thẩm vấn thực ra lại là kẻ bị thẩm vấn mà không biết. Có thể coi đây là một sáng kiến lớn.

Tôi lại nhòm qua ô cửa kính, thấy Dược Bất Thị ngồi bất động trong phòng, trông rõ là một phạm nhân đã đi đến bước đường cùng. Trong màn kịch này, y là diễn viên xuất sắc nhất, bộ mặt vô cảm ấy có thể che giấu hết thảy cảm xúc trong lòng.

Chẳng bao lâu sau cửa phòng mở ra, một người đàn ông bước vào. Anh ta là chuyên gia về đồ gỗ, không hề có kinh nghiệm thẩm vấn phạm nhân, nên khá rụt rè. Một cảnh sát cao to vạm vỡ đi cạnh anh ta, việc thẩm vấn sẽ do hai người họ phụ trách.

Lý do phía cảnh sát đưa ra là, vụ án này liên quan tới văn vật, có rất nhiều kiến thức chuyên ngành, cần chuyên gia tham gia chỉ đạo. Nghe hết sức hợp tình hợp lý, nội gián không thể nghi ngờ được.

Cuộc thẩm vấn bắt đầu, chủ yếu vẫn là viên cảnh sát cao to kia hỏi. Trước đó anh ta và Dược Bất Thị đã tập dượt mấy lần, tôi hỏi anh đáp, cứ y như thật vậy. Tất cả lời thoại đều đã được lên kịch bản từ trước, hỏi được mấy câu thì âm thầm xoay sang các chi tiết chuyên môn. Viên cảnh sát quay sang nói, “Ôi chao, anh ta nói mấy chuyện này tôi không hiểu lắm. Anh là chuyên gia, hay anh hỏi tiếp nhé?”

Nhắc tới chuyên môn, người đàn ông kia hăng hái hẳn lên, liên tục hỏi han Dược Bất Thị. Dược Bất Thị cũng đã chuẩn bị trước, bất luận đối phương hỏi gì, đều lái về cái bẫy đã giăng sẵn. Anh ta chính là Vương Nhị Tiểu chăn trâu, phải dẫn quân Nhật vào vòng vây mai phục của Bát lộ quân.

“Lúc tôi làm đổ chóe sứ thanh hoa có nghe thấy tiếng lạch cạch, trước đục sau vang, rất lạ.” Cuối cùng Dược Bất Thị cũng nói ra câu then chốt.

“Lẽ nào là tiếng va quệt vào bình phong khảm xà cừ đằng sau?” Người đàn ông kia biến sắc mặt, ghi nhoay nhoáy vào giấy rồi bắt đầu hỏi sang việc bình phong khảm xà cừ có bị quệt tróc ra không.

“Chắc không phải anh ta đâu.” Tôi nói.

Thẩm Vân Sâm thở hắt ra, “May mà không phải, cậu ta là một trong những chuyên gia nghiên cứu về đồ gỗ Minh Thanh giỏi nhất của chúng tôi đấy, nếu là nội gián thì Thanh môn tổn thất to.”

Nói rồi bà ta ấn công tắc, một ngọn đèn đỏ được lắp kín đáo trong phòng thẩm vấn lóe lên. Viên cảnh sát thấy vậy bèn bảo chuyên gia nọ, “Chúng ta nghỉ một lúc đã.” Nói rồi dẫn anh ta ra.

“Cậu ta sẽ được cảnh sát dẫn sang phòng nghỉ bên cạnh, đợi ở đó tới khi tất cả năm người thẩm vấn xong.” Thẩm Vân Sâm giải thích. Tôi gật đầu, cách sắp xếp này vô cùng kín kẽ. Nếu năm người này phát hiện ra những người khác cũng tham gia thẩm vấn, có thể sẽ sinh lòng hoài nghi, nên bắt buộc phải cách ly riêng trước khi kết thúc.

Chẳng mấy chốc người thứ hai cũng đến, viên cảnh sát cao to lại diễn vở kịch kia lần nữa, cảm giác như thể thời gian đang chảy ngược vậy.

Chưa đầy một tiếng đã thẩm vấn xong bốn người. Biểu hiện của họ đều hết sức bình thường, không có phản ứng gì đặc biệt với tiếng cạch trong lời khai.

Nếu người thứ năm cũng vậy thì chiếc bẫy dày công sắp đặt này đi tong. Tôi và Thẩm Vân Sâm nhìn nhau, lòng đầy lo lắng.

Người thứ năm là một cậu chàng sáng sủa, tóc rẽ ngôi sống mũi cao, cử chỉ khá tao nhã, họ Tăng. Cậu ta từng học thiết kế nội thất tại Italy, sau khi về nước thì lọt mắt xanh nhà họ Thẩm, làm việc trong viện thiết kế trực thuộc. Vừa bước vào phòng, cậu ta đã ngồi vắt chân, đan hai tay vào nhau đặt trên đầu gối, trông rất thong dong.

Viên cảnh sát to cao hỏi han một lượt theo thông lệ rồi mời cậu ta hỏi. Cậu Tăng quan sát Dược Bất Thị một hồi, vẻ thích thú, “Anh là cậu cả đã đi du học của nhà họ Dược đấy hả?”

“Phải.”

“Chóe sứ thanh hoa ấy thực ra là của nhà anh à? Người nhà có nói gì anh không?”

Dược Bất Thị ngẩng lên, lạnh lùng nhìn thẳng vào cậu ta. Tăng cười, “Tôi hiểu rồi, anh chướng tính thế này nên người nhà mới đẩy anh ra nước ngoài, quay sang bồi dưỡng Dược Bất Nhiên chứ gì?”

Câu này rõ ràng là gây hấn, Tăng có vẻ thích chế nhạo Dược Bất Thị, nói năng chẳng chút nể nang gì. Cuối cùng viên cảnh sát buộc phải ra mặt ngăn lại, giục cậu ta mau nói vào chủ đề chính.

Trong lĩnh vực chuyên môn, Tăng rất có trình độ, hỏi liền mấy câu, vừa chuẩn xác vừa lợi hại. Thẩm Vân Sâm thì thầm bảo tôi, những câu hỏi này nghe thì bình thường, nhưng thực ra đều có cạm bẫy. Chỉ cần người kia thuận miệng trả lời, cậu ta có thể bám vào câu trả lời để luận ra những chứng cứ cực kỳ bất lợi, khiến người bị hỏi có khổ cũng không kêu ai được. Nếu là thẩm vấn thật, có lẽ Dược Bất Thị đã cầm chắc tội trạng rồi.

“Thuật lại một lượt những chi tiết khi anh đến gần chóe đi.” Viên cảnh sát bắt đầu hướng cuộc đối thoại vào bẫy.

“Lúc tôi va đổ chóe sứ thanh hoa có nghe thấy tiếng lạch cạch, trước đục sau vang, rất lạ.” Cuối cùng Dược Bất Thị cũng có cơ hội nói ra câu này.

Tăng đang chống tay lên bàn, nghe vậy lập tức ngồi ngay ngắn lại. Cậu ta liếc sang viên cảnh sát, thấy anh ta đang hí hoáy ghi chép, vội lên tiếng hỏi, “Anh nói lại lần nữa đi?”

“Tôi nói rằng tôi nghe thấy một tiếng cạch, trước đục sau vang.” Dược Bất Thị lặp lại lần nữa, nhìn cậu ta đầy khiêu khích.

Tăng vặn, “Anh có chắc mình không nghe lầm không? Hay đấy là tiếng mũi chân anh chạm vào chóe?”

“Không phải.”

Tăng trầm ngâm giây lát rồi nói nhỏ với viên cảnh sát, “Anh ta cố tình dối trá, rặt bịa đặt, toàn dắt mũi chúng ta đi lòng vòng. Tôi đề nghị xóa đoạn ghi chép này đi, tập trung vào chóe sứ thanh hoa thôi.”

Giọng cậu ta hết sức chân thành, đề nghị lại rất hợp tình hợp lý, gần như không hề sơ hở. Nếu là cuộc thẩm vấn thông thường, cảnh sát nhất định sẽ vui vẻ đồng ý. Tiếc rằng đây không phải thẩm vấn thông thường. Thân phận người thẩm vấn đã làm cậu ta mất cảnh giác, để lòi đuôi cáo.

Tôi và Thẩm Vân Sâm nhìn nhau, không cần tiếp tục nữa, dấu hiệu này đã quá rõ ràng rồi.

“Ôi, thằng bé này vốn dĩ tiền đồ thênh thang, là lực lượng nòng cốt để chúng tôi tiến ra thị trường quốc tế mà…” Bà tiếc nuối nói, nhưng đôi mắt vẫn ánh lên đầy sắc sảo, không chút do dự ấn nút. Ngọn đèn đỏ trong phòng thẩm vấn lần này chớp liên tục, Dược Bất Thị và viên cảnh sát kia đều biết đã tóm được nghi phạm. Hai người đồng loạt ngoái đầu, nhìn sang cậu Tăng kia.

Tăng vẫn không hề hay biết, còn nhởn nhơ gõ bàn, khinh khỉnh nhìn Dược Bất Thị, nào có hay cần câu cơm của mình từ nay thế là đi tong.

Viên cảnh sát cao to tuyên bố tạm nghỉ rồi lịch sự mời Tăng ra khỏi phòng thẩm vấn. Dược Bất Thị duỗi thẳng cánh tay phải, giơ ngón trỏ về phía chúng tôi, ra hiệu chiến thắng.

“Thế này thì Dược Bất Thị có thể thoát tội rồi chứ?” Tôi hỏi.

“Nếu chứng minh được cậu ta bị hãm hại thì chắc chẳng mấy chốc sẽ được thả thôi.” Nói tới đó, Thẩm Vân Sâm trở nên giận dữ, “Lần này phải thẩm vấn thật kỹ, tra xem rốt cuộc kẻ nào đã xúi bẩy cậu ta làm vậy, trong Minh Nhãn Mai Hoa còn đồng bọn nào nữa không!”

Bà ta bàng hoàng là phải, thế lực của Lão Triều Phụng đã thâm nhập sâu đến mức này, thậm chí còn thao túng được thiết kế cả một triển lãm quan trọng là vậy, cứ đà này, hậu quả thực không thể tưởng tượng.

Hai chúng tôi bước ra khỏi phòng cách ly, vừa hay chạm mặt Dược Bất Thị được dẫn ra. Tôi bước lên trước, phấn khởi bảo anh ta, “Lần này tóm được con cá to rồi, anh sẽ rửa sạch tội trạng thôi.” Nghe tin tốt, gương mặt Dược Bất Thị vẫn lạnh tanh không chút vui mừng, anh ta chậm rãi lắc đầu, “Tay họ Tăng này có vấn đề.”

“Dĩ nhiên là có vấn đề rồi, bằng không sao lại bắt cậu ta?”

“Ý tôi là trạng thái tinh thần cậu ta có vấn đề. Cậu cũng nghe thấy rồi đấy, ngay từ đầu cậu ta đã vô cớ khiêu khích tôi, thật khó hiểu. Tôi và cậu ta trước đây chưa từng giao thiệp, dù có ở hai phe đối nghịch cũng chẳng đến mức như quân thù quân hằn vậy.”

“Biết đâu tính tình cậu ta vốn đáng ghét như thế thì sao?” Tôi đoán.

Thẩm Vân Sâm chen vào, “Cậu Tăng thường ngày có phần kiêu ngạo, nhưng quả thực không bao giờ khoa trương như hôm nay.”

Chúng tôi đang nói chuyện, chợt thấy đằng xa nhốn nháo cả lên, có tiếng chân chạy rầm rập rồi một người hô lớn, “Bác sĩ, mau gọi bác sĩ đến đây!” Chúng tôi giật mình hớt hải chạy đến. Tôi nhanh chân xông qua cửa văn phòng, thấy Tăng nằm vật ra trên băng ghế dài, miệng sùi bọt mép, hai mắt trợn ngược, tay chân co giật liên hồi.

“Chuyện gì thế này?” Tôi hỏi viên cảnh sát cao to. Anh ta cũng sợ toát mồ hôi, cuống quýt đáp vừa rồi dẫn Tăng vào phòng, chỉ đưa cho cậu ta một cốc nước ấm, ngoài ra không chạm vào thứ gì cả. Uống xong cốc nước, cậu ta lập tức thành ra như thế.

Tôi nhìn quanh phòng, thấy cốc trà bằng sứ trắng vẫn còn trên bàn, bốc khói nghi ngút, vội đi đến đậy nắp lại, cố không chạm vào thành ngoài cốc, cẩn thận giữ gìn chứng cứ quan trọng.

Đầu độc giết người ngay trong trại tạm giam à? Lão Triều Phụng cũng to gan thật đấy!

Thẩm Vân Sâm đứng trước cửa, rụng rời nhìn tình trạng của Tăng. Bà sải bước đi đến, định đỡ lấy hai tay cậu ta, song cả người cậu ta đã trượt xuống khỏi ghế.

Cũng may vụ án xảy ra ngay trong trụ Sở Công an nên chỉ hơn một phút sau, bác sĩ pháp y và mấy cảnh sát hình sự đã lật đật chạy đến. Phong tỏa hiện trường, kiểm tra tình hình người bị hại, xử lý thành thạo đâu ra đấy.

Tăng đã thôi co giật, pháp y ngồi xuống kiểm tra một lát rồi đứng dậy tuyên bố cậu ta đã tử vong.

Tuyên bố này như sét đánh giữa trời quang, đừng nói Thẩm Vân Sâm, ngay cả tôi cũng không chấp nhận nổi. Tôi hỏi có phải chết vì trúng độc không, pháp y cảnh giác nhìn tôi không đáp. Viên cảnh sát cao to kéo nhân viên pháp y sang một bên rì rầm trao đổi mấy câu rồi quay ra bảo tôi, “Họ phải đợi báo cáo khám nghiệm tử thi đã, có điều phán đoán sơ bộ là không liên quan đến nước ấm.”

Anh ta cố tình nhấn mạnh điểm này, bởi vừa rồi chỉ có anh ta và Tăng ở trong phòng, anh ta còn rót nước cho Tăng nên đang là kẻ bị tình nghi nhiều nhất.

Gặp phải biến cố bất ngờ, tôi và Thẩm Vân Sâm không thể ra về ngay, đành ở lại trong phòng chờ đợi kết quả khám nghiệm tử thi. Dược Bất Thị đã được giải về phòng giam từ lâu, xảy ra sự cố này, anh ta sẽ phải chờ thêm một thời gian nữa mới được thả.

Thẩm Vân Sâm hỏi, “Cậu có để ý thấy triệu chứng trước khi chết của cậu ta rất giống Dược Lai không?”

Nghe bà ta nói vậy, tôi liền nhớ ra. Lúc Dược Lai tự tử, tình trạng cũng hệt như vậy. “Lão Triều Phụng…” Tôi nghiến răng, gằn từng tiếng. Lão già này nguy hiểm ở chỗ, lão không chỉ ngang nhiên làm giả lừa gạt mà còn sẵn sàng lấy mạng người ta chẳng chút nương tay.

“Lẽ nào kế hoạch lấy gậy ông đập lưng ông này đã bị Lão Triều Phụng phát hiện?” Thẩm Vân Sâm lẩm bẩm, nhưng ngay sau đó lại lắc đầu, “Không thể nào, chi tiết kế hoạch chỉ có tôi, cậu và Dược Bất Thị biết, ngay cả viên cảnh sát kia cũng mới được sắp xếp tới phối hợp từ hôm qua thôi.”

Tôi buột miệng hỏi, “Việc sắp xếp cho năm người kia tới thẩm vấn là từ bao giờ vậy?”

“Hai hôm trước, người của công an lần lượt báo cho họ, nhưng họ không biết những người khác cũng được gọi tới.”

“Nếu cậu Tăng kia là người của Lão Triều Phụng, khi nhận được tin này, nhất định sẽ báo với lão. Có lẽ từ lúc đó Lão Triều Phụng đã sinh lòng nghi ngờ, bày ra cách giết người bịt miệng.”

“Tăng nhận được thư mời hỗ trợ thẩm vấn từ chính Sở Công an, đây là đi thẩm vấn người khác chứ đâu phải bị thẩm vấn, chắc Lão Triều Phụng không nghi ngờ chứ?” Thẩm Vân Sâm nửa tin nửa ngờ, nhíu mày, “Nếu ngay cả chuyện này cũng nhìn ra được, há chẳng phải lão đã thành tinh rồi sao?”

