Bước vào tiệm, chúng tôi thấy anh Hồ đang lúi húi sửa xe. Hắn bò từ gầm máy kéo ra, cởi trần, bắp tay loang lổ vết dầu mỡ, cổ đeo dây chuyền vàng chóe, chỏi nhau kịch liệt với làn da màu đồng hun. Lúc trước hắn còn đeo ngọc, bị tôi giám định là hàng kém chất lượng mới đổi sang đeo vàng.
“Đã làm hỏng chuyện của anh mày, còn đòi đem người đi, giờ lại kéo đến đòi đồ, hơi bị khinh người đấy.”
Anh Hồ ngồi chễm chệ trên bánh xe cẩu to tướng, tay quay chiếc cờ lê, lạnh lùng nói. Kido Kana đặt hai tay lên đầu gối, cúi gập người, “Xin lỗi vì làm phiền anh. Để tôi đền bù vào quỹ văn hóa sau này được không?”
Anh Hồ lắc đầu, giơ ba ngón tay ra, “Thằng lỏi này trước là làm bẽ mặt anh đây, cô em lôi ông cậu anh ra, thôi được, chuyện này anh bỏ qua.” Hắn gập một ngón tay lại rồi tiếp, “Nó làm anh mất toi mấy vạn tệ, cô em đền vào quỹ văn hóa, thôi cũng được.” Hắn lại gập một ngón nữa, rồi lắc lắc ngón còn lại, “Thể diện và tiền bạc bù bằng ông cậu anh với quỹ văn hóa, còn cái tước chạm rồng, là nó đem đặt cho anh. Chuyện nào ra chuyện nấy, không thể tính chung với hai việc trên được.”
Ý hắn là muốn vớt vát kiếm chác thêm một món nữa mới chịu nhả cái tước ra. Kido Kana lộ vẻ bối rối, tôi thấy không thể để cô ta đứng ra thay mình mãi, đành lên tiếng, “Anh ra giá đi.”
“Được! Thẳng thắn đấy!”
Anh Hồ đứng dậy đi đến trước mặt tôi, tay phải vê vê cằm, hẳn đang nghĩ xem nên yêu sách gì. Hắn vừa ghé đến gần, tôi đột nhiên trợn to mắt, hơi dướn người về phía trước. Tưởng tôi định lao vào đánh nhau, anh Hồ vung cờ lê toan đập. Tôi vội hét lên, “Khoan đã!” Đoạn trỏ sợi dây chuyền vàng trên cổ hắn, thất thanh hỏi, “Anh tìm đâu được cái này thế?”
Anh Hồ vô thức giơ tay lên nắm lấy dây chuyền quát, “Việc đéo gì đến mày!”
Tôi hối hả móc túi lấy hết tiền Dược Bất Nhiên đưa quăng cho hắn, “Của anh hết đấy, mau nói cho tôi biết anh tìm được nó ở đâu!”
Anh Hồ không ngờ tôi tự dưng hứng thú với sợi dây chuyền của hắn, liền lùi lại trừng mắt nghi hoặc nhìn tôi, “Bà nội tao thỉnh từ chùa Thắng Nghiêm đấy, mày muốn sao hả?”
Kido Kana cũng ngỡ ngàng không hiểu, thì thào hỏi tôi, “Anh phát hiện được gì rồi à?”
Tôi kích động giơ tay chỉ, Kido Kana đưa mắt nhìn sang sợi dây chuyền, tức thì cũng trọn tròn mắt ồ lên. Sợi dây chuyền của anh Hồ bằng vàng ròng, xâu mặt Phật vàng ở tư thế ngồi, chạm khắc khá thô, nhưng phong cách đỉnh nghiêm lại giống hệt đầu Phật ngọc trong minh đường Võ Tắc Thiên, hai hàng rèm vén từ giữa trán trông vô cùng nổi bật.
Từ bức ảnh đầu Phật ngọc Kido Kana cung cấp, tôi đoán đầu Phật bị trộm có ba đặc điểm chính: một là dung mạo tương tự Đại Phật Lô Xá Na ở động Long Môn, hai là tạo hình thiên về phong cách Mã Thổ Tịch, ba là tạo tác đầu Phật gần giống với tượng Phật thời kỳ đầu mới truyền vào Tây Tạng, nhiều đường cong; phục sức tầng tầng lớp lớp, lại còn vén rèm trên trán Phật.
Rất khó giải thích tại sao Võ Tắc Thiên chọn phong cách đỉnh nghiêm gần như vô căn cứ ấy. Không giải quyết được vấn đề này thì rất khó xác định đầu Phật là thật hay giả, nhưng thực không ngờ lại bắt gặp một mặt dây tượng Phật có phong cách đỉnh nghiêm tương tự trên cổ một tay anh chị ở Kỳ Sơn giữa thời buổi này, nên tôi và Kido Kana mới ngẩn ra như thế.
Có lẽ anh Hồ cũng không muốn làm căng với Kido Kana, bèn nhặt mớ tiền tôi quăng lên cất kỹ rồi miễn cưỡng trả lời câu hỏi vớ vẩn của tôi. Theo lời anh Hồ thì sợi dây chuyền này là của hồi môn của bà nội hắn, dây thuê người đánh còn mặt thỉnh từ chùa Thắng Nghiêm, đã được khai quang.
Tôi và Kido Kana cẩn trọng nhận lấy sợi dây, xem xét kỹ càng. Xét về tạo hình, tượng Phật thuộc dáng thuyết pháp, ngồi xếp bằng theo thế kiết già, tay phải giơ lên, các ngón tay khum lại thành vòng cung, tay trái đặt trên gối, đây là tạo hình khá phổ biến ở Trung Quốc. Chỉ riêng đỉnh nghiêm là đặc biệt, chẳng khác nào gắn dưa chuột vào khoai tây vậy.
“Cái này thỉnh từ chùa Thắng Nghiêm à?” Nghe Kido Kana hỏi, anh Hồ gật đầu, còn giải thích rằng đó là một ngôi chùa địa phương nằm ở Tây Nam Kỳ Sơn, đã bỏ hoang nhiều năm, gần đây mới lại có sư sãi.
Tôi bảo, “Xem ra phải đến đó một chuyến.” Kido Kana ừm một tiếng, nắm chặt tay tôi. Phong cách đỉnh nghiêm kia bỗng dưng xuất hiện ở mặt dây Phật vàng, chứng tỏ khi chạm trổ thợ thủ công đã phỏng theo, mà nguyên mẫu rất có khả năng nằm ngay trong chùa.
Anh Hồ được tiền cũng vui vẻ hẳn lên, ngoảnh vào trong gọi một tiếng. Chẳng mấy chốc Hai Tần quấn băng từ đằng sau lù lù đi ra, tay cầm tước chạm rồng. Vừa nhận ra tôi, mắt gã như tóe lửa. Anh Hồ nghiêm mặt, “Mai mày dẫn hai cô cậu này đến chùa Thắng Nghiêm một chuyến, đừng để xảy ra chuyện gì đấy.”
Hai Tần vô cùng bức xúc, nhưng không dám cãi lời, đưa tước cho chúng tôi rồi rụt rè chuồn thẳng, trông dáng đi đứng vẫn còn khập khiễng, hẳn đã ăn no đòn.
Tối hôm ấy, tôi nghỉ lại nhà Cơ Vân Phù còn Kido Kana về nhà khách thị trấn. Sáng hôm sau, chúng tôi lái xe, Hai Tần dẫn đường, bon bon chạy thẳng đến chùa Thắng Nghiêm. Trên xe, trừ chỉ đường ra, Hai Tần không nói một lời, hiển nhiên vẫn còn ôm hận. Tôi lân la gợi chuyện nhưng bị gã vặc lại, “Không dám, tôi đây nào dám chuyện trò với ngữ giả chết bắt quạ nhà anh.”
Chùa Thắng Nghiêm nằm về phía Tây Nam Kỳ Sơn, cách thị trấn khoảng ba ki lô mét. Hai Tần không dám chỉ láo, dẫn chúng tôi chạy dọc theo đường cái, chẳng mấy chốc đã đến nơi. Nơi này nằm trên gò đất bờ Bắc ngã ba sông, nơi hai sông Chu Công và Hoành Thủy giao nhau, địa thế rất cao, quả là chỗ tốt để xây chùa dựng quán theo phong thủy.
Đến cửa chùa, tôi hỏi Hai Tần có theo vào không, gã bóp gáy đáp cộc lốc, “Không, tôi tự về.” Đoạn quay phắt người nhổ toẹt xuống đất, tập tễnh đi thẳng.