Tôi chậm rãi lắc đầu, “Có lẽ… Lão Triều Phụng không cần nghi ngờ. Giờ sản nghiệp của lão đang bấp bênh, Minh Nhãn Mai Hoa cũng bắt đầu thanh lọc chỉnh đốn toàn diện. Lão cần phải ngăn chặn tổn thất! Xử lý cậu Tăng, cắt đứt manh mối, chúng ta sẽ không còn vin vào đâu để điều tra được nữa.”

“Ý cậu là ngay từ đầu Lão Triều Phụng đã định giết cậu ta bịt miệng rồi ư?” Thẩm Vân Sâm trợn tròn mắt, tay run run. Bà ta là người giỏi kinh doanh buôn bán nhất trong Minh Nhãn Mai Hoa, nhưng lại hiếm khi phải đối diện những việc thế này.

“Có thể lắm.”

Tôi nheo mắt. Thủ đoạn của Lão Triều Phụng, tôi đã quá rành rẽ. Lão ta cực kỳ đa nghi, ngay thuộc hạ cũng chia ra để trị, phân thành năm chi phái, không ngừng đấu đá lẫn nhau. Nếu có gì nguy hiểm, lão sẵn sàng hy sinh một chi phái để bảo toàn những chi còn lại, như thạch sùng đứt đuôi. Huống hồ Tăng chỉ là một quân cờ, lão đương nhiên muốn vứt lúc nào thì vứt.

Nhìn từ cái chết của cậu ta, đủ biết Minh Nhãn Mai Hoa muốn rà soát chỉnh đốn không hề dễ dàng như trong tưởng tượng, nhất định sẽ dấy lên gió tanh mưa máu. Chẳng trách cụ Lưu Nhất Minh mãi không dám xuống tay, bởi thật sự có thể chết người!

Đúng như Thẩm Vân Sâm nói với tôi trước kia: thời bây giờ, mọi thứ đều phải xem xét dưới góc độ lợi ích. Muốn nói đến lý tưởng, đạo đức, tín ngưỡng thì cứ việc, nhưng một khi dính đến lợi ích, thái độ sẽ thay đổi hẳn. Chặt đứt đường làm ăn của người khác cũng bằng giết cha giết mẹ người ta, họ lại chẳng liều mạng với mình?

Thẩm Vân Sâm và tôi cùng cười nhăn nhó. Trận này chẳng biết chúng tôi thua hay thắng nữa.

Ba tiếng sau, báo cáo giám định pháp y được đưa ra. Nạn nhân trước đó đã nuốt một viên nang có chứa xyanua, sau khi uống nước ấm, viên nang tan ra, xyanua ngấm vào dạ dày dẫn tới tử vong. Đồng thời pháp y cũng chỉ ra rằng, dù không uống nước ấm, viên nang cũng sẽ hòa tan trong vòng vài tiếng đồng hồ. Cũng có nghĩa khi Tăng bước ra khỏi cửa, số phận cậu ta đã được định sẵn.

Trong cái rủi có cái may là đã loại trừ được khả năng người trong Sở Công an đầu độc, mọi người đều thở phào, bằng không đây lại thành vụ án long trời lở đất rồi.

Quá trình điều tra sau đó rất phức tạp, phải kiểm tra ở nhà Tăng còn viên nang nào nữa không, mấy ngày gần đây cậu ta đi những đâu, thường tiếp xúc với những người nào v.v… Là người đứng đầu Thanh môn, Thẩm Vân Sâm có quyền lên tiếng nhất trong việc này, nên bà ta đã chủ động trao đổi với cảnh sát.

Về phần Dược Bất Thị, chúng tôi đã bảo lãnh cho anh ta tại ngoại chờ xét xử.

Hay tin cậu Tăng chết, Dược Bất Thị không khỏi kinh ngạc. Anh ta nói Tăng tự dưng gây sự với mình trong lúc thẩm vấn, có lẽ muốn truyền đạt gì đó, tiếc rằng giờ đã chẳng thể hỏi cậu ta cho ra nhẽ nữa.

“Bà Sâm đã cùng cảnh sát tới nhà và phòng làm việc của cậu ta rồi, biết đâu lại tìm được manh mối gì đó.” Tôi nói.

Dược Bất Thị cười nhạt, “Lão Triều Phụng đã định đầu độc cậu ta thì đời nào còn để lại sơ hở lộ liễu như vậy nữa? Chỉ tổ phí công thôi.”

“Vớt vát được chút nào hay chút nấy. Nghĩ theo hướng lạc quan thì ít nhất đã lại nhổ được một cây đinh của Lão Triều Phụng trong Minh Nhãn Mai Hoa.”

Dược Bất Thị nhún vai, vẻ không đồng tình.

Chúng tôi vừa nói vừa rời Sở Công an. Bước ra khỏi cửa, Dược Bất Thị dừng lại, bảo tôi đợi một chút rồi nhắm nghiền mắt ngẩng cao đầu, hít sâu một hơi thả lỏng người. Gương mặt anh ta hiện lên vẻ ngây ngất hiếm thấy, có điều chỉ trong một thoáng đã trở về với bản mặt lạnh nhạt vốn có.

“À phải, tôi vẫn chưa cảm ơn anh.” Tôi áy náy nói. Việc ở Hàng Châu suy cho cùng là anh ta hy sinh bản thân để cứu tôi, tự chui đầu vào tròng, để tôi được tự do tiếp tục điều tra.

Dược Bất Thị nhìn tôi, “Tốt nhất là cậu nên tra ra manh mối có giá trị tương đương đi.”

Tôi hỏi Dược Bất Thị tiếp theo đây anh định đi đâu, phúng viếng Lưu Nhất Minh hay thăm Hoàng Khắc Vũ? Hay là về nhà họ Dược nghỉ ngơi trước đã? Dù sao giờ ai cũng biết anh ta đã về nước, chẳng cần phải giấu giếm nữa. Ngờ đâu Dược Bất Thị búng tay đánh tách, buông ra ba chữ: “Tứ Hối Trai.”

Sao anh ta lại muốn tới đó? Tôi nghĩ ngợi đoạn nói, được thôi.


Hai chúng tôi về cửa tiệm của tôi, đang loay hoay mở cửa thì thím Vương hàng xóm lại ló đầu ra, vồn vã hỏi han, “Này Nguyện ơi, lần trước hai cô kia có đánh nhau không?” Làm tôi dở khóc dở cười.

Bước vào phòng, tôi quét tước qua quýt một lượt, mở cửa cho thông gió, phủi sạch bụi bặm trên mặt quầy rồi tiện thể sạc pin cho chiếc điện thoại di động vẫn quẳng ở nhà. Dược Bất Thị nhìn quanh ngó quất, nhận xét: “Cậu đúng là không biết làm ăn, về sau tôi sẽ lên cho cậu một bản kế hoạch kinh doanh.” Tôi nhăn nhó cười đáp mình làm gì có thời gian trông nom cửa hàng, mấy tháng nay toàn vào sinh ra tử thôi.

“Đấy là tôi nghĩ cho tương lai của cậu thôi. Một cửa hàng nhỏ thì lời lãi được bao nhiêu, phải nhập vào một hệ thống lớn mới được.”

“Đợi đã, anh định bán tôi đấy à?”

“Thẩm Vân Sâm là người có đầu óc và tầm nhìn kinh doanh nhất trong Minh Nhãn Mai Hoa, tôi đã trao đổi với bà ta rồi, có thể sẽ trở về giúp đỡ bà ta. Tứ Hối Trai của cậu sau này cũng nhập luôn vào hệ thống ấy mà đẩy mạnh phát triển.” Dược Bất Thị nghiêm túc đề nghị.

Thẩm Vân Sâm kết hợp với Dược Bất Thị có vẻ khá phù hợp, chưa chừng lại gây dựng nên một đế chế buôn bán cổ vật lớn cũng nên! Nhưng tôi không ham hố mấy chuyện này.

“Được rồi, chuyện này để sau hẵng nói, chúng ta lo việc trước mắt đã.” Tôi kéo ghế cho anh ta ngồi rồi đi đun nước.

Dược Bất Thị gật gù, “Cậu nói phải. Dù sao có bàn cậu cũng chẳng hiểu, tới lúc đó cứ nghe theo sắp xếp là được.”

Tôi đỡ trán, “Vào việc chính đi, vào việc chính đi.”

Dược Bất Thị ở trong tù đã nghe chuyện tôi đại náo Trại Tế Liễu, nhưng chỉ biết láng máng, không nắm được đầu đuôi và các tình tiết cụ thể. Lại thêm từ sau khi về Bắc Kinh, tôi đã nghe được một đống bí mật từ Kido Kana, Thư Viện và ông Hoàng Khắc Vũ, đang cần tìm người sắp xếp lại hộ, Dược Bất Thị là lựa chọn phù hợp nhất.

Nghĩ kỹ lại thì, đi được đến ngày hôm nay không phải nhờ công của tôi, tôi chỉ là chân chạy thôi, công thần thực sự là Dược Bất Thị. Nếu không phải anh ta khăng khăng đòi tôi hợp tác, tới Vệ Huy vén một góc bí mật bộ chóe lên, có lẽ tôi đã xồng xộc chạy đi gặp Lão Triều Phụng thật rồi. Tới lúc đó sự tình sẽ thế nào, tôi thực không dám tưởng tượng, nhưng nhất định là thê thảm hơn hiện giờ.

Thế nên tôi không chút giấu giếm, kể lại tỉ mỉ mọi chuyện cho anh ta nghe, từ nhà hàng Khánh Phong đến bác Doãn ở Thiệu Hưng, từ Hứa Tín thời Minh tới mốc định vị trong bộ chóe. Chỉ duy nhất không nhắc tới vấn đề vai vế, bởi chuyện đó không liên quan tới thuyền Fukukou, nói ra chỉ thêm khó xử. Thực khó tưởng tượng nếu Dược Bất Thị biết luận vai vế mình phải gọi tôi bằng chú, anh ta sẽ có thái độ ra sao.

Giờ những thông tin tôi nắm được quá mức lộn xộn, đầu óc tôi đã rối lên không sao sắp xếp lại được, đành cậy vào tư duy sáng sủa của Dược Bất Thị để tìm ra đột phá, tính xem bước tiếp theo nên làm gì.

Nghe tôi kể xong, Dược Bất Thị nhắm mắt, trầm tư suy nghĩ hồi lâu. Tôi biết tâm trí anh ta đang hoạt động với cường độ cao nên cũng không quấy rầy mà đứng dậy pha hai chén trà Hoàng Sơn mao phong. Trà vốn có sẵn trong tiệm, trông thấy nó, tôi nhớ ngay tới chuyện ở Trại Tế Liễu. Ban đầu Liễu Thành Thao còn định đánh lừa để tôi tưởng rằng đang ở Hoàng Sơn.

Chẳng biết đã bắt được Liễu Thành Thao hay chưa, tên này rất liều lĩnh, nếu bị dồn vào đường cùng chuyện gì y cũng dám làm.

Dược Bất Thị bưng chén trà lên, thổi lá trà nhấp một ngụm rồi hỏi có cà phê không, tôi chổng mông lục tủ hồi lâu mới moi ra được non nửa hộp chẳng biết còn lại từ bao giờ. Dược Bất Thị trông mà cụt cả hứng, bảo thôi.

Anh ta bảo tôi, “Để tôi liệt kê cho cậu, nhà hàng Khánh Phong là một manh mối, nhà họ Dược là một manh mối, bộ chóe thanh hoa vẽ tích cổ là một manh mối, thuyền Fukukou cũng là một manh mối, còn cả hành tung của Izumida Kunio, sự thay đổi của Cơ Thiên Quân, những thăng trầm của nhà họ Hứa các cậu, tất cả cứ xoắn xuýt vào nhau, muốn gỡ ra từng mối thực sự rất khó.” Nói đến mỗi manh mối anh ta lại xòe một ngón tay, cuối cùng cả mười ngón cũng không đủ đếm.

Tôi rầu rĩ gật đầu. Gần đây tôi thu được quá nhiều tin tức, đầu sắp nổ tung đến nơi. Ban đầu thì khổ vì quá ít manh mối, chẳng biết bắt đầu từ đâu, giờ phát hiện được quá nhiều manh mối cũng chẳng hay hớm gì, càng thêm rối.

Dược Bất Thị lại nói, “Trong quản trị kinh doanh, có nguyên tắc Theseus. Thần thoại Hy Lạp kể rằng, vua đảo Crete cho xây nên một mê cung cực kỳ phức tạp, ở chính giữa mê cung là con quái vật đầu bò mình người tên Minotaur. Vô số anh hùng quyết tâm xông vào, song đều bị lạc lối trong đó, cuối cùng làm mồi cho quái vật. Về sau có một chàng trai tên Theseus, cầm theo một cuộn chỉ tìm đường vào mê cung tiêu diệt quái vật, rồi bất luận cảnh trí xung quanh thay đổi ra sao, anh ta lại lần theo sợi chỉ đã rải rời khỏi mê cung an toàn.”

Tôi hiểu ra ngay điều anh ta muốn truyền đạt, “Ý anh là phải nắm bắt mâu thuẫn chủ yếu, buông bỏ những mâu thuẫn thứ yếu hả?”

“Đúng thế, khi đứng trước một mớ những sự việc lộn xộn, cậu phải lọc ra được phần quan trọng nhất, luôn bám sát sợi chỉ. Bằng không cái gì cũng muốn quản, cái gì cũng muốn lo, cuối cùng sẽ chỉ lạc trong mê cung không ra nổi.” Dược Bất Thị đĩnh đạc giảng giải như đang dạy học.

“Ân oán cũ ở nhà hàng Khánh Phong, bốn câu chuyện của ông tôi, ân oán giữa nhà họ Hứa và Cơ Thiên Quân v.v… đều là thứ yếu! Giờ việc quan trọng nhất là gì nào? Mau trục vớt thuyền Fukukou lên, đừng để Lão Triều Phụng nẫng tay trên!”

Nghe anh ta nói vậy, tôi chợt thấy tư duy sáng sủa hẳn ra. Quả đúng thế. Chỉ cần nắm chặt vấn đề then chốt là thuyền Fukukou, những chuyện khác có thể giải quyết dễ dàng.

Lỡ như để người Nhật trục vớt được thì dù tôi có tra ra rõ ràng tới đâu cũng vô ích.

Dược Bất Thị nói, “Thế nên việc quan trọng nhất hiện giờ là cậu mau tổ chức ra biển trục vớt thuyền Fukukou.”

Tôi sực nhớ ra, cũng tới lúc gọi điện cho Đới Hải Yến rồi. Nếu cô thuận lợi tìm ra tọa độ thuyền đắm thì mâu thuẫn chủ yếu của chúng tôi đã giải quyết được quá nửa.

Tôi báo với Dược Bất Thị một tiếng rồi ra ngoài, tìm một nơi gọi được điện thoại đường dài, gọi cho Đới Hải Yến.

Đới Hải Yến bắt máy rất nhanh, “Tôi đã tham vấn một giáo sư chuyên ngành thiên văn, bản thân cũng tự thử nghiệm, về cơ bản đã nắm được nguyên lý thuật khiên tinh rồi.”

“Là thế nào cơ?” Tôi siết chặt ống nghe, hỏi dồn.

“Như anh đã biết, thuật khiên tinh lấy góc sao làm mốc định vị. Còn về phần đo lường góc thế nào thì người xưa có một bộ công cụ chuyên dụng gọi là bảng khiên tinh.”

“Đó là cái gì?”

“Tôi lục tìm được bản vẽ trong thư viện rồi, thực ra đó là mười hai miếng gỗ vuông làm bằng gỗ mun hảo hạng. Kích thước các miếng khác nhau, miếng lớn nhất mỗi cạnh 24 xăng ti mét, gọi là bảng mười hai lóng; miếng sau ngắn hơn miếng trước 2 xăng ti mét, miếng nhỏ nhất mỗi cạnh chỉ có 2 xăng ti mét, gọi là bảng một lóng. Lại dùng ngà voi làm thành một khối lập phương nhỏ, khuyết bốn góc, độ dài bốn đoạn khuyết lần lượt là một phần tư, một phần hai, ba phần tư và một phần tám của một lóng tay.”

Tôi không giỏi các môn tự nhiên, càng nghe càng mông lung, bèn hỏi dùng thứ đó xác định vị trí thế nào.

Đới Hải Yến đáp, “Trong thuật khiên tinh quy định mấy cột mốc cố định như sao Bắc Cực, sao Đăng Lung Cốt, sao Chức Nữ, sao Bố Ti, sao Hoa Cái v.v… Khi cần xác định vị trí, người đo sẽ đứng ở đầu thuyền, tay trái giơ ngang, cầm chính giữa bảng khiên tinh dựng thẳng, mắt nhìn lên bầu trời. Làm vậy cánh tay sẽ song song với mặt biển, bảng khiên tinh vuông góc với mặt biển.”