Chùa cổ đã tàn tạ quá nửa, đâu đâu cũng thấy vách đổ tường xiêu, tuy có sửa sang, song không giấu được vẻ tiêu điều. Trước cửa là hai cây cổ thụ trong đó một đã đổ nghiêng, cây còn lại thì chết khô, trơ cành khô lòng khòng rũ xuống, chưa được dọn dẹp. Tôi đứng trước chùa, thấy quạnh quẽ thê lương khôn tả. Kido Kana lẩm bẩm một mình, chẳng rõ nói gì rồi rút máy ảnh ra chụp.
Tối qua Kido Kana đã hỏi Sở Quản lý hiện vật văn hóa để lấy các tài liệu liên quan. Thắng Nghiêm là chùa cổ, không biết xây từ thời nào, lần trùng tu sớm nhất vào năm Cảnh Thái thứ bảy triều Minh, hương khói rất thịnh, địa chí huyện các đời đều ghi lại, tiếc rằng phần lớn kiến trúc đã bị phá hủy dưới thời Cách mạng Văn hóa, đến giờ vẫn chưa khôi phục lại được.
Đây không phải điểm du lịch, không thu phí vào cửa. Chúng tôi thong thả bước vào, băng qua khoảnh sân rộng, thảng hoặc có vài ba người dân ngang qua cũng chỉ hờ hững liếc nhìn rồi đi thẳng.
Từ sân chúng tôi đi đến lầu chuông, lầu trống và điện Thiên Vương, có thể thấy rất nhiều pho tượng phổ biến trong chùa miếu như tượng Phật, tượng Bồ tát và tượng Kim cang nơi hành lang mé điện dọc đường đi. Có điều hầu hết đã bị đập phá đến mức không nhìn ra mặt mũi hoặc mất đầu, chẳng còn mấy pho nguyên vẹn. Đi đến chính điện mới thấy chỉ còn trơ đống gạch đá ngổn ngang, những rường cột gỗ đều không thấy đâu nữa - nghe nói tất cả đã bị thiêu hủy trong một trận hỏa hoạn dưới thời Cách mạng Văn hóa.
Mỉa mai ở chỗ, trước điện chẳng rõ ai đặt một bát hương nhỏ, cắm mấy nén nhang cháy dở xiêu vẹo. Xem ra thỉnh thoảng vẫn có dân làng đến đây thắp hương, chỉ không biết họ bái lạy cầu khấn vách đổ tường nghiêng cái gì.
Chúng tôi tiếp tục đi sâu vào trong. Những công trình kiến trúc với chức năng riêng như điện Quan Âm, gác kinh, điện Hoa Nghiêm, nhà bếp cũng tổn hại nặng nề. Tượng gỗ tượng vàng tượng đồng chẳng còn một mảy, may mà còn một ít tượng đá đặt ở góc khuất hoặc hốc giả sơn là nguyên vẹn. Tôi và Kido Kana quan sát thật kỹ, thấy pho sớm nhất có từ thời Minh, nhưng tạo hình lại theo phong cách của người Hán, không giống mặt dây của anh Hồ chút nào.
Lòng vòng nửa ngày trời chẳng thu được kết quả gì, chúng tôi đành quay ra hỏi mấy hòa thượng gặp dọc đường, nhưng họ cũng mới được cử đến đôn đốc việc trùng tu gần đây, chẳng biết gì chuyện khi trước cả.
“Anh xem, kia là Phật gì?” Kido Kana bỗng trỏ một pho tượng hỏi. Tượng nọ nằm khuất sau mỏm đá, sau lưng là gốc dương đại thụ, trước mặt vẫn còn dấu tích bàn thờ. Nửa trên pho tượng không còn nữa, chỉ có nửa dưới. Nhìn phần giáp quấn chân tượng, bên cạnh gác một binh khí cán dài, gần eo còn có mấy hàng râu gồ lên, tôi cười nói, “Vị này cũng nổi tiếng ở Nhật lắm đấy, có thể nói là người người đều biết.”
“Thế ư? Người Trung Quốc mà ai ai ở Nhật cũng biết á?” Kido Kana ngạc nhiên ra mặt.
“Quan Công ấy mà.” Tôi trỏ bộ râu dài của tượng. Trong các chùa miếu Trung Quốc, trừ Quan Công ra chẳng có pho tượng nào râu dài thế cả. Nói đoạn tay phải tôi vuốt râu, tay trái xách đao, diễn lại dáng vẻ trừng mắt của Quan Công trong Kinh kịch, làm Kido Kana phì cười thành tiếng.
“Nhưng sao trong chùa lại thờ Quan Công?”
“Trong Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo, Quan Công đều được coi là thần bảo hộ nên thường được dựng tượng thờ trong các chùa miếu như Hộ Pháp Già Lam, đây cũng là bằng chứng của việc Phật giáo Trung Thổ đã dung hòa với tín ngưỡng bản địa.”
“Quan Công từ võ tướng biến thành thần trong Phật giáo từ khi nào thế?” Kido Kana ngước lên tò mò hỏi.
Tình cờ trước đây tôi từng mua tượng Quan Công nên cũng nghiên cứu mấy cuốn sách về quá trình biến đổi trong việc thờ cúng Quan Công, biết được đôi chút, bèn giảng giải cho cô ta, “Chuyện này kể ra thì dài lắm, tóm lại các triều đại vẫn không ngừng thần thánh hóa và truy phong cho Quan Công, dần dần từ một võ tướng trở thành danh tướng rồi thành thần tướng.”
“Anh uyên bác thật.” Kido Kana khâm phục. Tôi đỏ mặt, mới vừa bẽ mặt trước Cơ Vân Phù, giờ lại được khen thế này, đúng là khó mà tiêu hóa nổi.
“Có gì đâu. Cũng vì yêu cầu công việc thôi… Để tôi kể cô nghe, trước đây tôi mua được một pho Quan Công vô cùng tinh xảo, nghe nói là đồ thời Tống. Nhác thấy sau lưng ghi mấy chữ ‘Hiển Linh Nghĩa Dũng Vũ An Anh Tế vương’, tôi cười bảo ngay, món này không thể là đồ thời Tống được. Vì sao? Bởi phong hiệu của Quan Công thời Tống là ‘Tráng Mâu Nghĩa Dũng Vũ An Anh Tế vương’. Đến thời Nguyên, cho rằng hai chữ ‘Tráng Mâu’ nghe không oai, nên mới đổi thành ‘Hiển Linh’. Bởi vậy chỉ cần xem phong hiệu là biết tượng Quan Công thời nào.”
Kido Kana chăm chú nghe, “Ở Nhật tôi cũng từng thấy có nơi thờ Quan Công, có lẽ là cùng một nguồn gốc với Trung Quốc.”
“Ừm, đúng thế…”
Tôi tiện miệng đáp, phủi phủi pho tượng Quan Công đổ nát kia, gắng giữ vẻ bình tĩnh nhưng lòng lại dập dềnh chao đảo như miếng sủi cảo giữa nồi nước sôi.
Trước nay tôi vẫn băn khoăn mãi, vì sao ông lại bảo Trịnh Hổ tới Kỳ Sơn đúc tượng đồng Quan Công? Hành động này có liên quan gì đến đầu Phật ngọc?
Giờ thấy nửa pho Quan Công ở chùa Thắng Nghiêm này, tôi mới láng máng hiểu ra.
Nếu nhớ không lầm thì Quan Công chính thức được đưa vào Phật giáo từ năm Khai Hoàng thứ mười hai đời nhà Tùy. Cao tăng Trí Khải bấy giờ đã thụ Bồ tát giới cho vong linh Quan Công ở núi Ngọc Tuyền, biến ông ta trở thành đệ tử nhà Phật. Đến thời Võ Tắc Thiên, Ý thiền sư Thần Tú, người sáng lập ra Thiền tông Bắc phái, cũng chính là đối thủ của Lục Tổ Huệ Năng, dựng chùa Đại Thông Thiền ở núi Ngọc Tuyền, lần đầu tiên phong Quan Công là thần Hộ Pháp Già Lam, chính thức đưa ông ta vào hệ thống thần linh Phật giáo.
Về sau Thần Tú lại được Võ Tắc Thiên vời đến Trường An, phong làm ‘pháp chủ Lưỡng Kinh’, ‘quốc sư Tam Đế’, ân sủng vô cùng, trở thành lãnh tụ Phật giáo phương Bắc Trung Quốc.
Thần Tú đã đến Trường An, ắt tín ngưỡng thờ Quan Công cũng theo đó xâm nhập vào xã hội thượng lưu, mà Thần Tú đại diện cho quyền lực của Phật giáo, Võ Tắc Thiên tạc tượng Phật hẳn cũng tham khảo ý kiến ông ta - liên hệ thế này thực khiên cưỡng, lại thiếu chứng cứ quan trọng, nhưng dù sao cũng đã cho tôi một hướng để tìm tòi.