Tôi chỉ tiếc nỗi không thể gọi điện thoại truyền hình như trong truyện khoa học viễn tưởng nên không cách nào lý giải bằng trực quan. Đới Hải Yến cũng hiểu điều đó, bèn kiên nhẫn giải thích, “Ví như muốn đo sao Chức Nữ nhé, thì cứ giơ tay đúng tư thế ấy, sao cho cạnh trên bảng khiên tinh nhắm vào sao Chức Nữ, trước hết dùng miếng tám lóng, cao quá, đổi thành miếng bảy, vẫn cao, lại đổi sang miếng sáu thì vừa in. Buộc một sợi chỉ vào đầu trên bảng sáu lóng, kéo đến vai, vậy là bảng khiên tinh, sợi chỉ và cánh tay tạo thành một tam giác vuông, mà sợi chỉ là cạnh huyền. Dùng bảng mấy lóng thì góc giữa mặt biển và sao sẽ là chừng ấy lóng. Phần lẻ phía sau có thể dùng khối vuông khuyết góc để thể hiện.”

Tôi sực vỡ lẽ, “Tính được độ cao của sao thì có thể tính ra vĩ độ rồi.”

“Chính xác, ví như nói ‘Đông Bắc sao Chức Nữ mười một lóng mặt nước’ có nghĩa là, trước hết anh dùng la bàn xác định hướng Đông Bắc, sau đó lại dùng bảng khiên tinh đo độ cao của sao Chức Nữ, nếu dùng bảng mười một lóng mà cạnh trên trùng với sao Chức Nữ, cạnh dưới trùng với mặt biển, chứng tỏ là vị trí chính xác. Nếu không được như vậy, anh phải đi tiếp.”

Tôi mở cờ trong bụng, gần như không nén nổi vui mừng, té ra kỹ thuật của các bậc tổ tiên lý thú đến vậy. Những thuật ngữ rắc rối khó hiểu như sách trời, qua lời giải thích của Đới Hải Yến đã trở nên tinh diệu lạ thường.

“Thực ra thứ này không chỉ có tác dụng xác định vị trí mà còn là một chỉ dẫn để tìm đường trên biển. Ví như sao Bắc Cực nằm ở hướng chính Bắc, ngày đầu tiên anh đo độ cao là bốn lóng, ngày thứ hai ba lóng, chứng tỏ thuyền đang đi về hướng chính Nam. Sao Chức Nữ ở hướng Đông Bắc ngày đầu tiên cao sáu lóng, ngày thứ hai cao năm lóng thì nhất định con thuyền đang nhằm thẳng hướng Tây Nam. Nguyên lý đo đạc này rất gần với kính lục phân, chẳng qua không chính xác bằng thôi.”

“Vậy ‘Cơ long ra biển dùng giáp mão kim sáu canh’ là nghĩa làm sao?”

“Kim ý chỉ đường thủy, người xưa dùng kim chỉ nam để chỉ hướng khi đi biển, nên tục gọi là đường kim. Giáp mão là phương hướng, ý chỉ phương Đông. Ý cả câu này là, từ Cơ Long, tức cảng Cơ Long Đài Loan, xuất phát đi về hướng Đông mười hai tiếng, ấy là hướng chính. Khi sắp tới nơi lại dựa theo góc sao trong mấy câu sau để đo đạc, điều chỉnh hướng đi.”

“Giờ cô có thể quy đổi vị trí cụ thể ra thành kinh vĩ độ hiện đại không?”

“Anh chỉ cho tôi ba câu, tôi cũng chỉ có thể khoanh vùng cho anh một hải phận thôi, chẳng khác gì không nói. Anh phải biết rằng càng có nhiều mốc định vị thì vị trí xác định càng chuẩn. Ít nhất cũng phải có bốn mốc mới đủ cấu thành điều kiện tiên quyết để ra biển trục vớt.” Đới Hải Yến thẳng thắn nói.

Tôi khẽ thở dài, quả nhiên đâu có dễ thế. Mò kim đáy bể ở biển Hoa Đông cũng ngang với ở Thái Bình Dương… Xem ra không tìm đủ năm chiếc chóe thì rất khó xác định được tọa độ chuẩn.

“Tôi hiểu rồi, cảm ơn cô.”

“Đừng quên giao hẹn giữa hai chúng ta đấy nhé, nếu anh định ra biển thì phải cho tôi theo.” Đới Hải Yến nhắc.

“Chắc chắn, chắc chắn rồi.”

“Nghe giọng anh là thấy đãi bôi rồi.” Đới Hải Yến nói toạc móng heo, không chút nể nang.

“Làm gì có chuyện! Người nhà họ Hứa chúng tôi xưa nay chưa bao giờ lừa ai, bằng không cứ để sét đánh chết.” Tôi thề độc.

“Nói dối và sấm sét chẳng liên quan gì nhau cả, tôi cần một lời bảo đảm chắc chắn hơn thế.”

Tôi bảo hay là thế này, tôi viết giấy cam đoan, công chứng đàng hoàng rồi gửi cho cô nhé. Đới Hải Yến nghĩ ngợi rồi đáp, cũng được đấy.

Tôi đúng là không sao hiểu nổi cô ta.

Quay trở về, tôi thông báo ngay tin mới nhận được cho Dược Bất Thị. Dược Bất Thị tỏ vẻ tán thưởng, “Kỹ thuật khiên tinh này hay đấy, rất khoa học. Với trình độ khoa học kỹ thuật thời Minh mà nghĩ ra được cách tinh diệu như vậy đúng là không phải vừa đâu. Đới Hải Yến có phải cô gái lần trước từng giúp cậu phá giải bí mật trong Thanh minh thượng hà đồ không?”

“Đúng rồi.”

“Nếu cậu lý trí và suy nghĩ có trình tự được như cô ấy thì chúng ta đã bớt phải đi lòng vòng rồi.”

Nhìn bản mặt nghiêm nghị của anh ta, tôi thầm nghĩ nếu tôi nói với anh sự thật về vai vế, thì liệu anh còn vênh cái mặt lên với ông chú này được không.

Ôi thôi, việc chính còn chưa xong, so đo mấy chuyện vai vế này làm gì.

Tôi sắp xếp lại suy nghĩ rồi nói, “Giờ vấn đề hiện tại là chúng ta làm sao tìm được hai chiếc chóe còn lại. Không tìm được thì không có mốc định vị, không có mốc định vị thì không ra biển được. Chuyện này chắc chắn Dược Bất Nhiên biết. Nếu hắn chịu nói thì đỡ biết bao.”

Nghe nhắc đến em trai, Dược Bất Thị cười nhạt, “Nó đã không muốn nói thì đừng hòng ai lay chuyển được. Thằng em tôi một lòng một dạ đi theo Lão Triều Phụng rồi.”

“Ừm… cũng không hẳn đâu. Dược Bất Nhiên giấu nhẹm Lão Triều Phụng chuyện đã gặp tôi ở miếu Đường vương Hàng Châu. Lúc ở Trại Tế Liễu, hắn cũng giúp tôi rất nhiều. Tôi cứ có cảm giác, Dược Bất Nhiên không hẳn là cùng một bè với Lão Triều Phụng.”

“Đó là vì cậu vẫn còn giá trị lợi dụng. Cuối cùng Trại Tế Liễu bị tiêu diệt, nó là người lợi nhất còn gì.” Dược Bất Thị làm tôi cứng họng. Giọng anh ta lạnh băng, “Cậu bơn bớt ảo tưởng đi, phải nhìn thẳng vào sự thật, đừng nhân nhượng với kẻ địch.”

Tôi chẳng có cách nào phản bác anh ta, đành thở dài.


Cả tuần sau đó trôi qua trong bận rộn mà yên ả. Cảnh sát tập trung lục soát nhà Tăng, quả nhiên chẳng thu được manh mối gì có giá trị. Trái lại Minh Nhãn Mai Hoa dưới sự lãnh đạo của Hoàng Khắc Vũ và Thẩm Vân Sâm rầm rộ ra quân, lại thêm cục trưởng Lưu từ phía ban ngành chức năng phối hợp, bắt đầu tiến hành thanh lọc thị trường văn vật. Cảnh sát kiểm tra và niêm phong một loạt tiệm đồ cổ, bắt không ít băng nhóm làm đồ giả và buôn lậu văn vật, thậm chí còn gô cổ bảy tám toán trộm mộ. Mười mấy tờ báo chuyên ngành và đại chúng đều đăng bài chuyên đề, truyền thông nước ngoài cũng quan tâm, thậm chí ngay cả Bản tin thời sự của đài trung ương cũng góp tiếng nói, thanh thế rất lớn.

Những kẻ xui xẻo này đa phần đều có tên trong tập danh bạ của Trại Tế Liễu. Phía cảnh sát cứ theo đấy mà lần, lại có Minh Nhãn Mai Hoa hỗ trợ về chuyên môn, thế như chẻ tre, bắt đâu trúng đó. Thành quả bên này càng huy hoàng, thế lực của Lão Triều Phụng càng tổn thất. Dù đợt tấn công này không thể trừ tận gốc thế lực của lão thì cũng khiến nó tổn hại nặng nề.

Đúng như đạo lý xưa nay trong giới cổ vật, đồ giả sở dĩ muốn phỏng theo đồ thật, là vì chính bản thân nó cũng cho rằng đồ thật tốt hơn đồ giả. Bởi vậy thế lực làm hàng giả có lớn mạnh đến đâu cũng không được quang minh chính đại, mãi mãi phải lẩn lút trong bóng tối. Việc làm ăn trong bóng tối của Lão Triều Phụng phất lên như diều gặp gió, nhưng chỉ cần lôi ra ngoài ánh sáng là cơ đồ ấy sẽ tan biến như băng tuyết.

Sự thật là lòng chính trực trong tim, dù có lúc suy yếu, có lúc ngủ quên, nhưng đó là lẽ phải, là chính đạo. Nếu thật giả giao tranh, cuối cùng nhất định tà không thể thắng chính. Chuyện này chẳng liên quan gì tới thế lực hay thủ đoạn cả, mà là lẽ trời.

Trong một tuần này, tôi một mặt nhờ Kido Kana thu thập thêm tài liệu từ phía Nhật Bản, một mặt tập trung vào các manh mối hòng tìm hai chiếc chóe còn lại. Phương Chấn nói đã báo cáo lên trên, xin ý kiến về việc trục vớt con thuyền. Nhưng tất cả công tác chuẩn bị này đều phải có tiền đề là tôi tìm được mốc định vị chính xác.

Ngày nào tôi cũng gọi điện đến Nam Xương, tinh thần bác Doãn coi như đã ổn định, cả ngày chỉ nằm bò ra bàn thao tác, chẳng có thay đổi gì. Dược Bất Thị thì lặn mất hút chẳng thấy tăm hơi, không biết bận bịu chuyện gì. Kẻ này chẳng mấy thiết tha với các quan hệ cá nhân, nếu không có việc gì thì cũng chẳng buồn giao thiệp.

Hôm nay tôi đang ngồi thần ra trước tấm bảng đen vẽ đầy những vòng tròn và đường nối trong tiệm. Tôi mượn bảng từ trường tiểu học bên cạnh, viết tất cả những manh mối và nhân vật đã biết lên đó, rồi nối với nhau, nhằm sắp xếp lại suy nghĩ cho sáng rõ. Những chuyện liên quan tới bộ chóe quá mức phức tạp, nào thì từ thời Minh, thời Dân Quốc, rồi liên quan tới cả Nhật Bản và Trung Quốc, bao nhiêu bí ẩn xung quanh nhà hàng Khánh Phong, mấy nhân vật thần bí đã mất tích cùng vụ án đầu Phật. Mỗi lần nghĩ tới tôi lại thấy đầu nhức như muốn nổ tung, một tấm bảng đen làm sao giải quyết nổi, phải dùng đến máy tính điện tử may ra.

Đang chìm đắm trong mê cung không sao thoát ra được, chợt tôi thấy tủ kính trưng bày bên cạnh rung lên. Mấy pho tượng Phật nhỏ bằng ngọc trong tủ rung rinh dịch khỏi vị trí ban đầu, như thể sắp xảy ra chuyện lớn vậy.

Ông Phật dời chỗ, ắt có sự lạ.

Tôi vội tì lên mặt tủ quầy, cúi đầu nhìn, quả nhiên chiếc điện thoại di động đặt trong tủ đổ chuông. Tôi cầm máy a lô, đầu kia vang lên giọng Yên Yên.

“Ừm… anh… anh Nguyện à.” Từ sau khi biết chuyện vai vế, cách xưng hô của cô với tôi cũng có phần khang khác. Gần đây chúng tôi không gặp nhau, e khó xử, còn về quan hệ giữa hai người phải định nghĩa như thế nào thì chờ khi nào chuyện này sáng tỏ mới tính. Giờ cô chủ động gọi điện tới, nhất định có chuyện quan trọng.

“Sao vậy? Ông nội em vẫn khỏe đấy chứ?” Tôi lo lắng hỏi.

“Vẫn khỏe ạ. Em gọi điện để báo với anh, có tung tích chóe Uất Trì Cung xông pha cứu chúa rồi.”

Nghe vậy, tôi mừng như bắt được vàng.

Trong năm chiếc chóe, Chu Á Phu đóng quân trại Tế Liễu, Quỷ Cốc Tử xuống núiLưu Bị ba lần ghé lều tranh đều đã xuất hiện, chỉ có Tây sương ký thắp nhang vái trăngUất Trì Cung xông pha cứu chúa là chẳng thấy tăm hơi. Hôm ấy trò chuyện với Hoàng Khắc Vũ, ông cụ cũng nhận lời sẽ huy động quan hệ của mình, lùng sục một lượt trên toàn quốc xem có tìm được không.

Hoàng Khắc Vũ là một trong những bô lão còn lại của Minh Nhãn Mai Hoa, uy thế không thua Lưu Nhất Minh, quan hệ cũng cực rộng. Có ông cụ giúp đỡ, tôi tin rằng chẳng mấy chốc sẽ có kết quả, nhưng thực không ngờ chỉ sau một tuần đã tìm ra.

Biết tôi hiểu lầm, Yên Yên giải thích, “Cái này là em tìm được, không liên quan gì tới ông cả.”

“Em á?”

Tôi thực không dám tin. Không phải coi thường Yên Yên, nhưng so với ông nội, cô vẫn còn quá non nớt. Nghe tôi nói vậy, Yên Yên có vẻ phật lòng. Tôi phải dỗ dành mấy câu, cô mới chịu nói rõ.

Thì ra ông Hoàng Khắc Vũ quả thực đã huy động quan hệ khắp nơi để lùng tìm, hô hào cả nhà họ Dược góp sức, nhưng mãi chẳng có tiến triển gì. Hoàng Yên Yên chợt nhận ra họ đã rơi vào điểm mù, tất cả đều tập trung tìm kiếm trong giới cổ vật mà bỏ qua một nơi cũng dồi dào tài nguyên, phải tội không mấy ai chú ý - bảo tàng.

Đồ sưu tầm trong Cố Cung lẫn các bảo tàng địa phương đều có giá trị hơn xa những món lưu thông trên thị trường. Chẳng qua vì văn vật trong bảo tàng không thể mua bán, không phải hàng hóa, chỉ phục vụ triển lãm nghiên cứu nên thường bị người trong giới cổ vật nửa vô tình nửa cố ý ngó lơ. Song thật ra bất luận là ở Trung Quốc hay nước ngoài, thì viện bảo tàng mới là nơi quy tụ văn vật đích thực.

Nghĩ tới điểm này, Yên Yên bèn tự đi mượn danh sách văn vật sưu tầm trong các bảo tàng ở Trung Quốc để tra cứu. Cuốn danh sách này rất dày, bên trong liệt kê văn vật chủ chốt trong tất cả các bảo tàng hạng một, hai và ba của Trung Quốc, mỗi năm năm lại cập nhật một lần. Danh sách đồ gốm sứ cực nhiều, may mà có hướng dẫn tra cứu rõ ràng nên cô có thể tra luôn được các chóe sứ vẽ tích cổ dưới thời Vạn Lịch nhà Minh.

Kết quả là tra ra được thật.

Ở Yên Đài, Sơn Đông có bảo tàng Thương nghiệp Phúc Kiến xây dựng vào năm 1958, là đơn vị sự nghiệp cấp huyện. Bảo tàng tổng hợp địa phương này quy mô không lớn nhưng có hoạt động học thuật rất mạnh. Sơn Đông tổng cộng chỉ có ba bảo tàng đủ tiêu chuẩn tiến hành công tác đào bới khảo cổ theo nhóm, thì đây là một trong số đó. Bảo tàng chủ yếu trưng bày các hiện vật về văn hóa buôn bán trên biển ở Phúc Kiến và đồ ngọc, đồ sắt, đồ đồng Sơn Đông, đồ gốm sứ khá ít, cũng chẳng có văn vật hạng một. Có điều trong danh sách đồ trưng bày lại có một chóe sứ thanh hoa vẽ tích cổ thời Vạn Lịch, chỉ không nêu thông tin chi tiết.

Nếu là người khác, có lẽ đã lướt qua. Nhưng Yên Yên tỉ mỉ cẩn thận, để ý thấy ghi chép này bèn nhờ bạn ở Yên Đài tới tận nơi xem, xác nhận hình vẽ trên đó đúng là Uất Trì Cung xông pha cứu chúa.

Chuyện này kể ra thật khó tưởng tượng. Ông Dược Lai hay Lão Triều Phụng đều là hạng lõi đời trong ngành này, Dược Bất Nhiên, Liễu Thành Thao, Âu Dương Mục Mục cũng là những tay sành sỏi trong đám trẻ tuổi, bấy nhiêu cao thủ hàng đầu đánh nhau sứt đầu mẻ trán, thậm chí mất cả mạng để tìm bộ chóe, vậy mà chiếc chóe Uất Trì Cung xông pha cứu chúa bày lù lù trong một bảo tàng nhỏ lại chẳng được ai nhìn ngó đến.

Chỉ có thể giải thích rằng đó là khoảng tối dưới chân đèn. Mọi người đều bị điểm mù tâm lý che mắt, chỉ chăm chăm vào thị trường cổ vật mà quên mất cổ vật không chỉ tồn tại trên thị trường.

Tôi chợt cảm khái khôn xiết. Chuyện này nói thì dễ nhưng làm lại khó. Đồ sứ thanh hoa nhan nhản trong các bảo tàng trên cả nước, chóe vẽ tích cổ cũng chẳng thiếu gì, phải xác nhận từng đặc điểm một, cuối cùng mới chốt lại được bảo tàng Thương nghiệp Phúc Kiến ở Yên Đài, hẳn là mất rất nhiều công sức. Yên Yên đã vất vả nhiều rồi.

“Cảm ơn em nhé, Yên Yên.” Tôi chân thành cảm tạ. “Ừm… không có gì, việc em nên làm thôi mà.” Giọng nói đầu kia hơi ấp úng, cô vội vã cúp máy.

Tôi thở dài, Yên Yên vẫn đang trốn tránh. Tôi cũng chưa biết phải giải quyết chuyện này ra sao, cảm thấy còn khó khăn hơn cả tìm thuyền Fukukou nữa.

Không nghĩ ngợi lung tung nữa, lo việc chính cái đã!

Tôi lập tức báo cho Dược Bất Thị. Hai chúng tôi mua ngay vé tàu chuyến gần nhất, chạy tới Yên Đài.

“Cậu phải tính trước xem tới nơi rồi thì làm thế nào.” Dược Bất Thị chống cằm nhìn ra rặng cây chạy ngược ngoài cửa sổ, bảo tôi.

Tôi ngồi trên ghế nhắm nghiền mắt, nghĩ kỹ mới thấy chuyện này đúng là hóc búa.

Mục đích của chúng tôi không phải cái chóe, mà là mốc định vị trong chóe. Nhưng giờ nó đang là hiện vật trong bảo tàng, đừng nói róc ra lấy mốc định vị, mà ngay muốn mở tủ kính sờ thử cũng phải báo cáo hết cấp này đến cấp khác. Chúng tôi không phải Lão Triều Phụng, không thể làm chuyện trộm cắp mà phải đi theo lối chính thống, ấy mới là vướng tay vướng chân.

Kể cả tôi dựa thế Minh Nhãn Mai Hoa gây áp lực, lấy được chóe ra, thì cũng làm sao róc nổi? Người duy nhất biết kỹ thuật Phi Kiều Đăng Tiên là bác Doãn đã hóa điên, không thể nhờ bác ta thi triển lần nữa được.

Ôi, cứ nghĩ tới mấy chuyện này là rối tinh cả đầu. Tôi thầm nhủ, tới đâu hay đấy vậy. Bất luận thế nào cũng phải lấy được nó ra cái đã.

Dược Bất Thị đọc vị ra ngay, liền cười nhạt, “Nếu thấy không ổn thì dùng cách của tôi đi.”

Tôi hiểu ý anh ta, con người này học kinh tế thì còn cách gì được chứ? Tôi vội nói, “Đó có phải tiệm đồ cổ đâu, cũng không nằm trong kế hoạch kinh doanh của anh với bà Sâm, đó là bảo tàng đấy, anh đừng có làm thế.”

“Mong là vậy.” Dược Bất Thị buông ba tiếng gọn lỏn rồi quay ra ngắm cảnh vật bên ngoài. Thấy anh ta không có hứng thú nói chuyện, tôi hài lòng ngồi nhắm mắt dưỡng thần. Bất giác tôi lại nhớ tới lần trước cùng Dược Bất Nhiên tới Thiên Tân, cùng là ngồi tàu, nhưng đi với gã thú hơn nhiều.

Dược Bất Thị thình lình nhìn sang, “Có phải cậu đang nghĩ đi với Dược Bất Nhiên vui hơn bao nhiêu không?”

Gã này… biết đọc suy nghĩ người ta à? Tôi vội cúi gằm mặt như học trò đọc truyện vụng trong lớp bị thầy tóm được. Dược Bất Thị nheo mắt nhìn tôi một lúc lâu rồi đổi tư thế ngồi, nói đầy thâm ý, “Kể cho cậu nghe chuyện về Dược Bất Nhiên nhé.”

“Hở?” Tôi ngẩn người, sao bỗng dưng anh ta lại nổi hứng kể chuyện vậy.

“Dạo Dược Bất Nhiên học cấp hai, trong lớp có một đứa con ông cháu cha mới chuyển đến. Thằng đó hoành hành ngang ngược, phách lối hết sức, thầy cô giáo cũng chẳng dám động vào. Kết quả chưa đầy nửa học kỳ, thằng lỏi đã bị kiểm điểm vì tội nhìn trộm phòng tắm nữ nên phải chuyển trường. Người khác không biết, song tôi biết rõ, tất cả là do Dược Bất Nhiên bày ra. Nó mất hơn một tháng, bất chấp nguy hiểm có thể bị phát hiện, khoét một lỗ hổng trên tường phòng tắm nữ, sau đó chọn đúng lúc cô hiệu trưởng đang tắm thì hẹn thằng kia đến bên tường, để thằng đó bị tóm tại trận. Bắt được cả người lẫn lỗ, chứng cứ rành rành, thằng con ông cháu cha kia đành phải tiu nghỉu chuyển đi.”

Chuyện này hay thật, hóa ra từ lúc học cấp hai, Dược Bất Nhiên đã tai ác vậy rồi.

“Cậu có biết chuyện này đáng sợ nhất là gì không?” Dược Bất Thị hơi cao giọng, ánh mắt cũng lóe lên sắc lạnh, “Ngoài tôi ra, chẳng ai biết là Dược Bất Nhiên làm. Họ không sao ngờ được một thằng nhóc cả ngày cười hì hì lại có thể bày ra cái bẫy độc địa làm vậy. Ngay cả tôi cũng chỉ đoán được dựa trên những dấu vết nho nhỏ từ hành vi thường ngày của nó. Để đạt được mục đích, Dược Bất Nhiên có thể hành động kín kẽ đến nhường ấy, đồng thời nó cũng giấu kỹ ý nghĩ thật sự của mình, chẳng để một ai thấy được.”

Tôi hít vào một hơi.

Dược Bất Thị nói tiếp, “Người khác thì ngoài mềm trong cứng, còn thằng em tôi lại ngoài cứng trong mềm, giữa còn phủ một màn sương. Chẳng ai nhìn thấu được nó rốt cuộc đang nghĩ gì. Cậu có hiểu ý tôi không? Nếu đối đầu với nó thì đừng ôm bất cứ ảo tưởng hay tâm lý cầu may nào hết, cũng đừng hòng suy đoán tâm tư nó. Xét trên một góc độ nào đó, nó còn khó đối phó hơn cả Lão Triều Phụng đấy.”

Dứt lời anh ta lại quay ra nhìn cửa sổ, bỏ lại tôi, giờ đã không sao ngủ nổi nữa.


Tới Yên Đài, chúng tôi không chút chần chừ, đi thẳng đến bảo tàng Thương nghiệp Phúc Kiến.

Bảo tàng Thương nghiệp Phúc Kiến ở Yên Đài nằm trong một ngôi nhà cổ khá đặc biệt, ấy là miếu Thiên hậu Mân Nam. Mái hiết sơn hai lớp, rường cột chạm trổ, phía trên lợp ngói lưu ly xanh biếc, vô cùng tinh xảo, đậm sắc thái Mân Nam. Năm xưa để cầu bình an khi đi biển, thương nhân trong đoàn thuyền buôn Phúc Kiến đã cho xây một loạt miếu thờ thần biển suốt dọc tuyến đường. Giờ người ta lại trưng dụng một trong những nơi đó làm bảo tàng nên mới gọi là bảo tàng Thương nghiệp Phúc Kiến.

Những bức điêu khắc đá tinh xảo trước cửa miếu và đại điện là một điểm đặc sắc ở đây. Đọc bảng chú thích thì năm xưa tất cả gạch đá ở đây đều được chuyển từ Tuyền Châu tới, quanh rường cột, đòn dông, mái hai lớp có đến gần trăm bức phù điêu đủ màu, cái nào cũng có điển cố. Tiếc rằng chúng tôi chẳng có bụng dạ nào thưởng thức, mua vội hai vé vào cửa rồi hối hả bước vào.

Trước tiên phải nhìn tận mắt, xác định xem có đúng chiếc chóe cần tìm không đã, rồi nghĩ cách sau.

Bảo tàng không rộng, khách tham quan thưa thớt, chẳng ai để tâm chăm chút bảng tên hiện vật. Giờ mọi người chỉ háo hức với buôn bán kinh doanh, bảo tàng lớn ở các nơi còn vắng, huống hồ bảo tàng nhỏ thế này.

Chúng tôi dạo một vòng, thấy bên trong trưng bày khá nhiều hiện vật, nổi bật nhất là quả cân sắt nạm đồng khắc chiếu thời Tần, chắc là hiện vật chủ chốt của bảo tàng. Đồ gốm sứ khá ít, nhưng cũng có tầm mười mấy món, chủ yếu là đồ nhà Thanh, ví như chén vàng hai quai men pháp lang thời Càn Long, cốc sứ thanh hoa vẽ bát tiên v.v…, chưa kể bình mai hoa văn dây cuốn của trấn Cảnh Đức thời Minh, bát men thiên thanh lòng loang tía lò Quân thời Nguyên, có cả mấy món từ lò Kiến Dương, lò Việt thời Tống.

Chỉ không thấy chóe thanh hoa vẽ tích cổ thời Vạn Lịch.

Chuyện này thật lạ. Rõ ràng Yên Yên đã nhờ bạn ở Yên Đài tới kiểm tra, xác định có thật kia mà. Sao chúng tôi vừa đến nó đã biến mất?

Hay là Lão Triều Phụng lại nẫng tay trên rồi? Tôi và Dược Bất Thị nhìn nhau, đều không giấu nổi lo âu. Lần này tới Yên Đài, ngoài Yên Yên chỉ có hai chúng tôi biết với nhau, lý ra không thể để lọt tin tức. Nhưng nếu đối thủ là Lão Triều Phụng thì cũng khó mà nói chắc.

Chúng tôi vội tìm người hướng dẫn hỏi han, nhưng đó chỉ là một cô gái trẻ, ngoài bài thuyết minh học thuộc ra thì chẳng biết gì hết. Cô bị chúng tôi hỏi đến vã cả mồ hôi, đành nói để đi xin ý kiến cấp trên. Ngờ đâu cấp trên đã đi công tác, chẳng biết bao giờ về.

Lúc này một người trung niên đeo kính đi đến, thái độ nhã nhặn, hỏi chúng tôi có việc gì. Anh ta là đàn ông Sơn Đông điển hình, khuôn mặt đen nhẻm, da nứt nẻ nhăn nheo, thoạt trông đã biết suốt ngày dang nắng. Chỉ có đôi mắt tròn ngời sáng, toát lên vẻ nho nhã.

Anh ta tự giới thiệu mình tên Lương Ký, trùng tên với một viên tướng chuyên quyền độc đoán dưới thời Hán, là chuyên gia của bảo tàng Thương nghiệp Phúc Kiến, tôi trò chuyện với anh ta mấy câu, Lương Ký đã sáng mắt lên, xoa tay mừng rỡ nói, “Các vị là dân trong nghề đây mà.”

Người Sơn Đông có tiếng nhiệt tình, hễ hợp chuyện là rôm rả như quen thân từ lâu. Qua cuộc nói chuyện, tôi được biết Lương Ký phụ trách công tác khảo cổ điền dã, có điều gần đây kinh phí của bảo tàng eo hẹp nên hoạt động khảo cổ bên ngoài phải tạm dừng. Anh ta chẳng còn việc gì làm nên chạy đến bảo tàng. Vừa rồi trông thấy chúng tôi gặng hỏi hướng dẫn viên, biết chúng tôi không phải khách tham quan cưỡi ngựa xem hoa thông thường, anh ta mới đi đến chào hỏi.

“Giờ chẳng còn mấy người muốn đến đây nữa, người am hiểu lại càng ít ỏi. Ngay các thành viên nhóm khảo cổ dưới trướng tôi cũng đã bỏ đi gần nửa, không giữ nổi.” Lương Ký cảm khái lau mắt kính rồi lại vồn vã, “Các anh tới tham quan thì hay quá rồi! Bảo tàng này tuy nhỏ nhưng cũng có vài món khá lắm.”

Tay chuyên gia khảo cổ này có lẽ lâu lắm mới gặp được hai tri âm cùng sở thích nên hết sức nhiệt tình. Tôi tán gẫu mấy câu rồi thừa dịp hỏi, “Nghe nói ở đây có chóe sứ thanh hoa vẽ tích Uất Trì Cung xông pha cứu chúa thời Vạn Lịch, sao bọn tôi không thấy nhỉ?”

“Ồ, các anh biết cả cái chóe ấy kia à?” Lương Ký càng thêm mừng rỡ, giơ tay chỉ xung quanh, “Các anh cũng thấy đấy, ngôi miếu này khá nhỏ, không bày được nhiều hiện vật nên chúng tôi phải trưng bày luân phiên, định kỳ thay đổi. Những thứ không trưng bày đều được niêm phong cất vào kho. Tôi biết cái chóe anh nói rồi, hôm qua vừa mới cất đi đấy.”

“Bọn tôi vào kho xem được không?” Tôi ướm hỏi.

Lương Ký gãi đầu vẻ khó xử, nói bảo tàng có quy định, hiện vật đã nhập kho không được lấy ra ngoài. Nghe giọng anh ta chẳng mấy quả quyết, tồi bèn nài nỉ, “Chúng tôi là người nơi khác, không thể ở đây chờ đến lúc thay đổi hiện vật trưng bày lần nữa được, anh xem có linh động được không?”

Lương Ký bối rối ra mặt, “Chỗ chúng tôi còn nhiều hiện vật thú vị lắm mà, tôi sẽ làm hướng dẫn viên miễn phí cho hai anh, đâu nhất thiết phải xem cái chóe ấy?” Tôi ra sức nì nèo nhưng Lương Ký rất có nguyên tắc, nói sao cũng không chịu nhân nhượng làm trái quy định.

Tôi lấy lùi làm tiến, bèn vờ bỏ đi. Lương Ký vội níu lại nói, “Hay là thế này đi, đến chiều tôi có thể thay đổi một số hiện vật trước thời hạn, lấy chiếc chóe trong kho ra trưng bày cho các anh xem.”

Phương án chiết trung này tuy không đúng ý chúng tôi, nhưng cũng miễn cưỡng chấp nhận được. Chúng tôi bèn tìm chỗ ăn trưa, đợi tới chiều quay lại. Lương Ký đã đợi sẵn trước cửa, nhiệt tình trỏ chiếc chóe cho chúng tôi, khoe đã bày sẵn rồi.