Tôi vừa đi vừa nghĩ, còn phải cố giấu không để Kido Kana nhận ra, cô ta vẫn chưa biết chuyện Trịnh Hổ và tượng đồng Quan Công. Trái lại Kido Kana chẳng hề nghi ngờ, chỉ mải ôm máy ảnh chụp xoành xoạch.
Chợt một đạo sĩ già xông ra chắn trước mặt bọn tôi.
Đúng vậy, tôi không nhìn lầm, một đạo sĩ già xuất hiện ngay trong chùa. Người này đầu tóc bạc phơ, đeo kính, tóc búi lơi, mặc bộ đồ đạo sĩ bẩn thỉu, trông hơi giống Lộc Lực đại tiên trong phim Tây Du ký. Lão ôm một ngọn phướn và xách chiếc ghế gấp, trên phướn ghi hai chữ ‘Đoán số’.
“Cô cậu xem bói không? Không đúng không lấy tiền.” Lão đạo sĩ nói tiếng phổ thông làu làu, chuẩn như phát thanh viên thời sự.
Hai chúng tôi phì cười. Tôi hỏi, “Ông là đệ tử Đạo gia, sao lại đến cửa Phật xem bói vậy, không sợ Phật Tổ trách tội cướp cơm ư?”
Lão vênh mặt, “Nói cho cô cậu biết nhé, hòa thượng chuẩn làm gì biết xem bói. Trong một vạn ba ngàn sáu trăm kinh điển Phật môn, không có câu nào dạy người ta cầu thần xin quẻ cả. Nên đám sư sãi giải xăm xem tướng đều là hạng sư hổ mang, chỉ lừa được lũ ngu si mù quáng thôi. Đạo sĩ xem quẻ đoán số mới là đúng nghề đấy.”
Nghe bùi tai, tôi bèn dừng lại, nói bát tự của mình cho lão xem. Lão đạo sĩ cắm cây phướn xuống đất, mở ghế ra đường hoàng ngồi xuống, bấm đốt ngón tay tính toán một hồi rồi mở mắt ra, “Mệnh cậu là đường núi đứt ngang, cũng khá đấy.”
Tôi thót tim, trước đây có người xem bói cho tôi cũng nói y như vậy. Xem ra lão đạo sĩ này có nghề đây. Tôi vội hỏi thêm, “Ông xem hộ thời vận tôi độ này thế nào?”
Lão ta liếc Kido Kana, “Chuyện khác không biết, nhưng ắt có vận đào hoa.”
Kido Kana cũng hiếu kỳ sán đến đòi lão xem chỉ tay. Lão đạo sĩ cầm tay cô nàng săm soi rồi phán, “Cô không phải con cháu Hoa Hạ, mà là người nước ngoài.”
Kido Kana sững sờ hỏi làm sao ông biết, lão vuốt râu cười. “Thì nhìn cuốn hộ chiếu cô làm rơi đó…”
Kido Kana cúi xuống, thấy quyển hộ chiếu Nhật Bản rơi ngay dưới đất. Chúng tôi phá lên cười, lão đạo sĩ này cũng hay ho thật. Lại nghe lão nói, “Thấy cô cậu có duyên, tôi nói thực, nghề bói toán này xem cơ trời ba xem ánh mắt bảy. Thoạt nhìn lời ăn tiếng nói của cô cậu, tán gẫu thêm dăm ba câu, tôi đã đoán được đại khái lai lịch rồi. Dựa vào đó mà phán tiếp, cơ bản không sai vào đâu được.”
“Ông nói tuột ra thế không sợ chúng tôi không trả tiền, còn mắng là quân lừa đảo à?”
“Trông đã biết hai cô cậu không phải hạng ấy rồi.”
“Vậy chúng tôi là người thế nào?”
“Ha ha, cô cậu đều là người thông minh cả. Lão xem bát tự chưa chắc các vị đã tin, nhưng thật thà bộc bạch, các vị thấy hay ho, nhất định sẽ cho tiền.”
Quá buồn cười, tôi định móc tiền cho, nhưng lần túi mới nhớ vừa rồi đã quăng hết tiền cho anh Hồ. Kido Kana thấy vậy liền rút ví ra một trăm tệ đưa lão. Lão đạo sĩ giật mình chối đây đẩy rằng nhiều quá, tôi phải nói ông cứ nhận đi, coi như cái duyên, lão mới rụt rè nhận lấy, gấp nhỏ lại rồi nhét vào ngực áo.
Có tấm đệm trăm tệ này, chẳng mấy chốc chúng tôi đã thành thân, ngồi bệt hẳn xuống đất huyên thuyên chuyện trò. Lão ta cũng chẳng nề hà, thao thao kể chuyện đời mình. Lão họ Tạ, vốn là chú tiểu chùa này, về sau khổ quá bèn bỏ chùa chạy đến núi Thanh Thành Tứ Xuyên cải sang đạo Lão. Thời kỳ Cách mạng Văn hóa, chùa Thắng Nghiêm bị đốt, sư sãi tan tác, song núi Thanh Thành vẫn bình yên vô sự, lão cũng tránh được kiếp nạn. Về sau cải cách đổi mới, bỏ lệnh cấm tôn giáo, lão mới về lại Kỳ Sơn, lang thang khắp các đạo quán chùa miếu.
“Nói vậy chắc ông nắm rõ tình hình chùa Thắng Nghiêm trước hỏa hoạn lắm nhỉ?” Tôi vờ vô tình hỏi.
Lão Tạ vỗ ngực, “Còn phải nói, rõ như lòng bàn tay ấy chứ.”
“Vậy chắc ông cũng biết trong chùa có những tượng gì nhỉ?”
“Dĩ nhiên, lúc còn làm tiểu, lão thích nhất là đếm tượng Phật giết thời gian đấy.”
Tôi liền bảo Kido Kana lấy ảnh chụp đầu Phật ngọc cho lão xem, “Ông coi, trong chùa có pho nào giống thế này không, nhất là chỗ này này.” Tôi trỏ đỉnh nghiêm.
Lão Tạ nheo mắt ngắm nghía hồi lâu rồi đáp, “Hình như có… Lão nhớ sau chùa có thờ một pho Tì Lư Già Na Phật, đầu tóc cũng từa tựa thế này.”
Thấy chúng tôi sáng mắt lên, lão lại nói, “Nhưng nhìn ảnh thế này giống Đại Phật ở Long Môn quá nhỉ.”
“Ồ? Ông cũng từng thấy Đại Phật Lô Xá Na ở Long Môn à?”
Lão sầm mặt, “Khinh người vừa chứ! Lúc lão làm tiểu cũng dốc lòng nghiên cứu Phật học, có phải chưa đi khất thực bao giờ đâu.” Đoạn lão xoa xoa mũi, lên mặt giảng giải, “Đại Phật Lô Xá Na tạc theo dung mạo Võ Tắc Thiên, cô cậu biết không?”
“Biết chứ.”
“Nhưng cô cậu có biết vì sao Võ Tắc Thiên lại muốn tạc tượng Phật Lô Xá Na theo dung mạo mình không?”
Chúng tôi đồng loạt lắc đầu.
Lão Tạ đắc ý ghếch cả chân lên, “Phật Lô Xá Na là một trong ba phân thân của Phật Tổ, gọi là Báo Thân Phật, trong tiếng Phạn, ‘Lô Xá Na’ nghĩa là trí tuệ bao la, hào quang tỏa khắp, rất hợp với chữ ‘chiếu’ trong tên Võ Tắc Thiên.”
“Khoan nói chuyện Phật Lô Xá Na đã, quay về pho Tì Lư Già Na Phật ông kể khi nãy đi.” Sợ lão xa đề, tôi liền nhắc.
Lão Tạ trừng mắt, “Đúng là vô văn hóa! Khi Phật Tổ nổi danh đã hợp nhất Pháp Thân Phật và Báo Thân Phật lại nhằm thể hiện tinh túy Pháp Báo một thể nên Phật Lô Xá Na cũng là cách gọi tắt của Phật Tì Lư Già Na, hai vị này vốn là một. Nếu nói về Tì Lư Già Na, sao bỏ qua Lô Xá Na được?”
Tôi chột dạ, “Có nghĩa là Tì Lư Già Na và Lô Xá Na chẳng qua chỉ khác cái tên chứ cùng chỉ một vị, không tách rời ư?”
“Chính xác. Nói về tượng Phật, thông thường hai pho này sẽ được đặt đối xứng trong chùa. Nếu chính giữa thờ Phật Lô Xá Na thì trong góc sẽ thờ Phật Tì Lư Già Na, hoặc ngược lại. Một Pháp một Báo mới phù hợp áo nghĩa Phật pháp - chỉ riêng chùa Thắng Nghiêm này, phía sau chùa thờ một pho Tì Lư Già Na, chẳng biết niên đại từ bao giờ, nhưng không thấy pho Lô Xá Na đâu cả.”