Nhìn theo tay anh ta chỉ, chúng tôi thấy chiếc chóe Uất Trì Cung xông pha cứu chúa đang nằm im lìm trong tủ kính trưng bày. Thoạt trông tôi đã nhận ra ngay là đồ thật, cùng một lò nung ra với bốn món kia, bất luận màu sắc, chất men, đường rạn đều giống y đúc.

“Đẹp quá…” Tôi tấm tắc.

Dù nhìn từ góc độ không gợn chút tư tâm thì, bản thân chiếc chóe này đã là một tác phẩm nghệ thuật tinh xảo hiếm có. Khí chất khoan thai nhẹ nhàng cùng màu men cô ban tuyệt đẹp đều khiến người ta mê mẩn tâm thần.

Lương Ký cũng chống gối, vươn người về phía trước, đăm đăm nhìn nó như âu yếm ngắm con ruột, vẻ say mê, “Bảo tàng này cũng có mấy món gốm sứ đẹp, nhưng tôi thích nhất chiếc này, có ngắm nửa ngày cũng chưa thỏa.”

Tôi tì trán vào tủ kính, cố tiếp cận nó gần nhất có thể. Được ngắm chiếc chóe dễ dàng thế này, khiến tôi cứ có cảm giác không thực. Ba chiếc chóe kia, chúng tôi đều phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới chạm tới được bí mật bên trong, giờ chiếc thứ tư lại xuất hiện trước mặt không tốn mấy công, làm tôi không quen.

Thực ra giới cổ vật này là vậy, “giữa đám tìm người trăm ngàn độ, bỗng quay đầu lại, người ngay trước mắt, dưới lửa tàn đứng đó”*. Có lúc sự việc vốn không phức tạp đến thế, mà đơn giản hơn tưởng tượng nhiều.

Tôi căng mắt quan sát, cố tìm túi men trên chóe. Tiếc rằng vẫn cách quá xa, lại thêm tủ kính lau không sạch lắm nên không trông rõ. Phải cầm nó lên xem, lần tay trên những chỗ lồi lõm mói xách định được vị trí chính xác. Tôi áp tay lên tủ kính, bí mật kia giờ đã gần trong gang tấc, thực muốn đập vỡ kính mà ôm chặt nó vào lòng.

Có nó, tôi sẽ có bốn mốc định vị, chiếm ưu thế hơn Lão Triều Phụng.

“Các anh tìm đâu được chiếc chóe này vậy?” Tôi hỏi dò.

Lương Ký giải thích, “À, không phải đào được đâu, nó được thu mua từ người dân năm 1958 lúc mới thành lập bảo tàng đấy, tiếc rằng tài liệu về người hiến tặng thất lạc từ lâu rồi. Vật thế này nhà bình thường sao dùng nổi, tôi ngờ là nhà giàu có chạy nạn từ miền Bắc đem xuống.”

Sau năm Dân Quốc thứ hai mươi, bộ chóe thất tán mỗi nơi một chiếc. Bốn chiếc kia lần lượt rơi vào tay nhà họ Dược, Trịnh, Liễu và Âu Dương, chiếc thứ năm này lưu lạc đến Sơn Đông cũng chẳng có gì lạ.

Tôi nhìn chằm chằm tủ kính thật lâu, mắt trông chiếc chóe thanh hoa, trong khi đầu óc tính toán thật nhanh.

Đàm phán với viện bảo tàng khác hẳn với đám con buôn cổ vật. Lái buôn cổ vật đặt nặng lợi ích, chỉ cần giá cả hợp lý thì chuyện gì cũng dễ nói. Nhưng bảo tàng lại là đơn vị sự nghiệp, có quy chế quy trình riêng, nặng về học thuật, cũng nặng cả quan liêu. Không làm theo quy trình thì rất khó xong việc.

Tôi và Dược Bất Thị đi quá vội, chỉ đem theo thư giới thiệu của Cố Cung do ông Hoàng Khắc Vũ kiếm cho. Nhưng thư giới thiệu chỉ đơn thuần là giới thiệu, không có hiệu lực quản lý, chúng tôi phải tự nghĩ cách “mượn” chóe.

Lương Ký nào biết được bụng dạ tôi, còn vui vẻ giảng giải đủ thứ. Tôi hỏi anh ta chiếc chóe này đã bao giờ được cho các bảo tàng khác mượn trưng bày chưa, anh ta quả quyết phủ định, “Sao có chuyện ấy được, tuy nó không phải hiện vật chủ chốt của bảo tàng, nhưng cũng rất có giá trị thẩm mỹ và khảo cổ, đời nào bảo tàng đem cho mượn? Lúc kê danh sách văn vật nộp lên, chúng tôi còn không dám viết cụ thể, sợ người ta mượn rồi không trả.”

Thảo nào danh mục Yên Yên tra chỉ viết chung chung, ra là vì lẽ này. Tôi thầm nhủ thế này thì khó rồi, người ta quý hóa cái chóe như thế, chẳng phải càng khó lấy đi ư?

Lúc này Dược Bất Thị thình lình đi đến, gạt tôi ra rồi ngang nhiên hỏi, “Cái này có mua được không?” Lương Ký biến sắc. Tôi vội gạt đi, “Anh nói gì thế? Đây là văn vật nhà nước, không cho phép mua bán đâu, phạm pháp đấy.”

Dược Bất Thị bình thản đáp, “Tôi hỏi thử thôi mà.”

Lương Ký như bị sỉ nhục, sầm mặt đẩy chúng tôi ra ngoài, “Tôi cứ tưởng các người là dân trong nghề, hóa ra là đám con buôn! Cút, cút ngay ra ngoài cho tôi!” Tôi định phân bua thêm vài câu, nhưng Lương Ký chẳng buồn nghe. Anh ta cao to lực lưỡng, muốn lùa chúng tôi ra thực dễ như trở bàn tay. Thế là chúng tôi bị đuổi thẳng cổ khỏi bảo tàng.

Tôi đứng giữa đường lầu bầu trách Dược Bất Thị quá đường đột. Đã biết Lương Ký là kẻ say mê văn vật, sao lại hỏi một câu như thế để chọc giận anh ta? Khó khăn lắm mới gây dựng được thiện cảm, vậy mà nháy mắt đã tan tành. Dược Bất Thị cãi, “Anh ta chỉ là chuyên gia nghiên cứu, còn chưa phải phó giám đốc bảo tàng, làm gì có quyền quyết định.”

“Thế thì anh nói chuyện đó với anh ta làm gì?”

“Tôi đâu có nói với anh ta.” Dược Bất Thị giơ tay trỏ. Tôi ngoái lại nhìn, thấy một người béo lùn từ bảo tàng đi ra, đưa mắt ra hiệu cho chúng tôi rồi ngoắc tay ý bảo “đi theo tôi”. Chúng tôi theo ông ta tới một góc vắng vẻ. Ông ta đưa cho tôi một tấm danh thiếp, tôi cầm xem, ra là giám đốc bảo tàng.

“Vừa rồi tôi tình cờ nghe được hai vị trao đổi với anh Lương Ký. Anh Ký cực giỏi chuyên môn, nhưng không thạo đối ngoại, thái độ làm việc có phần cứng nhắc, tôi thay mặt anh ấy xin lỗi hai anh.” Giám đốc bảo tàng cười nói.

Tôi và Dược Bất Thị lặng thinh, biết nhất định ông ta còn nói tiếp. Quả nhiên ông ta hỏi, “Vừa rồi anh đây hỏi… có mua được không ư?”

Dược Bất Thị gật đầu.

“Bảo tàng chúng tôi là đơn vị sự nghiệp công lập, không phải cái chợ, tuyệt đối không cho phép hành vi mua bán văn vật.” Giám đốc bảo tàng nghiêm trang khẳng định, sau đó nói thêm, “Dĩ nhiên chúng tôi hoan nghênh toàn xã hội giám sát, tuyển lựa nghiêm ngặt các hiện vật trưng bày, chỉ giữ lấy những món tinh túy, tối ưu hóa phẩm chất.”

Nghe câu này, chúng tôi hiểu ra ngay. Bảo tàng không thể mua đi bán lại, nhưng không phải không thể xử lý hàng giả. Có giám đốc bảo tàng đứng giữa dàn xếp, tìm một chuyên gia đưa ra báo cáo giám định, nói rằng mấy hiện vật này là giả, yêu cầu loại bỏ thì có thể âm thầm tuồn cho đám buôn cổ vật, tiền thu được lại không phải ghi vào sổ sách của bảo tàng. Dù cơ quan chủ quản cấp cao hơn phát hiện ra cũng chỉ cần chống chế một câu “có tranh cãi trong việc giám định” là xong, khỏi sợ truy cứu trách nhiệm, ai chẳng có lúc giám định lầm?

Trước khi lên đường, tôi đã tới hỏi han Thẩm Vân Sâm, bà ta rất có óc kinh doanh, nắm rõ mấy mánh lới này. Các bảo tàng nhỏ ở địa phương thường túng thiếu, buộc phải tự tìm đường sống. Buôn bán hiện vật trong bảo tàng đã trở thành con đường duy nhất để kiếm tiền. Giám đốc bảo tàng đích thân thông đồng với con buôn cổ vật cũng chẳng phải chuyện hiếm.

Nhìn tay giám đốc khấp khởi ra mặt, tôi không khỏi bùi ngùi. Tôi biết chỉ cần Dược Bất Thị ra giá, chẳng cần phải quá cao, ông ta sẽ lập tức dàn xếp, gán cho chóe Uất Trì Cung xông pha cứu chúa là đồ giả rồi giao cho chúng tôi. Để lấy được một món đồ thật, trước hết lại phải bảo nó là đồ giả, nghe sao mà chua chát.

Dược Bất Thị đang định lên tiếng thì tôi giật tay áo anh ta, nghiêm nghị nói, “Không được đâu.” Dược Bất Thị ngẩn người, không hiểu sao tôi lại ngăn cản. Tôi bèn cướp lời nói với giám đốc bảo tàng, “Ông nói phải, bảo tàng không thể cho phép mua bán văn vật, nó nên ở lại đây thì hơn.”

Giám đốc bảo tàng không ngờ tôi lại nói vậy, còn tưởng tôi có thâm ý gì. Tôi quả quyết lặp lại lần nữa, ông ta cau có nhìn tồi từ đầu xuống chân như nhìn đồ thần kinh rồi sầm mặt bỏ đi. Dù sao ông ta cũng chẳng lo chúng tôi tố giác, bởi những lời ông ta vừa nói hết sức kín kẽ, không bới móc được gì. Có viết lại cũng vẫn rành rành giọng điệu chính thống.

Giám đốc bảo tàng đi rồi, Dược Bất Thị mới sa sầm mặt nhìn sang tôi, “Cậu giải thích đi chứ.” Tôi thở hắt ra, “Tôi chẳng nói rồi đấy thôi, thó văn vật từ bảo tàng là phạm pháp.”

Dược Bất Thị cáu kỉnh, “Ấy là chúng ta mua phế phẩm từ bảo tàng, dù vỡ lở cũng là do chuyên gia giám định và giám đốc bảo tàng sơ sẩy không làm tròn chức trách, chẳng liên quan gì tới chúng ta cả.” Tôi trả lời, “Về pháp lý có lẽ sẽ thoái thác được, nhưng về lương tâm thì đừng hòng biện hộ. Nếu làm vậy, chúng ta có khác gì Lão Triều Phụng đâu? Chúng ta lấy tư cách gì mà chống lại lão nữa?”

Không phải tự nhiên tôi thành nhà đạo đức, đây chỉ là lòng kiên định của tôi, cũng là của người nhà họ Hứa. Tôi tin rằng nếu ông hay bố tôi ở đây, cũng sẽ không dùng thủ đoạn này để lấy chiếc chóe. Con người ta làm việc phải thuận theo tấm lòng mình, bằng không những việc mình làm còn ý nghĩa gì nữa?

“Nếu không lấy được mốc định vị trong chóe, cậu càng không có cơ hội chống lại lão ta.” Dược Bất Thị nhắc nhở.

“Chuyện mốc định vị tôi sẽ nghĩ cách khác, nhưng tuyệt đối không thể lấy từ tay giám đốc bảo tàng được.”

“Đúng là đồ ngu ngốc hành sự cảm tính.”

Dược Bất Thị mắng thẳng mặt tôi, nhưng thôi không khuyên nhủ. Nhìn ánh mắt tôi, anh ta đủ biết tôi hết sức nghiêm túc với chuyện này, nghiêm túc đến mức dù là anh ta cũng không dám tính tới chuyện bắt tay với giám đốc bảo tàng nữa. Tôi nhìn anh ta vẻ cảnh cáo, “Anh đừng hòng qua mặt tôi lén lút giao dịch, làm thành chuyện đã rồi đấy.”

Dược Bất Thị cười nhạt, quay ngoắt đi. Hợp tác lâu nay, tôi cũng có thể đoán được đại khái suy nghĩ của anh ta.

Việc hôm nay đến đây là hết. Hai chúng tôi về khách sạn, bàn bạc xem bước tiếp theo nên làm gì. Tôi nghĩ rằng nên mời Hoàng Khắc Vũ ra mặt, yêu cầu Cố Cung hoặc bảo tàng Lịch sử Trung Quốc, bảo tàng Cách mạng Trung Quốc ra một công hàm chính thức, yêu cầu mượn tạm chiếc chóe kia về Bắc Kinh. Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa rất quan tâm tới tuyệt kỹ của bác Doãn, vời vài chuyên gia cùng nghiên cứu, lại huy động khoa học kỹ thuật hiện đại, có lẽ sẽ bóc tách được mốc định vị trong túi men mà không làm hỏng chóe, vậy là vẹn cả đôi đàng.

Kế hoạch này có quá nhiều nhân tố chưa chắc chắn, nhưng trước mắt cũng chẳng có cách nào khá hơn. Dược Bất Thị vẫn đang giận nên không bình luận gì, mặc cho tôi xử lý.

Tôi còn đang nghĩ cách lựa lời đề nghị với ông Vũ, chợt nghe tiếng đập cửa rầm rầm. Vừa mở cửa, Lương Ký đã xộc vào, tóm cổ áo tôi quát lớn, “Sao chúng mày dám làm thế?”

Hai chân xém nữa bị nhấc lên khỏi mặt đất, tôi ngơ ngác hỏi có chuyện gì. Lương Ký gầm lên, “Bọn con buôn chúng mày đến đây chôm chỉa, còn hỏi tao chuyện gì nữa à?”

Dược Bất Thị đi đến, bảo anh ta buông tay, “Chúng tôi chỉ thuận miệng hỏi một câu, sao lại thành chôm chỉa rồi? Anh phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về lời nói của mình đấy biết không, đừng tưởng muốn nói gì thì nói.” Lương Ký dúi tôi xuống đất, hùng hổ hỏi, “Ra khỏi bảo tàng chúng mày không gặp giám đốc chỗ bọn tao chắc?”

“Có gặp rồi.”

“Lão bảo chúng mày là hoan nghênh toàn xã hội giám sát, tuyển lựa nghiêm ngặt các hiện vật trưng bày chứ gì?”

“Đúng vậy.”

“Thế mà còn dám cãi là không chôm chỉa!” Lương Ký nổi trận lôi đình, “Thằng già chỉ có mỗi một bài ấy mà đã lén lút tuồn bán bao nhiêu hiện vật rồi!”

Dược Bất Thị lạnh lùng đáp, “Vốn dĩ bọn tôi cũng định mua đấy, tiếc rằng anh chàng này muốn làm thánh nhân, khăng khăng không chịu, nên chúng tôi đành tiu nghỉu quay về.”

“Dối trá! Hôm nay lão ta lại ký quyết định dọn kho, rõ ràng là sắp tuồn đồ ra bán, chẳng phải cho bọn mày à!”

Tôi và Dược Bất Thị nhìn nhau, lòng đầy nghi hoặc, vội gặng hỏi Lương Ký đầu đuôi sự việc. Thấy chúng tôi không có vẻ gì gian dối, Lương Ký cũng dần bình tĩnh lại. Anh ta lùi lại mấy bước, ngồi xuống ghế, bắt đầu kể.

Từ lâu Lương Ký đã phát hiện giám đốc bảo tàng lén lút tuồn bán hiện vật ra ngoài, thoạt đầu chỉ là vài món đồ nhỏ, về sau đến cả những món lớn cũng dám bán. Mánh lới hệt như tôi đoán, trước là ký quyết định dọn kho, sau đó quy cho những thứ đó là đồ giả hoặc bị hư hại, xin loại ra. Lương Ký xót xa vô hạn, nhưng không làm gì được. Giám đốc bảo tàng bán được hàng rồi, lại đem tiền ấy ra phát lương cho nhân viên. Người trong bảo tàng được lợi nên đều ngấm ngầm hoặc công khai phối hợp, Lương Ký có bất mãn cũng đành bó tay.

“Vừa nãy trước lúc tan làm, tôi kiểm kê lại các hiện vật, thấy giám đốc bảo thủ kho làm quyết định dọn kho, biết ngay lại có món nào đó sắp gặp họa. Nghĩ lại thì hôm nay chỉ có các anh tới hỏi chiếc chóe thanh hoa vẽ tích cổ thời Vạn Lịch nọ, nên tôi mới tới tìm các anh tính sổ. Các anh không định mua thật chứ?”

“Làm thế là phạm pháp, tôi không dây đâu.” Tôi giải thích rồi nhìn sang Dược Bất Thị. Dược Bất Thị phản ứng rất nhanh, “Xem ra có kẻ khác tìm tới hỏi mua rồi.”

“Lão Triều Phụng ư?” Tôi thực không nghĩ ra còn kẻ nào khác tranh mua nữa.

Ánh mắt Dược Bất Thị sáng lên, “Chắc không phải chúng ta bị rò rỉ thông tin đâu, mà là có kẻ bám đuôi theo đến đây, nên câu kết với giám đốc bảo tàng chậm hơn chúng ta.” Tôi nghe ra ẩn ý của anh ta. Vốn dĩ chúng tôi có ưu thế thời gian, vậy mà vì tôi khăng khăng không chịu phạm tội, bỏ lỡ thời cơ, để kẻ đến sau hưởng lọi. Đám người Lão Triều Phụng vốn không phải chịu ràng buộc đạo đức, dễ dàng mua chuộc được giám đốc bảo tàng.

Hai chúng tôi đang nói thì nghe cửa phòng đập rầm một tiếng, ngẩng lên mới thấy Lương Ký đã bỏ đi mất.

Tôi vốn định nhờ anh ta hợp tác với chúng tôi. Không ngờ anh ta vừa phát hiện chúng tôi không liên quan đã quay lưng bỏ đi luôn, đúng là nóng nảy. Tôi ló đầu nhìn ra, thấy anh ta đã đi mất dạng, có muốn gọi với theo cũng chẳng được.


Sáng sớm hôm sau, chúng tôi đến bảo tàng từ sớm, ngồi ngoài đợi mở cửa. Nhưng đến giờ mở cửa mà cổng bảo tàng vẫn đóng im ỉm, chỉ nghe bên trong có tiếng quát tháo, dường như xảy ra chuyện gì đó. Mãi tới khi cảnh sát hối hả kéo đến, cửa ngách bên phía quầy vé mới mở ra để họ vào.

Chúng tôi cũng định chen vào theo nhưng nhân viên soát vé khăng khăng không chịu. Tôi phải giơ thư giới thiệu của Cố Cung ra, nghiêm mặt nói chúng tôi từ Bắc Kinh đến đây. Cô nhóc soát vé nào biết thư giới thiệu này chẳng có hiệu lực gì hết, vừa nghe nói đến Cố Cung Bắc Kinh, lại thấy đóng dấu đỏ thì ngỡ là người có vai vế lớn lắm, nào dám ngăn cản nữa.

Chúng tôi lần theo tiếng ầm ĩ băng qua cửa miếu, đi đến trước chính điện. Lúc này đã có hơn mười người xúm xít ở đó, nhìn cách ăn mặc thì đều là nhân viên bảo tàng, giám đốc dẫn đầu, vẻ mặt cau có.

Trước cửa chính điện, Lương Ký đang giơ cao chóe Uất Trì Cung xông pha cứu chúa, trông như bá vương nâng đỉnh, chân giẫm trên thềm đá bạch ngọc, cặp mắt đỏ ngầu nhìn xuống bên dưới. Giám đốc nhớn nhác hô lên, “Anh Ký mau xuống đây đi, đừng làm bậy!”

Thấy Lương Ký giơ chiếc chóe lên, đám người bên dưới sợ chết khiếp. Anh ta hét lớn, “Các người cũng thấy rồi đấy! Đây là hàng thật, thật một trăm phần trăm! Không có tì vết! Không phải phế phẩm!” Giám đốc xoa dịu, “Có ai bảo không phải hàng thật đâu, anh mau xuống đi, xuống đi mà!” Lương Ký quát lên, “Nếu là hàng thật, sao ông lại định tuồn ra ngoài bán?”

Giám đốc giật thót mình, tuy việc này không ai trong bảo tàng không biết, nhưng nói bô bô ra lại là chuyện khác. Ông ta giận quá phì cười, “Anh điên rồi à! Nói lung tung cái gì đấy?” Song Lương Ký không chịu thôi, bắt đầu hệt kê ra từng món giám đốc chôm chỉa, không thiếu thứ gì.

Trông tình cảnh này, chúng tôi cũng lờ mờ đoán được đầu đuôi câu chuyện. Giám đốc sáng sớm đến lấy đồ, không ngờ Lương Ký nhanh chân đến trước, xông vào sảnh triển lãm, tóm lấy chiếc chóe, làm ầm ĩ lên toan phá đám ông ta. Tay đội trưởng đội khảo cổ này hẳn đã nín nhịn đến cực hạn, lần này mới thừa cơ xả ra một thể.

Chỉ lạ là sao anh ta phản ứng dữ dội thế nhỉ. Thái độ của Lương Ký đầy tuyệt vọng, có vẻ bị sốc nặng. Tuy anh ta nóng nảy, nhưng hôm qua còn chưa đến nỗi nào, sao giờ đã thành ra thế này?

Hai cảnh sát đưa mắt nhìn nhau, lẳng lặng vòng ra hai cánh, định dùng vũ lực đánh gọng kìm. Lương Ký đang mải cự cãi với giám đốc, không hề hay biết. Giám đốc vẫn tiếp tục làm công tác tư tưởng, mềm mỏng thuyết phục, song Lương Ký không chịu, nằng nặc đòi ông ta làm giấy cam kết không tuồn bất cứ hiện vật nào bán ra ngoài nữa. Giám đốc nài nỉ, “Anh bỏ cái chóe xuống đi đã, rồi từ từ nói chuyện.” Lương Ký cương quyết đáp, “Ông cứ làm giấy đi đã rồi tôi bỏ.” Đôi bên rơi vào thế giằng co.

Nhìn Lương Ký quát thét đến rát cổ trước chính điện, tôi chợt chạnh lòng đồng cảm với anh ta. Anh ta toàn tâm toàn ý với công việc ở đội khảo cổ điền dã và viện bảo tàng, song lại bó tay trước thực trạng, không sao đạt được chí hướng. Trước hành vi phạm pháp của lãnh đạo và thái độ thờ ơ của đồng nghiệp, anh ta vô cùng phẫn nộ, nhưng không có năng lực, cũng chẳng có đồng minh, đành dùng cách cực đoan này để thể hiện sự bất mãn. Một con người nhỏ bé đấu tranh với hiện thực, bi tráng mà tuyệt vọng làm sao.

Dù chuyện này được giải quyết thế nào, e rằng anh ta cũng sẽ mất việc.

Chúng tôi không làm gì được, chỉ biết đứng từ xa quan sát. Hai cảnh sát cũng đã vào vị trí thuận lợi nhất, trong lúc giám đốc tiếp tục lải nhải đánh lạc hướng Lương Ký. Lương Ký đang kích động cực độ, hoàn toàn không nhận ra cảnh sát đã áp sát, chỉ tập trung đôi co với giám đốc.

Nói thì lâu mà xảy ra thì chóng, hai viên cảnh sát nhất loạt từ hai cánh nhào tới, người ôm chân kẻ kẹp ngực, xô Lương Ký ngã xuống đất. Lương Ký không kịp đề phòng, tuột tay đánh rơi chiếc chóe. Giám đốc hoảng hốt giơ tay ra đỡ, nhưng đã muộn, chóe quý trượt qua tay ông ta, xoảng một tiếng, rơi xuống thềm đá vỡ nát.

Giám đốc, Lương Ký, hai cảnh sát, các nhân viên bảo tàng cùng hai kẻ ngoài cuộc là tôi và Dược Bất Thị đều sững sờ. Thời gian trong bảo tàng như ngừng lại, tất cả đờ ra tại chỗ.

Báu vật quý giá kia vỡ rồi ư?

Tôi và Dược Bất Thị hối hả chạy lại, chỉ kịp thấy mảnh vỡ vương vãi đầy đất. Lần này không may mắn như Ba lần ghé lều tranh, thềm đá chính điện cách mặt đất hơn 3 mét, chóe sứ rơi xuống là vỡ vụn, chẳng còn mảnh nào to cho mà nhặt. Mốc định vị trong đó cũng tiêu tan, dù thần tiên giáng trần cũng chẳng cứu nổi.

Tôi lắc đầu thật lực, ngỡ như mình đang mơ. Chóe Uất Trì Cung xông pha cứu chúa nhẹ nhàng xuất hiện trước mặt tôi rồi lại nhẹ nhàng ra đi, như một chiếc bóng tôi chỉ kịp chiêm ngưỡng trong thoáng chốc, rồi… tan biến mất dạng, không thể níu giữ.

Lương Ký đằng xa gào khóc nức nở, ong cả màng nhĩ, giám đốc bảo tàng nổi trận lôi đình chửi bới ầm ĩ, cảnh sát quát tháo, cánh nhân viên bàn tán xôn xao, tạo thành một tràng chú giải cho bi kịch nhỏ vừa xảy ra.

Mọi thứ hệt như một cuốn tiểu thuyết hoang đường. Nếu chúng tôi không nhúng vào, có lẽ chiếc chóe kia vẫn yên lành nằm trong bảo tàng mãi mãi; nếu giám đốc bảo tàng không nôn nóng “làm kinh tế”, Lương Ký cũng sẽ không chọn cách phản kháng kịch liệt như vậy; nếu người của Lão Triều Phụng báo giá chậm một hôm, chưa chừng sự tình còn có cơ xoay chuyển. Sự cố chấp của chúng tôi, cám dỗ của Lão Triều Phụng, lòng tham của lão giám đốc, tinh thần đấu tranh và sự bi tráng của Lương Ký, đủ thứ nhân quả, cuối cùng lại tạo thành kết cục bi thảm cho tất cả các bên.

Tôi đứng chôn chân tại chỗ, chẳng biết làm gì. Dược Bất Thị chợt tóm lấy cánh tay tôi, nói vừa nhác thấy một bóng người lẻn ra khỏi cổng chính. Chắc hẳn là kẻ Lão Triều Phụng phái tới đàm phán với giám đốc bảo tàng, thấy chóe vỡ lập tức lỉnh đi ngay. Tôi vội gạt những suy nghĩ hỗn loạn sang một bên, theo Dược Bất Thị chạy ra cổng. Tiếc rằng cổng chính thông ra phố lớn sầm uất, chúng tôi chạy ra chỉ thấy xe cộ như nước, người qua lại tấp nập, kẻ nọ đã lẩn vào đám đông mất dạng.

Đến nước này có vòng lại gặng hỏi giám đốc bảo tàng cũng vô nghĩa. Chúng tôi đành thất vọng trở về khách sạn, Dược Bất Thị ghé vào quầy lễ tân đặt vé tàu về, còn tôi đi thẳng lên phòng nằm vật xuống giường, suy sụp khôn tả.

Chuyến đi Yên Đài này đúng là thất bại thảm hại. Chúng tôi chỉ còn cách chiếc chóe thứ tư một tầm tay với, vậy mà đành trơ mắt nhìn nó bị hủy. Năm mốc định vị thuyền Fukukou, thế là vĩnh viễn mất một. Mất một mốc định vị có ảnh hưởng gì tới việc tìm kiếm hay không, tôi không rõ lắm, phải hỏi Đới Hải Yến mới biết được. Nhưng cú sốc tâm lý nó gây ra cho tôi thực sự khá lớn.

Chóe sứ thanh hoa này đã vượt qua bao cuộc binh biến thời Minh Thanh, trải qua cả thời Dân Quốc loạn lạc, rồi thì Cách mạng Văn hóa, Phá tứ cựu, ngờ đâu lại bị hủy hoại giữa thời kinh tế thị trường dân giàu nước mạnh, vì một cuộc tranh chấp nhỏ trong bảo tàng địa phương. Sóng to gió lớn đều qua được, vậy mà lại lật thuyền trong mương máng.

Tôi nhớ trong Thiền tông công án có câu chuyện kể rằng, tướng quân nọ rong ruổi sa trường, từng trải trăm trận, tắm máu chém giết, vô số lần đi lướt qua Quỷ môn quan, cuối cùng khải hoàn về triều. Ông ta đang vênh vang về phủ, ngờ đâu nửa đường gặp hai tên du côn ẩu đả, bị một viên gạch bay đến đập trúng thái dương, ngã lăn xuống đất chết. Thiền tông mượn chuyện đó để giảng về kiếp sống vô thường, giờ nghĩ lại mới thấy thực giống số phận chiếc chóe kia.

Cổ vật cũng thế mà giới cổ vật cũng vậy, chẳng phải cũng là một phần thế giới này ư?

Nghĩ theo hướng tích cực thì kẻ được Lão Triều Phụng phái tới cũng phải ra về tay trắng. Đây là việc duy nhất đáng an ủi.

Đang nằm trên giường nghĩ ngại miên man, tôi chợt nghe tiếng điện thoại di động đổ chuông.

Chiếc điện thoại này do ông Dược Lai tặng tôi. Lần trước tới Vệ Huy, Dược Bất Thị yêu cầu tôi cắt đứt mọi liên lạc nên tôi đã bỏ nó ở nhà, sau khi về Bắc Kinh mới lại đem theo người. Đoán là Yên Yên gọi tới hỏi thăm tình hình, tôi vội bắt máy.

Đầu kia vang lên một giọng già nua quen thuộc, khiến tôi như rơi xuống hầm băng.

“Cậu Nguyện dạo này bận quá nhỉ.”

Lão Triều Phụng! Cuối cùng lão cũng không ngồi yên được nữa rồi!

Giọng lão ta vẫn thân thiết thong dong như thể chẳng có chuyện gì xảy ra. Vừa đứng lúc Dược Bất Thị bước vào, tôi bèn đưa mắt ra hiệu cho anh ta im lặng rồi nhẹ nhàng ấn nút bật loa ngoài. Dược Bất Thị phản ứng rất nhanh, lập tức đứng yên, không gây ra tiếng động gì.

“Là ông à, Lão Triều Phụng.” Tôi cố tình nói ra tên lão. Dược Bất Thị thoạt nghe thấy vậy, ánh mắt lập tức lóe lên sắc lạnh sau cặp kính.

Lão Triều Phụng lên tiếng, “Tôi đánh giá thấp cậu rồi. Cứ ngỡ cậu vẫn là oắt con chưa ráo máu đầu trong vụ Thanh minh thượng hà đồ, không ngờ đã trưởng thành đến mức này rồi. Đám người dưới chỉ sơ sẩy tí ti đã bị cậu lân đằng đầu chọc thủng cả mạng lưới, giờ tôi cũng bị động lắm.”

Nghe kẻ địch nói ra những lời này còn khoan khoái hơn được khen ngợi cả trăm lần, tôi tủm tỉm cười, “Nhờ có ông thường ngày rèn giũa, tôi mới có ngày nay.”

“Thôi không nhắc chuyện cũ nữa. Chúng ta phải hướng tới tương lai chứ đúng không?” Lão Triều Phụng vẫn thản nhiên như không.

Song tôi không trả lời câu hỏi của lão ta, “Đừng vòng vo nữa, ông gọi tới có chuyện gì?”

Lão Triều Phụng cười khà, “Tôi muốn hợp tác với cậu.”

“Thôi đi, chúng ta là kẻ địch, ông không chết thì tôi chết.” Tôi thẳng thừng từ chối.

“Vậy được, để tôi đổi cách nói khác, chúng ta giao dịch được không?”

“Tôi không thích giao dịch với ông.” Tôi một mực cự tuyệt. Dược Bất Thị từng nói, không được lấy những thứ dâng tận cửa. Lão Triều Phụng đòi giao dịch với tôi, nhất định là còn ủ mưu gì đó, không thể để kẻ địch toại nguyện được. Như đã đoán trước thái độ của tôi, lão ta hờ hững nói, “Cậu cứ nghe cho hết đã, bằng không cô Kido không vui đâu.”

“Ông nói gì cơ?” Tôi kinh ngạc, suýt đánh rơi điện thoại.