“Đỉnh nghiêm pho Tì Lư Già Na kia có giống trên ảnh không?”
“Giống lắm. Lão nhớ rõ mà, bấy giờ tượng ấy thịnh hương hỏa lắm, rất nhiều thiện nam tín nữ tới dâng hương cầu khấn, trong chùa còn bán nhiều mặt Phật vàng đã khai quang phỏng theo. Cái tên Tì Lư Già Na đọc trẹo cả lưỡi, dân bản địa thấy đỉnh nghiêm tượng khá đặc biệt, nên đều gọi là Phật đỉnh vàng.”
“Ông dẫn chúng tôi đi xem được không?”
“Được thôi, đằng nào hôm nay lão cũng chẳng làm ăn được gì. Có điều pho ấy mất lâu rồi, giờ chỉ còn vũng nước thôi.”
Nói đoạn, lão Tạ đứng dậy gấp ghế lại, dẫn chúng tôi ra sau chùa. Lão thông thuộc đường đi lối lại, chẳng mấy chốc đã đến. Đây vốn là một thiền viện u tĩnh, có cả tịnh xá, hiềm nỗi nhiều năm chưa quét tước sửa sang nên cỏ hoang um tùm, mấy người thợ xây đang lúi húi lợp lại mái nhà. Lão Tạ đi đến bên tường nói, “Ở đây.”
Quả như lời lão, nơi này chỉ còn một vũng nước đã cạn khô, đừng nói tượng Phật, đến bệ cũng chẳng có, quanh mép vũng trơ đất cằn màu đỏ vàng, bốn bề bụi cỏ bao quanh, trông như vết loét đỏ lòm giữa mái tóc.
Kido Kana hỏi, “Tượng ấy thịnh hương khói thế, sao lại đặt ở phía sau, không đưa lên chính điện hay đằng trước mà thờ? Đây là chỗ ở của sư sãi, khách đến dâng hương chẳng bất tiện ư?”
Lão Tạ cứng họng, ngẩn ra hồi lâu mới trả lời được, “Trong chính điện đã thờ Phật Tổ Như Lai, sao đưa tu hú đến chiếm tổ chim khách được…” Rồi nhận ra mình dùng sai thành ngữ, lão vỗ trán chữa lại, “Sao có thể thờ hai bệ một Phật. Huống hồ nghe nói từ khi có chùa này, pho Phật đỉnh vàng kia đã đặt ở đó rồi, bấy nhiêu năm chưa từng chuyển đi đâu cả. Dù sư tăng trong chùa muốn chuyển, các lạt ma cũng không chịu.”
“Lạt ma ư? Chùa này theo Thiền tông mà?”
“Nơi này cách Lâm Hạ và Cam Nam không xa, thường có lạt ma tới làm khách. Chẳng qua họ tới để bái lạy pho Tì Lư Già Na kia thôi. Được cái đưa tiền dầu đèn nhiều nên nhà chùa cũng vui vẻ.”
“Sao họ phải làm thế?”
Lão giơ một ngón tay lên, “Kiến thức căn bản ấy mà cô cậu cũng quên à? Phật Tì Lư Già Na còn gọi là gì nào? Đại Nhật Như Lai! Đức Phật tối cao của Mật tông Tây Tạng đấy!”
Nghe vậy tôi như bị đập thẳng vào đầu, suýt thì loạng choạng đứng không vững.
Ngu gì ngu thế không biết! Đến thường thức cơ bản nhất cũng quên!
Đại Nhật Như Lai chí cao vô thượng mà Mật tông thờ phụng chính là Phật Tì Lư Già Na! Thế nên đỉnh nghiêm của đầu Phật mang phong cách Tây Tạng chẳng có gì lạ cả.
Những thường thức Phật giáo này, tôi vốn thuộc làu. Có điều đầu Phật ngọc dù sao cũng là vật thời Sơ Đường, bấy giờ Phật giáo Tây Tạng mới manh nha, tướng mạo Đại Nhật Như Lai không giống tạo hình về sau cho lắm nên tôi không nhận ra. Mãi tới khi lão Tạ nhắc nhở, tôi mới sực nhớ, hóa ra còn có mối liên hệ ấy.
Tượng thần Hộ Pháp Già Lam Quan Công.
Đại Nhật Như Lai bằng ngọc trong minh đường Võ Tắc Thiên.
Đỉnh nghiêm theo Phật giáo Tây Tạng.
Phật Tì Lư Già Na và Lô Xá Na được thờ đối xứng nhau.
Những manh mối đứt đoạn xoay vòng trong não tôi thành một vòng xoáy cực lớn, không sao xua tan nổi. Tôi cố gắng vớt chúng lên để tìm liên hệ bên trong, nhưng cứ thấy bất lực.
Lão Tạ thấy tôi biến sắc, bèn hỏi có khó chịu ở đâu không? Đoạn móc trong áo ra một bình thuốc, khoe rằng ngoài học đạo lão còn học cả nghề thuốc, kết hợp với thuật dưỡng sinh của Đạo gia, chế thành thuốc tễ, chữa được bách bệnh. Tôi từ chối thẳng, rồi hỏi sang chuyện khác, “Ông bảo hai vị Phật thường được thờ đối xứng nhau, vậy Phật Lô Xá Na ở chùa Thắng Nghiêm đâu rồi?”
Lão bối rối nghĩ ngợi một hồi rồi đáp, “Không có.”
“Không có à?”
Bị tôi hỏi vặn lại, lão có vẻ chạm tự ái, mạnh miệng khẳng định, “Chùa Thắng Nghiêm tổng cộng có một trăm ba mươi bảy pho tượng, lão nhớ rành rọt từng pho, không lầm đâu.” Tôi ậm ừ gật đầu rồi kết thúc câu chuyện.
Chẳng mấy chốc chúng tôi đã rời chùa Thắng Nghiêm, đánh xe về Kỳ Sơn, tiện thể đưa lão Tạ vào thị trấn. Lão chắp tay chào chúng tôi rồi quay đầu tót vào chợ nông sản, chẳng biết định mua cái gì. Kido Kana hỏi tôi muốn về nhà khách hay đi đâu, tôi bèn nói tới nhà sách Tân Hoa đã. Thế là chúng tôi tới nhà sách, mua một tấm bản đồ khu vực phụ cận Bửu Kê tỷ lệ lớn, tiện thể mua luôn một tập bản đồ Trung Quốc. Kido Kana có vẻ thắc mắc, nhưng cũng không hỏi.
Sau khi về nhà khách, tôi trải bản đồ ra giường, cầm kính lúp săm soi hồi lâu rồi lấy thước đo, cuối cùng mới ngẩng lên bảo Kido Kana, “Tôi nghĩ mình biết rồi…”
“Biết gì cơ?” Kido Kana chớp mắt.
Tôi nói rành rọt, “Tôi biết ông nội chúng ta đã đi đâu trong hai tháng biến mất vào năm 1931 rồi.” Tay Kido Kana run bắn lên, suýt nữa đánh rơi cốc nước. Tôi kiểm tra cửa sổ nhà khách một lượt, khép cửa phòng lại rồi quay vào nghiêm túc nói, “Trước khi giải thích, tôi muốn xác nhận lại một chuyện.”
“Anh cứ nói.”
“Cô trả lại đầu Phật ngọc, thực ra là vì mục đích gì?” Rồi chẳng để cô ta kịp đáp, tôi đã chặn ngay, “Đừng nói là vì cái gì mà quan hệ hữu nghị hai nước hay chuộc tội cho ông, tôi không tin đâu.” Không khí trong phòng bỗng trở nên gượng gạo.
Nếu cô ta thực sự muốn trả lại đầu Phật để chuộc tội cho ông thì cách hợp tình hợp lý là phát thông cáo báo chí, sau đó làm cầu nối liên hệ giữa chính phủ Trung Quốc và Viện nghiên cứu Đông Bắc Á. Là người thừa kế đầu Phật, hẳn cô ta có thừa sức ảnh hưởng để thúc đẩy việc hợp tác. Vậy mà chẳng những không quay về Nhật điều đình với Viện nghiên cứu Đông Bắc Á, cô ta lại ôm một đống ảnh chụp đầu Phật cũ mèm chạy đến Trung Quốc, nghe ngóng tin tức khắp nơi - nhìn thế nào cũng không giống những việc người muốn chuộc tội nên làm, ít nhất là vào lúc này.