Trong ống nghe chợt vang lên tiếng nức nở của Kido Kana, cô có vẻ đang rất kinh sợ. Giọng Lão Triều Phụng lại chen vào, “Chúng ta bàn tiếp được chưa?” Tôi giận dữ quát, “Đồ hèn! Ân oán giữa chúng ta, đừng lôi người vô tội vào chứ!”

Lão Triều Phụng không đáp, vẻ như đang thong thả đợi tôi trả lời. Chuyện liên quan đến tính mạng Kido Kana, tôi chẳng còn lựa chọn nào khác, đành nghiến răng đáp, “Được rồi, bàn! Ông nói đi!”

“Vụ giao dịch này liên quan đến bộ chóe thanh hoa vẽ tích cổ.”

Tôi giật mình, Uất Trì Cung xông pha cứu chúa vừa rơi vỡ, lão ta đã gọi điện tới, nhất định hai chuyện này có liên quan.

“Thiết nghĩ giờ cậu cũng biết rồi. Năm xưa trên đường về nước, Hứa Tín đã đánh đắm thuyền Fukukou, sau đó giấu mốc định vị khiên tinh vào trong bộ chóe thanh hoa vẽ tích cổ. Nay Uất Trì Cung xông pha cứu chúa đã vỡ, thực là đáng tiếc. Trong tay mỗi người chúng ta đều có vài manh mối, chi bằng trao đổi với nhau có phải hơn không.”

Đề nghị này của lão nghe cũng bùi tai.

Tôi nhẩm tính, trước mắt trong tay tôi có ba mốc định vị của chóe Đóng quân trại Tế Liễu, Quỷ Cốc Tử xuống núiBa lần ghé lều tranh. Trong tay Lão Triều Phụng chẳng biết được mấy cái. Nhưng lão đã đề nghị trao đổi, chứng tỏ tôi có ít nhất một mốc định vị mà lão không có.

Có điều tôi không vội lên tiếng, mà đợi lão nói tiếp.

Lão Triều Phụng tiếp tục, “Xưa nay với cậu, tôi vẫn có sao nói vậy. Giờ trong tay tôi ngoài ‘Trại Tế Liễu’ và ‘Quỷ Cốc Tử’ ra, còn có ‘Tây sương ký’ của nhà họ Trịnh, việc này phải cảm ơn giáo sư Trịnh.”

“Giáo sư Trịnh…”

“Chính xác, cậu cũng biết chuyện Dược Lai năm xưa đến Trường Xuân rồi đấy. Thực ra ‘Tây sương ký’ không mất tích mà được Trịnh An Quốc giấu đi, chỉ mình cha con ông ta biết chỗ. May nhờ giáo sư Trịnh trí nhớ tốt, bấy nhiêu năm nay vẫn không quên, đã dâng nó cho tôi.”

Nghe vậy tôi mới vỡ lẽ. Hóa ra giáo sư Trịnh từ nhỏ đã biết tung tích chóe “Tây sương ký thắp nhang vái trăng” song không hé răng với ai, ngay Dược Lai cũng chẳng biết. Mãi tới khi đầu quân cho Lão Triều Phụng, ông ta mới tiết lộ. Người nhà họ Trịnh rốt cuộc còn điên rồ đến thế nào nữa đây?! Cha ông ta đem đổi cả lương thực cứu mạng lấy một món đồ sứ, ông ta bấy giờ mới mười tuổi, thấy cha mẹ chết ngay bên cạnh, bản thân cũng chỉ còn thoi thóp, vậy mà vẫn giữ kín bí mật. Dù được Dược Lai cứu mạng đưa về Bắc Kinh, ông ta cũng không hé nửa lời suốt mấy chục năm.

Sự điên rồ cố chấp ăn sâu vào máu người nhà họ Trịnh thực khiến người ta kinh hãi.

Nhưng câu chuyện này có một dấu hỏi lớn.

“Không có bác Doãn thi triển Phi Kiều Đăng Tiên, ông làm sao róc chóe ra được?” Tôi hỏi.

Lão Triều Phụng cười khà, “Cái chóe đó trước giờ vẫn chưa được sửa lại.”

“Gì cơ?”

“Bộ năm chóe sứ thanh hoa vẽ tích cổ đã được mở ra vào năm Dân Quốc thứ hai mươi, sau đó mới sửa lại được bốn chiếc. Riêng chiếc ‘Tây sương ký’ chưa kịp sửa.”

Tôi biết lão không nói dối. Dược Thận Hành đã róc ra được, dĩ nhiên cũng vá lại được. Có điều sửa lại mất rất nhiều thời gian, ông ta mới chỉ kịp sửa bốn chiếc thì mất tích, chuyện này cũng không lạ. Tôi tin chắc Lão Triều Phụng còn biết nhiều về vụ việc ở nhà hàng Khánh Phong hơn mình. Có điều nếu gặng hỏi lúc này, ắt lão sẽ không trả lời. Tôi đành nén tò mò, nghe lão nói tiếp.

“Tóm lại mốc định vị trong chóe ‘Tây sương ký’ đang nằm trong tay tôi, trên đời chỉ có một.”

Tôi ăn miếng trả miếng, “Mốc định vị trong chóe Ba lần ghé lều tranh đang nằm trong tay tôi, trên đời cũng chỉ có một.” Lão Triều Phụng cả cười, “Thế nên chi bằng chúng ta trao đổi cho nhau đi.”

Rốt cuộc tôi cũng biết lý do lão gọi điện tới. Trong tay mỗi người chúng tôi đều nắm ba mốc định vị, trong đó có một mốc mà người kia không có, tôi thiếu mốc trong Thắp nhang vái trăng, lão thiếu mốc trong Ba lần ghé lều tranh. Nếu một trong hai bên giành được Uất Trì Cung xông pha cứu chúa thì sẽ chiếm thế thượng phong. Tiếc rằng chiếc chóe ấy đã gặp họa, đôi bên đều công cốc. Giờ mốc định vị trong tay hai chúng tôi đều thiếu, nếu không trao đổi với nhau thì đừng hòng tìm được thuyền Fukukou.

Việc đời đâu chỉ vô thường, mà còn hết sức oái oăm!

Thảo nào Lão Triều Phụng tức tốc gọi tới đòi giao dịch với kẻ địch là tôi, bởi lão đâu còn lựa chọn nào khác.

Lão không có, nhưng tôi có.

Tôi cười nhạt, “Tôi chẳng vội tìm mốc định vị, cũng chẳng vội trục vớt thuyền Fukukou làm gì, chỉ cần ngăn ông vớt được là đủ.”

Lão Triều Phụng dường như cũng đã lường trước câu trả lời này, “Ha ha, cậu quá xem thường kỹ thuật thăm dò đáy biển hiện nay rồi đấy. Nói thực với cậu nhé, dựa vào trình độ kỹ thuật của Nhật Bản hiện giờ, chỉ cần xác định được hải phận, chắc chắn sẽ tìm thấy vị trí thuyền đắm, vấn đề là thời gian thôi. Giờ hai chúng ta trao đổi, tôi vừa đỡ mất thời gian, cậu lại có thể tranh thủ bước lên cùng vạch xuất phát với tôi. Mỗi chúng ta nắm bốn mốc định vị, cạnh tranh công bằng, mạnh ai nấy vớt. Còn dùng dằng nữa, sẽ chỉ càng bất lợi cho cậu hơn.”

Tôi lặng thinh. Lão ta đúng là cáo già, câu nào cũng nhắm trúng điểm then chốt, ép tôi theo con đường lão vạch ra.

“Tôi làm sao biết được mốc định vị ông đưa là thật hay giả?” Tôi vặn lại.

“Năm mốc định vị có liên quan chặt chẽ đến nhau. Nếu một trong số đó là giả, nhất định không khớp được với những cái còn lại. Bên cạnh cậu ắt có cao nhân thông hiểu thuật khiên tinh. Lúc trao đổi, cậu nhờ mấy chuyên gia ấy kiểm chứng là được mà.”

Tôi đã gần như bị lão thuyết phục, chợt thấy đối diện có động tĩnh, ngẩng lên thấy Dược Bất Thị đang giơ một tờ giấy trắng viết ngoáy năm chữ Ba lần ghé lều tranh, bên cạnh đánh một dấu hỏi to tướng.

Tôi nghĩ ngợi giây lát mới hiểu ý anh ta, bèn hỏi Lão Triều Phụng, “Nếu ông đã cần chóe Ba lần ghé lều tranh, sao trước kia ở Hàng Châu lại muốn hủy nó?”

Thực ra tôi cũng ngầm thắc mắc chuyện này. Lão Triều Phụng ra sức thu thập các mốc định vị, với lão chóe sứ thanh hoa nào cũng quan trọng cả. Vậy mà lúc ở Hàng Châu, lão trăm phương nghìn kế, hết sai cậu Tăng âm thầm giở trò khi bày biện lại phái giáo sư Trịnh đi mua chuộc đứa bé con, tưởng như không đập vỡ chóe không ngừng tay.

Lão Triều Phụng cười ha hả, “Tôi hỏi cậu nhé, một chiếc chóe to như thế rơi xuống đất vỡ thành mấy trăm mảnh, riêng phần có túi men lại tách riêng thành một mảnh to mà không vỡ vụn, cậu không thấy quá trùng hợp à?”

Tôi ngây ra.

Đúng thế, chóe sứ rơi vỡ đâu lại có chuyện riêng túi men vỡ thành một mảnh, không thừa không thiếu cơ chứ. Trước kia tôi cứ ngỡ đó chỉ là trùng hợp, không hề để tâm suy nghĩ sâu xa.

“Cậu am hiểu đồ kim thạch, nhưng kiến thức về gốm sứ còn ít lắm.” Lão Triều Phụng nói đầy ẩn ý, “Chắc cậu không để ý tới đường vân rạn trên mấy chóe sứ ấy đâu nhỉ?”

Lão Triều Phụng nói không sai, tôi quả thực chỉ quan tâm tới họa tiết của chúng, chăm chăm tìm kiếm túi men, không hề để ý quan sát lớp men rạn.

Men rạn là vết rạn trên mặt men khi nung gốm sứ, ban đầu là do thiếu sót kỹ thuật, song về sau lại trở thành một nét hấp dẫn riêng của đồ gốm sứ, còn chia ra thành rạn mạng nhện, rạn hoa mai, rạn rắn, rạn chân cua v.v… Người đời sau nung gốm có lúc còn cố tình tạo men rạn. Tôi luôn cho rằng nó chỉ có giá trị giám định và thẩm mỹ nên không chú ý nhiều, cũng chưa bao giờ nghiên cứu kỹ.

Nghe Lão Triều Phụng nhắc nhở, tôi vội lôi bức ảnh cũ của Kido Kana ra săm soi. Chóe Ba lần ghé lều tranh thuộc loại men rạn trứng cá, nhưng quanh cánh tay Gia Cát Lượng có một đường rạn rất nhỏ, tạo thành một khoanh quanh tay áo, trùng khớp với hình dạng mảnh vỡ mà Dược Bất Thị nhặt được.

Tôi sực nhớ ra trong Huyền từ thành giám từng nhắc tới hiện tượng này, tiếc rằng tôi chỉ đọc lướt qua. Trong sách viết rằng, vết rạn tự nhiên sẽ nổi lên mặt men, không ăn vào cốt phôi, chỉ thấy lờ mờ. Còn nếu là vết rạn nhân tạo sẽ ăn sâu vào phôi, đường nét rõ ràng.

Khoanh rạn trên chóe Ba lần ghé lều tranh trông rất rõ ràng, hẳn là có kẻ cố ý tạo ra.

Cách làm men rạn ăn vào phôi này có thể điều chỉnh hướng rạn và hình dạng vết rạn, bên ngoài còn có thể phủ thêm một lớp keo men. Khi vỡ, đồ gốm sứ sẽ giống như thủy tinh cường lực, vụn rời theo đường rạn, giữ được hình dạng đặc thù của mảnh vỡ. Huyền từ thành giám gọi thủ pháp này là “vân vỡ”, người thợ trình độ cao muốn bảo toàn mảnh sứ nào, có thể dùng phương pháp này khiến mảnh sứ ấy có rơi cũng không vỡ.

Nhớ lại lúc trong nhà thờ Thiệu Hưng, bác Doãn từng quan sát mép mảnh vỡ rồi nhận xét, “Không giống như vỡ mà giống bị người ta cắt ra.” Đáng lẽ tôi đã phải để ý từ lúc ấy!

Lão Triều Phụng tiếc nuối nói, “Vốn dĩ tôi định ngụy tạo thành sự cố bất ngờ, xô đổ nó rồi nhân lúc không ai để ý, nhặt lấy mảnh sứ. Không ngờ mất bao công chuẩn bị, lại thành cốc mò cò xơi, để cậu hưởng lợi.”

“Ý trời thôi mà.” Tôi lạnh lùng đáp.

“Được rồi, sau ba hôm nữa, hẹn gặp cậu tại Bắc Kinh, vẫn địa điểm cũ, mười giờ tối.”

Nói rồi chẳng đợi tôi đồng ý hay từ chối, lão ta đã ngắt máy.

Tôi đặt di động xuống, nhìn sang Dược Bất Thị. Anh ta đã nghe toàn bộ cuộc điện thoại, song không vội phát biểu ý kiến mà chỉ nhịp nhàng gõ ngón tay xuống mặt tủ, như đang ngẫm nghĩ về bước ngoặt đột ngột này.

“Tôi nói trước nhé, bất luận thế nào tôi cũng phải cứu Kido Kana.” Tôi tỏ rõ thái độ. Bằng không với thói máu lạnh của Dược Bất Thị, chưa chừng anh ta sẽ hy sinh cô.

Dược Bất Thị nửa cười nửa không, “Tôi nhớ cậu từng hứa hôn với cô ta đúng không?” Tôi vội phân trần, “Không liên quan tới chuyện này. Kido Kana có ơn với nhà họ Hứa chúng tôi, lần này lại lặn lội tới Trung Quốc báo cho tôi mấy tin tức quan trọng, về tình về lý, tôi không thể khoanh tay ngồi nhìn được.”

Dược Bất Thị không muốn tranh luận về chủ đề này, bèn nói tiếp, “Tôi cảm giác vụ giao dịch này có vẻ công bằng. Mỗi bên nắm được bốn mốc định vị, mạnh ai người nấy trục vớt.”

“Nhưng nếu Lão Triều Phụng nói dối thì sao?” Dược Bất Thị lắc đầu, “Chắc lão ta không nói dối đâu.”

“Làm sao anh biết?”

“Suy đoán theo logic đơn giản thôi. Nếu bài trong tay lão cực đẹp hoặc cực xấu thì đã chẳng đề nghị trao đổi với chúng ta. Nguyên lý của Lý thuyết Trò chơi là khiến mỗi người giành được cân bằng Nash trong khi vừa làm suy yếu đối thủ vừa củng cố sức mạnh của mình. Nếu cậu đang có bốn mốc định vị, liệu có thèm trao đổi với người chỉ có ba mốc không?”

Tôi lắc đầu, tất nhiên không rồi, chuyện này chẳng cần nói cũng biết. Đới Hải Yến từng nói, điều kiện tiên quyết để ra biển trục vớt là phải nắm được ít nhất bốn mốc định vị. Nếu tôi đã đạt được điều kiện này thì cần gì phải chìa tay ra giúp kẻ địch nữa?

Dược Bất Thị tiếp bục nói, “Sau khi chóe Uất Trì Cung xông pha cứu chúa bị vỡ, lão ta chủ động gọi điện đề nghị giao dịch, chứng tỏ lão còn áp lực hơn chúng ta. Thử nghĩ mà xem, Trại Tế Liễu và Quỷ Cốc Tử tổn thất nặng nề, cảnh sát lại lần theo chuỗi xích liên tục tấn công, nội bộ Minh Nhãn Mai Hoa cũng bắt đầu thanh lọc chỉnh đốn. Lão cần gấp rút giành được một trận thắng để cứu vãn tổn thất, vực dậy sĩ khí trong tổ chức. Chưa chừng phía Nhật Bản cũng đang gây áp lực với lão, dù sao chi phí cho một đội khảo sát tìm kiếm thuyền đắm cũng rất đắt đỏ, không thể đợi mãi được.”

“Ý anh là nên chấp thuận đề nghị này ư?”

Dược Bất Thị giơ một ngón tay, ánh mắt trầm tĩnh, “Còn nhớ lần đầu gặp mặt tôi nói gì với cậu không? Đừng bao giờ tin vào những manh mối tự dâng đến cửa.”