Vừa rồi tôi xem bản đồ, đã rút ra một suy đoán khá đáng tin cậy. Nếu có thể chứng thực, tôi sẽ tiến được một bước dài về phía bí mật năm xưa. Trong thời điểm mấu chốt này, tôi nhất định phải thận trọng. Nếu Kido Kana không thực sự đáng tin, thà tôi giữ riêng suy đoán ấy cho mình.
Thấy tôi nghi ngờ, Kido Kana lộ vẻ đau buồn. Cô vén tóc, cắn môi, lặng lẽ ngồi trên xô pha. Tôi cũng không gặng hỏi, chỉ khoanh tay lạnh lùng nhìn cô ta. Lâu thật lâu, cô ngẩng lên, “Nếu tôi nói ra, anh vẫn sẽ đi cùng tôi chứ?”
“Vậy phải xem cô nói ra chuyện gì đã.”
“Dù tôi nói thực chăng nữa, thì làm sao để anh tin đây?”
“Tôi khắc tự nhận ra.”
Kido Kana gượng cười lắc đầu. “Nhưng tôi làm sao biết được anh đã dốc lòng kể hết với tôi hay chưa?”
Bị cô ta vặn lại, tôi cứng họng. Đúng vậy, niềm tin phải đến từ hai phía, dĩ nhiên cô ta sẽ không kể hết với tôi, còn tôi cũng sẽ không nói ra toàn bộ sự thật. Giờ phải ngửa hết bài ra à? Tôi thoáng phân vân, rồi sực nhận ra, bỏ mẹ, mắc bẫy rồi.
Đây chỉ là phép thử của Kido Kana. Thấy ánh mắt tôi lộ vẻ lảng tránh, cô ta biết ngay tôi cũng có chuyện giấu giếm.
Cô ả này thực không vừa. Tôi vốn định to mồm át vía cô ta hòng dò xét sự tình, nào ngờ lại bị cô ả âm thầm cho vào tròng. Nhưng cặp mắt to của Kido Kana không hề lộ vẻ đắc ý, thay vào đó là nỗi buồn vì bị hiểu lầm. Cô chăm chú nhìn tôi hồi lâu, rồi đột nhiên đề nghị, “Tôi nghĩ có một cách có thể giúp chúng ta gạt bỏ hết nghi ngờ, thực sự trở thành đồng minh tin cậy của nhau.”
“Cách gì?”
“Hai ta, ừm, kết hôn.” Kido Kana khẽ nói, giọng hơi run run.
“Kết hôn á!” Tôi giật bắn mình trước tư duy nhảy vọt nọ, thế này chẳng phải đốt cháy giai đoạn quá nhanh sao.
Kido Kana đỏ bừng mặt, song vẫn cố đánh bạo nói tiếp, “Phải, kết hôn đi. Hai gia tộc chúng ta từ thời ông cha đã có vướng mắc phức tạp. Sau khi thành vợ thành chồng, chúng ta sẽ trở thành một nhà, cùng gánh vác vận mệnh này, không còn gì ngăn cách nữa.”
Cách nghĩ của cô gái này thực chẳng bình thường chút nào. Tôi nghĩ ngợi hồi lâu mới ngập ngừng đáp, “Muốn kết hôn cũng không kịp. Hộ khẩu của tôi vẫn để ở Bắc Kinh.”
Kido Kana liền nói, “Chúng ta xác định quan hệ thôi, bổ sung thủ tục pháp lý sau.”
Vẻ mặt tôi trở nên kỳ quặc đến cực điểm, “Xác định thế nào?” Trong phòng chỉ có hai chúng tôi một nam một nữ, không khí đầy mờ ám. Dường như đoán được ý nghĩ của tôi, Kido Kana vừa giận vừa thẹn vung tay bực bội, “Ý tôi là, chúng ta đính hôn trước.”
Tôi vỗ trán, tự trách mình nghĩ quá xa. Kido Kana rót hai chén nước trắng, đưa cho tôi một chén, “Nếu anh không chê thì mời uống cạn chén này, coi như bằng chứng ta đã đính hôn.” Tôi cầm chén nước, chẳng biết nói sao. Kido Kana khẽ cụng chén với tôi rồi uống cạn.
“Sau này em còn phải cùng anh chung lưng đấu cật nữa mà, mong anh giúp đỡ em nhé.” Thấy tôi cạn chén, Kido Kana gập người thật thấp, cười tươi như hoa, hệt một cô dâu Nhật lý tưởng. Dáng vẻ dịu dàng ngoan ngoãn ấy khiến tôi hơi choáng váng, cảm giác không thực sao đó, cứ ngơ ngáo thế này mà lấy vợ à?
Kido Kana đặt chén xuống, ngồi ghé bên giường, hai tay nắm lấy tay tôi, “Anh đã thành chồng chưa cưới của em thì em còn giấu giếm anh làm gì nữa.”
“Ừm, anh nghe đây.” Tôi đáp, để nguyên không rút tay ra.
Kido Kana bắt đầu kể, “Trước hết em phải làm rõ một chuyện. Những tài liệu em cung cấp cho phía Trung Quốc trước đây, kể cả những việc kể với các anh đều là sự thật. Chẳng qua em đã giấu một điều, một điều em không thể kể với người ngoài được.” Nói tới đây, cô nàng nhìn tôi đầy mờ ám, ý rằng giờ có thể nói với anh rồi.
“Mối liên quan giữa gia tộc Kido và pho tượng ngọc kia, không phải bắt đầu từ đời Kido Yuzo ông em đâu…” Giọng Kido Kana đều đều bình thản như đang bảo vệ luận văn trên giảng đường đại học, “Theo những ghi chép không đầy đủ mà tổ tiên nhà Kido để lại, mối dây liên hệ sớm nhất phải truy đến tận thời nhà Đường.”
“Nhà Đường ư? Vậy chẳng phải cùng niên đại với Phật ngọc sao?” Tôi không ngờ lại sớm như thế.
“Vâng, cũng tầm tầm đó. Theo những gì ông em nghiên cứu được thì, thuở ấy dòng tộc nhà em có một người được cử sang Đại Đường làm Khiển Đường sứ, vô tình trông thấy pho tượng ngọc nọ ở Lạc Dương. Tại Lạc Dương, giữa ông ta và pho tượng đã xảy ra chuyện gì thì sách sử không ghi rõ, nhưng sau khi quay về, ông ta lúc nào cũng canh cánh nghĩ tới nó, thậm chí còn trăng trối lại với con cháu, mong có ngày hậu duệ mình có thể tới chiêm bái pho tượng lần nữa.”
“Cũng có nghĩa đầu Phật ngọc này không phải do ông Kido Yuzo và ông nội anh vô tình phát hiện trong quá trình khảo sát ư? Ngay từ khi đến Trung Quốc, ông em đã định tìm nó rồi hả?”
“Vâng. Bấy giờ Hội phong tục China đặt ra một kế hoạch, họ sưu tầm các loại tài liệu về văn hiến Trung Quốc được lưu giữ ở Nhật, viết nên cuốn Ghi chép về đồ cổ China, liệt kê khoảng hơn một trăm thứ chưa từng xuất hiện trên thị trường, đồng thời còn cả những cổ vật quý giá với nhiều manh mối vụn vặt để lần theo, bao gồm cả ghi chép về Phật ngọc ở minh đường Võ Tắc Thiên của nhà Kido. Người của Viện nghiên cứu Đông Bắc Á vô cùng hứng thú với Phật ngọc bởi giá trị của nó còn hơn cả viện bảo tàng. Ông nội em được cử đến Trung Quốc vì sứ mệnh ấy.”
“Sau đó ông ấy gặp được ông anh, đôi bên đồng tâm nhất trí, cuỗm luôn đầu Phật ngọc à?” Giọng tôi đượm phần chua chát, bất lực và châm chọc.
Kido Kana cứng người lại, cao giọng, “Nhưng ban đầu ông em không định sang Trung Quốc trộm cổ vật. Ông là người si mê đồ cổ, không quan tâm đến chính trị, chỉ mong được nhìn thấy pho tượng ngọc bao đời nhà Kido tha thiết ước ao mà thôi.”
“Nhưng rốt cuộc ông ấy vẫn đem Phật ngọc về Nhật đấy thôi.”
“Ông em là một nhà khảo cổ thuần túy, trong mắt ông ấy, quốc gia hay dân tộc không có vai trò gì quan trọng trong nghiên cứu văn vật cả. Huống hồ ông nội chỉ mang được mỗi đầu Phật ngọc về nước. Vì chuyện này mà ông buồn bã rất lâu. Người ngoài cứ tưởng ông tiếc vì không lấy được toàn bộ pho tượng, nhưng em biết thực ra ông buồn vì một báu vật vô giá phải đầu mình đôi ngả.”
Thấy tôi nửa tin nửa ngờ, Kido Kana lại nói thêm, “Hôm nay chẳng phải Cơ Vân Phù cũng nói đấy ư? Thầy Hứa Hòa Bình bố anh đột nhiên quyết định tới Tây An, đem theo hai cuốn sổ. Em đang nghi rằng hai cuốn sổ này là do ông em trao lại cho bố anh nhằm chuộc tội.”
Tôi suýt nữa bật dậy khỏi xô pha, “Chuyện gì nữa đây?”
“Sau khi ông em qua đời vì bệnh, sổ tay của ông mới được tìm thấy trong một ngăn kéo ngầm trong nhà rồi đưa vào bảo tàng tư nhân. Nhưng về sau em từng kiểm tra ngăn ngầm nọ, rõ ràng nó được làm theo kích thước cuốn sổ tay, nhưng độ sâu đủ xếp vừa tận ba cuốn. Bởi thế xưa nay em vẫn nghi ngờ không chỉ có một cuốn sổ. Giờ nghe Cơ Vân Phù kể, em càng quả quyết hơn. Nhất định trước khi qua đời, bằng cách nào đó, ông nội em đã trả lại hai cuốn cho bố anh, nên thầy Bình mới lần đến Kỳ Sơn.”
“Nhưng vì sao chỉ đưa hai cuốn mà không trả cả ba?” Tôi thắc mắc.
“Có lẽ ông muốn giữ lại chút kỷ vật cho mình.” Kido Kana khẽ thở dài, “Những năm cuối đời, ông rất cô đơn. Đầu Phật bị Viện nghiên cứu Đông Bắc Á thu giữ, ông hầu như không được nhìn thấy nữa, người nhà cũng gần như bỏ mặc ông. Chỉ còn duy nhất cuốn sổ này ghi lại ký ức. Lần này em nói muốn trả đầu Phật về Trung Quốc, mục đích thực sự là muốn nhân cơ hội này hoàn thành nguyện vọng của gia tộc và ông nội, tìm cho ra phần thân tượng mất tích năm xưa, để pho tượng được chắp lại hoàn chỉnh. Còn về sau Phật ngọc ở Nhật Bản hay Trung Quốc, không quan trọng. Miễn khôi phục được báu vật thì ông em cũng ngậm cười nơi chín suối.”
“Vì chuyện này mà em trở mặt với cả Viện nghiên cứu Đông Bắc Á, còn lặn lội đến tận Trung Quốc, tự ý đính hôn với một người đàn ông xa lạ hay sao? Sao em quý mến người ông chưa từng gặp mặt thế?”
“Chắc cái đó gọi là máu mủ. Chẳng phải anh cũng bôn ba khắp chốn vì người ông chưa từng biết mặt đấy ư?” Kido Kana hỏi ngược lại.
Bốn mắt nhìn nhau, cả hai chúng tôi đều vỡ lẽ. Mấy chục năm trước, Hứa Nhất Thành và Kido Yuzo bước lên con đường kiếm tìm Phật ngọc; mấy chục năm sau, con cháu hai người cũng lại bước lên con đường y hệt, việc này thoạt nhìn tưởng như ngẫu nhiên, nhưng thực ra lại ẩn giấu yếu tố tất yếu. Thực ra chúng tôi đều thuộc típ người sống hơi lý tưởng, thường cố chấp kiên trì với những việc tưởng chừng vô vị, chẳng tiếc đánh đổi mọi thứ - hẳn đây là ‘máu mủ’ mà Kido Kana nói.
Chúng tôi nhìn nhau cười. Bấy giờ tôi mới nhận ra Kido Kana bất giác đã dựa vào vai mình, thân hình nhẹ nhàng ngả sang, giữ tư thế thân mật mà mờ ám. Để chữa ngượng, tôi đằng hắng nói, “Kido này, để anh kể cho em nghe những gì hôm nay anh mới phát hiện nhé.”
Kido Kana ngồi thẳng người lại, “Sau này cứ gọi em là Kana thôi.” Đoạn cô nàng nhoẻn cười tươi tắn. Vẻ đẹp của Kido Kana và Hoàng Yên Yên khác nhau một trời một vực, Yên Yên đẹp đến hồn xiêu phách tán, như ngọn lửa cháy rực giữa đồng hoang, còn Kido Kana lại như một tập thơ mở sẵn, âm thầm thơm ngát.
Chúng tôi tạm thời xem như đã đính hôn, hơn nữa cô nàng cũng bộc bạch ý định thực sự, nếu tôi còn giấu giếm thì quá đáng quá. Nghĩ vậy, tôi khoanh chân ngồi ngay ngắn, lật ra bản đồ thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam, cầm bút chì lên nói, “Tổng hợp những tin tức nắm được đến giờ, ta có thể biết: pho tượng ngọc thờ phụng trong minh đường Võ Tắc Thiên là Phật Tì Lư Già Na, cũng tức là Đại Nhật Như Lai, được tạc phỏng theo tướng mạo bà ta. Lão Tạ từng nói, chẳng biết em còn nhớ không, rằng hai pho Đại Nhật Như Lai và Lô Xá Na ở rất nhiều chùa đều được đặt đối xứng nhau theo tinh túy Pháp Báo một thể.”
“Có ạ.”
“Nghe được câu ấy, anh cứ băn khoăn mãi, trong minh đường Võ Tắc Thiên ở Lạc Dương thờ tượng ngọc của Đại Nhật Như Lai. Vậy nhất định còn một pho Lô Xá Na tương ứng với nó nữa. Di chỉ minh đường hiện giờ nằm ở góc Đông Bắc ngã tư đường Trung Châu và Định Đỉnh.”
Vừa nói tôi vừa dùng bút chì khoanh tròn trên bản đồ. Được tôi gợi ý, Kido Kana sáng mắt lên, giật cây bút từ tay tôi, từ nội thành Lạc Dương vẽ một đường chì mờ mờ kéo dài đến tận động Long Môn.
“Chính xác!” Tôi nhìn cô đầy tán thưởng, “Trong động Long Môn là Đại Phật Lô Xá Na, còn trong minh đường là Đại Nhật Như Lai. Một pho ngoài sáng một pho trong tối. Chúng ta có lý do để tin rằng, hai pho tượng này tuân thủ nghiêm ngặt cách bài trí Pháp Báo một thể.”
Tôi lại trải bản đồ Bửu Kê lên giường, “Ta lại xem sang chùa Thắng Nghiêm này. Hôm nay lão Tạ cũng nói đấy, trong chùa chỉ có một pho Đại Nhật Như Lai, vậy pho Lô Xá Na kia đâu? Hai pho ở Lạc Dương, một trong linh đường, một ngoài ngoại ô, vậy hai pho ở chùa Thắng Nghiêm có phải cũng được bài trí tương tự, một pho ở trong, một pho ở ngoài chùa không?”
Kido Kana vỗ tay thốt lên một câu cảm thán bằng tiếng Nhật. Cô nằm nhoài nửa người ra bản đồ, ngón tay di từng tấc quanh Kỳ Sơn.
“Bởi thế anh cho rằng, pho tượng trong chùa Thắng Nghiêm là một mốc tọa độ. Sau khi xem xét khoảng cách và phương hướng giữa di chỉ minh đường và động Long Môn, anh đã áp tỷ lệ đó lên chùa Thắng Nghiêm. Kết quả phát hiện, vị trí của pho Lô Xá Na tương ứng với Đại Nhật Như Lai trong chùa nằm ngay tại đây…”
Kido Kana đưa bút theo lời tôi giảng giải, chẳng mấy chốc đã vạch được một đường thẳng. Bắt đầu từ chùa Thắng Nghiêm, kết thúc ở một điểm trên dãy Tần Lĩnh cheo leo chót vót, không có tên địa danh. Thấy cô ngước lên ra ý hỏi, tôi bèn gật đầu. “Ông anh và ông em rất có thể cũng phát hiện được mối tương quan ấy ở Kỳ Sơn, sau đó dựa theo vị trí suy từ pho tượng ở chùa Thắng Nghiêm, đi vào dãy Tần Lĩnh, tìm pho Lô Xá Na còn lại.”
Kido Kana hào hứng tiếp lời, “Cũng có nghĩa họ rất có thể đã tìm thấy Phật ngọc trong dãy Tần Lĩnh, nơi có pho Lô Xá Na làm dấu.” Nhưng liền sau đó, cô lại hoang mang, “Phật ngọc vốn được thờ tại Lạc Dương kia mà, sao lại trôi dạt sang tận xó núi hẻo lánh ở Kỳ Sơn?”