Tôi lại đến căn nhà cũ bên bờ sông Thông Huệ. Khung cảnh chẳng có gì thay đổi, trước cửa vẫn là hai đôn đá hổ phục, hoa văn hoa cuốn phía trên khung cửa vẫn rõ mồn một. Có điều đã mười giờ tối nên cây hòe chỉ còn nửa gốc trong sân trông rùng rạn hơn hẳn ban ngày, chẳng khác nào yêu tinh đang nhe nanh múa vuốt.

Tôi một mình bước vào, thấy bên trong đã có người đợi sẵn. Một bóng dáng quen thuộc đứng dưới gốc cây, tóc và lông mày cạo nhẵn thín, nhưng gương mặt trắng bệch ấy muốn nhận lầm cũng khó. Tôi bất giác thở dài, “Giờ mày vẫn dám thò đầu ra à?”

Liễu Thành Thao trừng mắt hằn học nhìn tôi, ánh mắt y sắc lẹm như dao xoáy vào ngực tôi, tựa hồ muốn vằm nát tim gan tôi ra. Y gằn giọng đe dọa, “Tao nhất định sẽ chính tay nung mày thành sứ, tao cam đoan đấy!”

Tên này đã bị tôi làm mất hết mọi thứ, phải cạo sạch cả tóc lẫn lông mày để trốn truy nã. Phong thái tao nhã trước kia giờ mất sạch, ngay cách ăn nói cũng thay đổi hẳn.

E rằng hiện y là kẻ căm hận tôi nhất trên cái đất Trung Quốc này.

Tôi chẳng buồn đấu khẩu với y mà hỏi độp luôn vào đề, “Tao đến như đã hẹn rồi đấy, Lão Triều Phụng đâu?” Liễu Thành Thao rút con dao sáng loáng từ thắt lưng ra, thè lưỡi, “Mình tao đủ xử mày rồi.” Đoạn cười hung tợn bước lại gần tôi.

Đột nhiên một giọng nói già nua từ chái nhà phía sau cất lên, “Thành Thao, đừng làm bậy.”

Liễu Thành Thao dừng lại, khóe miệng giần giật, cố nén cơn giận. Tôi nhìn sang phía đó, từ trong bóng tối, một ông già và một cô gái từ từ đi đến.

Kido Kana kinh hoàng ra mặt, đầu tóc rũ rượi, hai tay bị trói giật cánh khuỷu ra sau. Đứng phía sau cô, không ngờ lại là giáo sư Trịnh.

Tôi hơi hụt hẫng, nhưng cũng không quá thất vọng. Lúc này mong Lão Triều Phụng chường mặt ra thực quá viển vông. Thấy lão cử Liễu Thành Thao và giáo sư Trịnh thay mặt mình tới, tôi thở phào nhẹ nhõm. May mà không phải Dược Bất Nhiên, bằng không tôi thực chẳng biết nên làm sao.

Giáo sư Trịnh chăm chú nhìn tôi, “Chào cậu Nguyện, lúc ở Yên Đài tôi có thấy cậu, nhưng không kịp chào hỏi.”

Tôi sực vỡ lẽ. Hóa ra người Lão Triều Phụng phái tới Yên Đài là giáo sư Trịnh! Chẳng trách lão giám đốc bảo tàng mau mắn đồng ý giao dịch, thảo nào Lương Ký lại tuyệt vọng phản kháng như vậy. Giáo sư Trịnh cũng coi như có tăm tiếng trong giới khảo cổ, ông ta ra mặt, hiển nhiên hiệu quả hơn hẳn người khác. Lương Ký chưa chừng còn là học trò của ông ta, thấy ông thầy đáng kính ngấm ngầm làm mấy trò nhơ bẩn như vậy, bảo sao chẳng suy sụp tinh thần.

Thấy tôi cười nhạt, giáo sư Trịnh không khỏi hổ thẹn. Ông ta né tránh ánh mắt tôi, lầm bầm phân bua gì mà bảo tàng kia quản lý chẳng ra sao, đồ tốt bày ở đó phí cả đi. Từ lúc ở miếu Đường vương, tôi đã được chứng kiến tài kiếm cớ bao biện cho mình của ông ta rồi.

“Giáo sư Trịnh, Lão Triều Phụng là bố ông đấy à, mà ông dâng chóe ‘Tây sương ký’ cho lão ta?” Tôi châm chọc.

Ngờ đâu giáo sư Trịnh chẳng chút xấu hổ, ưỡn ngực đáp, “Nếu cha tôi còn sống, ông ấy cũng sẽ làm vậy thôi. Hy sinh một chiếc chóe thanh hoa men cô ban thời Vạn Lịch, đổi được tận mười món sứ Sài! Sứ Sài cơ đấy! Sứ Sài mà bao người chơi gốm ngày đêm mơ tưởng! Bảo tôi đổi cả mạng, tôi cũng chẳng tiếc.”

Liễu Thành Thao bực dọc ngắt lời, “Được rồi được rồi, bài học về gốm sứ đến đây là hết. Mau trao đổi đi.”

Tôi phẩy tay, “Giờ tôi đến rồi đây, các người giữ cô ấy làm con tin cũng vô nghĩa. Thả cô ấy ra trước, giao dịch mới bắt đầu được.”

Giáo sư Trịnh chẳng buồn dài dòng, cởi trói ngay cho Kido Kana. Người cô đổ nhào về phía trước, loạng choạng suýt ngã. Thấy vậy tôi nhanh nhẹn bước tới đỡ lấy cô. Ngẩng lên trông thấy tôi, cô gục đầu vào ngực tôi khóc òa. Từ nhỏ cô sống trong nhung lụa, đã bao giờ nếm mùi khổ sở thế này đâu. Tôi áy náy vỗ về, “Xin lỗi Kido, làm liên lụy đến em rồi, không sao, không sao nữa đâu…” Kido Kana khóc nức nở hồi lâu mới nín.

“Chúng có ngược đãi em không? Em bị thương ở đâu không?” Tôi lo lắng hỏi. Kido Kana lắc đầu, ý bảo không sao hết. Tôi hạ giọng, “Em mau rời khỏi đây đi, bên ngoài sẽ có người đón.” Cô biết giờ không phải lúc trò chuyện, chỉ lo âu nhìn tôi, tôi bèn tỏ vẻ không vấn đề gì.

Bấy giờ Kido Kana mới rảo bước rời đi thật nhanh, biến mất trong màn đêm.

Xác định cô đã thoát hiểm, tôi lên tiếng hỏi, “Các người muốn giao dịch thế nào?”

Đôi bên chẳng ai tin ai, ắt phải giao dịch theo cách nào đó mà cả hai bên đều yên tâm mới được. Liễu Thành Thao nhìn tôi vẻ thâm độc, nếu không có giáo sư Trịnh chủ trì, có lẽ y đã giết phăng tôi soát người rồi.

Giáo sư Trịnh đáp, “Trương Tùng dâng tranh.”

Trương Tùng dâng tranh là một phương thức giao dịch cổ vật từ xa xưa, thường dùng để trao đổi tin tức trong trường hợp thực lực đôi bên chênh lệch. Không như cổ vật hay tiền bạc, giá trị gắn liền với bản thân vật phẩm, giá trị của tin tức chỉ cần để kẻ khác nhìn qua là mất ngay. Ví như tôi có một bản đồ kho báu, anh đem trăm lạng bạc tới mua, nếu tôi đưa bản đồ cho anh trước, anh xem qua là nhớ ngay rồi sẽ lật lọng không trao đổi nữa. Anh có ưu thế hơn tôi, tôi muốn đòi lại tiền cũng không được, coi như lỗ vốn.

Phương thức Trương Tùng dâng tranh được đặt ra để giải quyết tình huống này, để kẻ kém ưu thế hơn chọn trước cho an tâm. Người chiếm ưu thế hơn cũng chẳng thiệt, bởi đã sẵn ưu thế, không sợ bị lật lọng. Nói trắng ra đây là cách trao đổi ưu tiên bên yếu thế, để đôi bên đều thiệt hại như nhau nếu lật kèo.

Cụ thể trong lần giao dịch này, chúng sẽ cho tôi mốc định vị trong Thắp nhang vái trăng trước, sau khi tôi kiểm tra thấy không có sai sót, sẽ cho chúng mốc định vị trong Ba lần ghé lều tranh. Theo quy trình này, dù chúng có cho tôi mốc định vị giả, tôi cũng không sợ, bởi vẫn chưa cho chúng mốc định vị mình có. Chúng cũng chẳng lo tôi đưa ra mốc định vị giả, bởi đây là địa bàn của chúng, phát hiện tôi đưa cái giả thì chỉ cần bắt ép tôi giao cái thật ra là xong.

Tôi hài lòng gật đầu, giáo sư Trịnh sắp xếp thế này, xem như cũng có thành ý. Cách giao dịch này thoạt nhìn đơn giản, nhưng để nghĩ được cũng mất công ra phết.

Giáo sư Trịnh lấy trong túi áo ra mảnh giấy đưa cho tôi. Tôi mở xem, thấy bên trên viết một câu: “Phía Tây xem sao Sư Tử một lóng rưỡi.” Tuy không hiểu gì, nhưng lối viết này giống hệt ba mốc định vị mà tôi có.

Tôi đưa mắt nhìn ông ta rồi lùi lại mấy bước, cầm điện thoại di động lên bấm số. Liễu Thành Thao lẳng lặng bước tới đứng sau lưng tôi, chỉ cần tôi dợm chân bỏ chạy, y sẽ ra tay lập tức.

Đới Hải Yến ở đầu kia đã đợi sẵn bên máy tính ngành hàng hải của đại học Phục Đán, để kiểm tra tính chuẩn xác thật nhanh. Nghe tôi đọc xong, cô bắt đầu gõ phím lách cách. Cả quá trình tính toán chưa đầy năm phút, chẳng bao lâu sau cô đã báo với tôi, mốc định vị này hơn 80% là thật.

Tôi cứ ngỡ cô chỉ nói phải hay không, chẳng ngờ còn tính ra được cả tỷ lệ phần trăm.

Đới Hải Yến nói, “Tôi chỉ xác định được mốc định vị này không mâu thuẫn với ba mốc định vị đã biết thôi, còn rốt cuộc có phải thật hay không thì chịu.”

“Vậy cô tra thử xem vị trí ấy có nằm gần tuyến đường biển giữa hai nước Trung Nhật thời Minh không?”

Đường biển giữa hai nước Trung Nhật dưới thời Minh kéo dài từ Nagasaki tới Macao và Phúc Kiến, Đới Hải Yến đầu kia loay hoay một hồi rồi đáp không sai, đúng là nằm trên tuyến đường này. Tôi bèn nói được rồi, thế là đủ. Đoạn gật đầu với giáo sư Trịnh, tỏ ý công nhận.

“Giờ tới lượt cậu đấy.”

Tôi rút sổ và bút ra, xé một trang, thoăn thoắt viết. Giáo sư Trịnh nhận lấy rồi cũng cầm điện thoại di động, vừa hạ giọng nói chuyện vừa đi đến góc khác. Liễu Thành Thao nhìn chòng chọc vào tôi như hổ rình mồi, không ngừng liếm môi, trông giống một con chó ngao Tây Tạng mắt xanh lè, bất cứ lúc nào cũng có thể giật đứt dây xồ tới.

“Sao mày lại đi theo Lão Triều Phụng?” Tôi chợt hỏi. Liễu Thành Thao sững ra, không ngờ tôi còn dám bắt chuyện với mình. Tôi cười, “Đằng nào giáo sư Trịnh cũng phải kiểm chứng mất một lúc nữa, mày lại không thể ra tay với tao, tội gì không nói chuyện phiếm cho đỡ buồn?”

Liễu Thành Thao cười nhạt, quay đầu đi. Tôi liền chủ động đi đến, cười khì, “Sau khi Mô Vấn Trai vào công tư hợp doanh, cả nhà mày xuống miền Nam, không dính líu tới giới cổ vật nữa. Đời cha chú mày đã cắt đứt với giới này, sao mày lại dính vào?”

“Liên quan đếch gì đến mày?!” Y siết chặt chuôi dao.

“Hỏi chơi thôi mà. Tao nghe nói hồi nhỏ mày không thích ra ngoài chơi, chỉ ru rú trong nhà, nhờ thế mà rèn được ngón nghề giám định cổ vật hả? Chậc, điều kiện của mày tốt như thế, sao không chọn việc đàng hoàng mà làm?”

Liễu Thành Thao điên tiết, cầm dao đâm tới, “Mày có bị bạch tạng đâu, làm sao hiểu được nỗi khổ của tao hả?” Y đang cáu giận nên đâm không chuẩn, tôi nhẹ nhàng lách mình tránh được, lại nói tiếp, “Đừng đổ lỗi cho hoàn cảnh, tự mày chọn đấy chứ, có ai ép mày đâu.”

“Tao làm gì được lựa chọn!” Liễu Thành Thao lại hung hăng đâm tới lần nữa. Tôi biết mình đã chọc trúng chỗ yếu của y. Có thể tưởng tượng, một tên nhóc bị bạch tạng phải gánh chịu bao nhiêu áp lực nặng nề từ gia đình, nhà trường đến xã hội. Y trở nên tàn nhẫn, cực đoan như hiện giờ, hẳn nguyên nhân cũng từ đó mà ra. Liễu Thành Thao một lòng trung thành với Lão Triều Phụng, có lẽ là bởi Lão Triều Phụng đã cho y thứ mà xã hội bình thường không thể cho được!

“Mày cảm thấy chỉ ở trong hàng ngũ của Lão Triều Phụng, mới tìm được giá trị bản thân chứ gì? Nung người thành sứ mày mới thấy thỏa mãn hả?” Tôi vẫn thao thao nói. Liễu Thành Thao càng nghe càng giận, con dao trong tay cũng càng lúc càng đâm ra nhanh. May mà y đang giận đến run rẩy cả tay chân, nên tôi cứ lùi dần lùi dần, cũng tạm tránh được lưỡi dao. Có điều khoảnh sân này rất nhỏ, hai chúng tôi đành đuổi nhau quanh gốc hòe.

“Mày biết không? Cây hòe này bị sét đánh trúng, dễ thu hút oán khí lắm. Những người bị mày giết giờ đều đang vắt vẻo trên cây nhìn xuống mày đấy.” Tôi la lên.

Liễu Thành Thao vốn không tin, nhưng vẫn ngẩng lên nhìn theo phản xạ. Kẻ có tật thường giật mình vô cớ. Tôi thừa cơ chạy tuốt ra xa, miệng oang oang đếm, “Mày nhìn kìa, đây là bạn gái mày, kia là trợ lý của mày, người beo béo treo lủng lẳng đầu cành kia là đồng bọn từng hợp tác với mày à? Có thấy mắt đảo không hả? Họ đều muốn kéo mày vào lò nung với họ đấy…”

Chẳng biết là do không hề tin hay muốn át đi nỗi sợ trong lòng, Liễu Thành Thao gầm lên, ném dao vào tôi. Tôi nghiêng đầu, lưỡi dao cắm phập vào thân hòe.

“Thành Thao, dừng lại!”

Giáo sư Trịnh đã trở lại, thấy Liễu Thành Thao đang vung dao đâm tới, vội quát y dừng tay. Song Liễu Thành Thao bỏ ngoài tai, vẫn lao vào tôi. Giáo sư Trịnh phải giữ chặt tay y mới ngăn được tên biến thái sắp phát điên ấy lại. Tôi dựa vào gốc hòe thở hồng hộc, nếu giáo sư Trịnh quay lại chậm chút nữa, chưa chừng tôi sẽ bị treo lên cây thật.

Liễu Thành Thao cố tình quay lưng lại phía cây hòe, khom lưng xuống, hình như đang run rẩy. Giáo sư Trịnh nhíu mày, không biết tôi đã làm gì y. Song ông ta cũng chẳng gặng hỏi, mà nói ngay vào việc chính, “Kiểm tra rồi, mốc định vị cậu giao không vấn đề gì.”

“Tốt lắm, vậy là chúng ta cùng một xuất phát điểm rồi.” Tôi thản nhiên đáp, “Chúc hai người ngủ ngon nhé, ít lâu nữa chúng ta lại gặp nhau thôi.” Dứt lời tôi hơi khom người rồi đi thẳng.

Giáo sư Trịnh không cản tôi, cuộc trao đổi đã xong, giờ dẫu chúng lật kèo giết chết tôi, cũng chẳng ý nghĩa gì nữa.

Liễu Thành Thao thở hổn hển, căm uất nhìn tôi, nhưng không lao tới nữa.