Tôi lắc đầu. “Em đừng quên, ngày mười sáu tháng Giêng năm Chứng Thánh thứ nhất, cũng tức là năm 695, minh đường đã bị hủy hoại trong một trận lửa lớn, rất nhiều báu vật bên trong cũng bị thiêu hủy. Pho tượng ngọc này có lẽ được chuyển đi ngay lúc đó, giấu vào một chỗ bí mật.”
“Vậy tiếp sau đây chúng ta phải làm gì?”
“Dĩ nhiên là tới thực địa xem xét rồi.” Tôi đưa tay trỏ dải Tần Lĩnh xa xa, vẻ bình thản.
Động Long Môn nằm về phía Đông Nam, cách di chỉ minh đường ở Lạc Dương chừng mười lăm cây số. Nếu suy luận của tôi chính xác thì pho Lô Xá Na bí ẩn cũng ở về phía Đông Nam cách chùa Thắng Nghiêm mười lăm cây số - vừa khéo nằm trong dãy Tần Lĩnh. Nghe thì gần, nhưng đây chỉ là độ dài đường chim bay trên bản đồ. Tần Lĩnh quanh co khúc khuỷu, trong núi không có đường mòn để đi, khó tránh phải vòng vèo leo núi, mười lăm cây số đường chim bay chẳng biết đi bao lâu mới đến.
Tôi thuật lại suy đoán này cho Cơ Vân Phù, anh ta cũng rất tán thành, muốn theo chúng tôi đi xem thử. Có điều anh ta phải giúp lão Thích giải mã sổ tay, không có thời gian. Bởi vậy tôi quyết định chỉ đưa Kido Kana đi theo. Vốn định tìm một người bản địa thông thuộc địa hình dẫn đường, nào ngờ trên đường lại đụng lão Tạ. Nghe nói chúng tôi muốn vào Tần Lĩnh, lão hăm hở đòi theo, vỗ ngực khoe rằng từ bé mình đã thuộc làu dải núi này, xuyên rừng vượt núi băng băng. Tuy lão nói cảm thấy đôi bên có duyên, nhưng tôi đoán nguyên nhân chủ yếu cũng vì chúng tôi rộng rãi thôi.
Chúng tôi mua ít trang bị leo núi ở Kỳ Sơn, còn chuẩn bị hai căn lều và đồ ăn dự trữ trong ba ngày. Giờ chưa vào thu, trong núi mới se lạnh, cắm trại ngoài trời rất hợp. Trước đây tôi từng theo người ta tới Trường Thành Tư Mã Đài ở gần Bắc Kinh chơi, có kinh nghiệm leo trèo, Kido Kana cũng kể khi còn ở Nhật thường đi vào núi sâu khảo sát những di chỉ đền thờ Thần đạo, đã quen tác nghiệp bên ngoài, về phần lão Tạ, năm xưa lão còn chạy từ Thiểm Tây đến tận Thành Đô, vừa đi vừa khất thực nên quãng đường ngắn tẹo này chỉ là chuyện nhỏ.
Vấn đề lớn nhất mà chúng tôi phải đối mặt là vị trí chính xác. Đây không phải là khảo sát một ‘vùng’, mà là một ‘điểm’, phải đến đúng ‘điểm’ đó mới có ý nghĩa.
Cuối cùng vẫn là Cơ Vân Phù ra tay giải quyết giùm. Anh ta tìm trong bộ sưu tập của mình một bản đồ quân sự cũ mèm, trông khá thân thuộc với Kido Kana, bởi do cục Tham mưu Nhật Bản khi xưa xuất bản. Trước chiến tranh thế giới, Nhật Bản đã phái rất nhiều gián điệp thâm nhập Trung Quốc, vẽ lại vô sô bản đồ tinh vi chính xác, thậm chí còn tiện dụng hơn cả bản đồ của người Trung Quốc. Tấm này là bản đồ địa hình quanh Kỳ Sơn, tuân thủ nghiêm ngặt cách vẽ bản đồ quân sự, các đường mức và nét vẽ đều cẩn thận tỉ mỉ, độ cao so với mực nước biển cũng được ghi rõ ràng, rất dễ dùng.
“Công nhận người Nhật làm việc đúng là đâu ra đấy.” Thấy tôi giũ giũ bản đồ, lão Tạ khinh khỉnh, “Mấy đường gấp khúc ngoắt ngoéo này sao bì được la bàn trong tay và huyền cơ trong lòng lão đây?” Dứt lời lão lôi la bàn phong thủy ra, xoay xoay một hồi, làm bộ siêu phàm thoát tục.
La bàn của lão làm từ gỗ hoàng dương, quanh rìa bóng loáng, nổi hồ bọc đỏ thẫm, như óc chó bị người bóp mềm, ngấm khí huyết, thoạt nhìn đã biết là món văn vật quý. Có điều tôi rất nghi ngờ tính thực dụng của nó, la bàn thì xoay được, nhưng chữ phía trên đã mờ gần hết, từ tính của kim chỉ Nam cũng chẳng biết thế nào.
Kido Kana im lặng kiểm tra hành lý của chúng tôi. Từ khi ‘đính hôn’, lúc tôi trò chuyện với người ngoài, cô không bao giờ chen vào, luôn đứng lùi lại sau lưng tôi, lựa lúc đưa áo khoác hay nước uống, dịu dàng đức hạnh như phụ nữ Nhật truyền thống.
Nghe nói chúng tôi sắp lên đường, anh Hồ đề nghị dẫn Hai Tần theo. Có điều tôi thấy gã vẫn để bụng thù chúng tôi, nên từ chối khéo. Trong núi rất nguy hiểm, cần đồng đội chân thành và đoàn kết, tôi không muốn vừa leo núi vừa phải đề phòng gã.
Chuẩn bị xong xuôi, chúng tôi chọn một buổi sáng, đi vào Tần Lĩnh từ một ngọn núi gần chùa Thắng Nghiêm. Cơ Vân Phù đưa chúng tôi đến tận chân núi, dặn dò đủ điều, nói rằng khi nào chúng tôi về, có khi đã giải xong mật mã rồi.
Ngọn chính của Tần Lĩnh nằm trong địa giới huyện Mi, huyện Thái Bạch, huyện Chu Chí, cao hơn ba nghìn mét so với mực nước biển. Kỳ Sơn tiếp giáp ba huyện ấy, thuộc chân núi Bắc của ngọn chính. Dáng núi nguy nga kỳ vĩ, thế núi trùng điệp nhấp nhô, phong thái không thể xem thường. Lúc mới vào núi còn có đường mòn chăn dê để bám theo, nhưng chẳng mấy chốc đường mòn cũng mất dấu. Chúng tôi đành men theo sườn núi cheo leo, dò dẫm trèo lên, có lúc để vượt qua một con dốc cao, phải lên xuống mấy mỏm núi. Thoạt đầu thỉnh thoảng còn thấy ruộng nương hoặc rừng cây công nghiệp trong thung lũng, nhưng đi mãi về sau, thông trắng, du tùng, cây đoạn dã sinh nhiều lên, từ lưa thưa lác đác dần thành um tùm rập rạp, nhiều loại chim muông không biết tên thoắt ẩn thoắt hiện. Chúng tôi đi suốt một buổi trưa, thế mà dò bản đồ còn chưa đến ba ki lô mét đường chim bay.
Cả đám đầm đìa mồ hôi đi đến một chỗ thấp trũng nằm ở khúc quanh của hẻm núi, chợt thấy một con suối trong vắt chảy ngang qua rồi uốn lượn dẫn vào sâu trong núi. Mọi người quyết định dừng lại nghỉ ngơi bên khe suối, ăn trưa lấy sức.
Tôi cúi đầu cầm la bàn xem bản đồ, nghiên cứu xem đi đường nào tối ưu. Bản đồ này tuy được vẽ kỹ càng, nhưng cũng không thể tin hoàn toàn được. Có những nơi hiểm trở nhưng đá núi gập ghềnh, có thể đặt chân bám víu, có nơi trống thì bằng phẳng nhưng lại là rừng cây san sát, không đi qua được. Lão Tạ cầm la bàn đi quanh một vòng, thấy tôi đang vò đầu bứt tai thì nheo mắt nói, “Nơi này gọi là Ma Nhổ Tóc. Nhìn mà xem, Đông một khe, Tây một dải, như bị ma túm đầu nhổ mất mấy nhúm tóc vậy, nổi tiếng khó đi, dân chúng quanh đây cũng ít khi lai vãng.”
“Nói vậy là ông cũng chưa từng đến hả?”
“Khụ! Chỗ này có gì báu bở đâu, trừ tội phạm trốn truy nã, ai lại tự dưng chạy vào núi làm gì.” Lão móc ra một cái màn thầu, ngồi xuống mép nước gặm.
Kido Kana không tham gia thảo luận, chỉ ân cần cắt cho tôi một lát bánh mì, phết sô cô la lỏng lên trên, còn rắc thêm mấy quả nho khô. Tôi đón lấy bánh mì cắn một miếng, cô lại đưa nước pha mật ong, thả vài lát chanh vàng tới, khiến lão Tạ ghen tị đỏ cả mắt.
Ăn uống no say, nằm xuống bãi cỏ nghỉ ngơi, cô chợt hỏi tôi: Phật ngọc vốn đặt ở minh đường tại Lạc Dương, vì sao ông tôi và Kido Yuzo lại đến Kỳ Sơn tìm?
Trước đây tôi từng tìm hiểu về vấn đề này. Dù sao cứ dò dẫm đi mãi cũng chán, tôi bèn kể cho cô nghe câu chuyện phía sau.
Minh đường vốn chỉ nơi để tuyên cáo chính lệnh và tế bái thời cổ, mang đậm màu sắc chính trị. Để chuẩn bị cho việc xưng đế, Võ Tắc Thiên đã cho xây một tòa minh đường ở Lạc Dương vào năm Thùy Củng thứ tư, cũng tức là năm 688, gọi là ‘Vạn Tượng thần cung’. Cai quản việc xây xướng là một gã người tình của bà ta, tên Tiết Hoài Nghĩa. Kẻ này vô cùng thông minh, chỉ huy mấy vạn dân công, lấy điện Càn Nguyên làm nền, chỉ mất một năm đã xây được minh đường hùng vĩ nguy nga.
Minh đường chu vi một trăm mét, cao gần trăm mét, ở thời nay cũng có thể coi là tòa nhà bề thế. Chia làm ba tầng, tầng cao nhất là một ngôi đình mái vòm, bên trong đặt một con kim phụng bằng sắt, ám chỉ Võ Tắc Thiên. Phía sau minh đường còn một tòa thiên đường, đặt pho tượng phật bồi vải cao cả trăm thước xung quanh bày nhiều vật khí Phật giáo, rất có thể pho tượng ngọc Đại Nhật Như Lai cũng bày ở đây.
Minh đường dựng được tám năm thì vào tết Nguyên Tiêu năm Chứng Thánh thứ nhất, để lấy lòng Võ Tắc Thiên, Tiết Hoài Nghĩa đã dốc hết tâm sức bày ra một buổi biểu diễn quy mô cực lớn. Y đào hố sâu năm mét trong minh đường, đưa một pho tượng Phật xuống, rồi dùng xích sắt kéo lên trước mặt Võ Tắc Thiên, xem như kỳ quan đức Phật hiện ra từ lòng đất. Y còn dùng máu bò vẽ một bức tranh Phật cao hai trăm thước, treo trên cầu Thiên Tân. Tiếc rằng Võ Tắc Thiên chẳng mấy mặn mà, bởi đang dồn hết tâm tư vào tình mới là Thẩm Nam Cù.
Tiết Hoài Nghĩa ganh ghét, ngay sau tết Nguyên Tiêu đã châm lửa đốt thiên đường. Thế lửa quá lớn, lan sang cả minh đường, thiêu trụi tất cả. Võ Tắc Thiên không muốn vạch áo cho người xem lưng, chỉ truyền ra ngoài là thợ thuyền sơ suất.
“Về sau trải qua nhiều lần tu sửa, song minh đường không thể khôi phục lại quy mô ban đầu. Đến loạn An Sử thì bị thiêu hủy hoàn toàn. Anh đoán tượng Phật ngọc đã được bí mật chuyển ra ngoài vào một trong hai lần hỏa hoạn ấy.”
“Nếu đưa Phật ngọc đến Trường An gìn giữ thì em còn hiểu được. Nhưng tại sao lại đưa nó đến vùng phụ cận Kỳ Sơn? Lẽ nào Kỳ Sơn có vị thế đặc biệt vào thời Đường ư?” Kido Kana hỏi. Tôi lắc đầu, tỏ ý không trả lời được. Thực ra mục đích chuyến này chính là để tìm hiểu câu chuyện đằng sau pho tượng ngọc mà.
Tôi phủi tay, đứng dậy đeo ba lô lên, chuẩn bị lên đường. Kido Kana ngồi dưới đất, giơ tay lên để tôi kéo dậy. Lão Tạ một mình đi trước, xưa nay chúng tôi trò chuyện, lão chẳng bao giờ chen vào. Tuy lão mồm mép tép nhảy, nhưng thực ra rất thông minh, hiểu rõ có những việc nên vờ không biết là hơn.
Lại dò dẫm trong núi suốt buổi chiều, từ bên sườn một ngọn núi cao ngất đi xiên vào chỗ giao nhau giữa hai vách núi, men theo vách đá cheo leo hẹp như sợi chỉ đi xuống. Những tầng đứt gãy tự nhiên ở đây hình thành nên một con đường mòn hiểm trở, cố thì cũng qua được, nhưng phải áp lưng vào vách núi, đi từ từ từng bước. Xem trên bản đồ, đây là một dải núi như tường bao bên ngoài, vượt qua mới thấy thế núi bên trong thoai thoải, dễ đi hẳn.
Trước khi mặt trời lặn, cuối cùng chúng tôi cũng băng qua được bức tường núi, đến một khe núi đầy trúc và cây thích. Địa hình nơi đây bằng phẳng, rất hợp dựng lều nghỉ lại. Đột nhiên lão Tạ la lên, chúng tôi nhìn theo ánh mắt lão, thấy sâu trong rừng thấp thoáng bóng một công trình kiến trúc.
Chúng tôi không nén nổi kinh ngạc trước phát hiện này, thực chẳng ngờ ở nơi heo hút vậy còn có người ở. Cả ba thận trọng dừng bước, định quan sát kỹ càng rồi tính. Công trình nọ bị trúc và thích che khuất phần lớn, trông mặt bắt hình dong có thể đoán được kích thước của nó khá nhỏ, còn thấp hơn nhà tranh bình thường. Trảng cỏ và rừng cây xung quanh không hề có vết chân người.
Lão Tạ quan sát một hồi, vuốt râu nhận xét, “Lấy thích làm màn, không phải nơi người ở.”
“Vậy là gì?”
Lão quay lại, nghiêm trang đáp, “Là một ngôi mộ.”
Tôi thở phào. Giữa chốn thâm sơn cùng cốc này, một ngôi mộ còn an toàn hơn một đám người không rõ lai lịch. Chúng tôi lại gần, quả nhiên là một nấm mồ. Nhìn bề ngoài, mộ này hẳn là từ thời Minh, xây bằng đá xanh khối lớn. Có điều nó từng bị trộm viếng thăm, bia đá trước mộ chỉ còn trơ bệ, cả ngôi mộ tênh hênh phơi ra như một người bị mổ phanh bụng, thấp thoáng thấy cả nửa phần vòm khum khum. Có lẽ kẻ trộm thấy nơi này hoang vắng không người nên chẳng kiêng dè gì, đến đường hầm cũng không buồn đào, khơi khơi quật mồ lên.
Quanh mộ cỏ hoang và cây bụi mọc cao gần như vùi lấp quá nửa ngôi mộ, không thấy dấu đường mòn đâu cả. Chứng tỏ dù năm xưa từng có người hương khói, thì nay nó cũng đã bị bỏ hoang lâu ngày, ngay chuyện bị trộm cũng là từ rất lâu rồi. Lão Tạ cầm la bàn xem xét một vòng, nói rằng ngôi mộ này hết sức kỳ lạ, nơi đây không có nước bao quanh núi, hình thế vừa tù túng vừa khô cạn, xây mộ ở đây rõ ràng không muốn người chết được yên.
Tôi theo thuyết vô thần, Kido Kana ở Nhật cũng chẳng lạ gì mồ mả, về phần lão Tạ thì tự xưng biết pháp thuật, ma quỷ không dám đến gần. Ba chúng tôi chẳng chút e sợ, cắm lều căng bạt nghỉ lại ngay bên cạnh mộ. Lão Tạ còn nói không cần ngủ trong lều, chỉ cần một phiến đá là đủ. Nhưng nghĩ thương lão đã có tuổi, chúng tôi cũng chẳng đành lòng để lão ngủ ven đường, bèn dúi cho lão một căn.
Có điều làm vậy lại nảy ra một vấn đề, chúng tôi chỉ còn một căn lều duy nhất. Tôi đang lúng túng thì Kido Kana đã chui vào, trải sẵn đệm hơi rồi lôi ra hai túi ngủ. Thấy thế tôi mới se sẽ thở phào.
Đi suốt một ngày, ai cũng mệt lử. Xong bữa tối, tôi và lão Tạ tán gẫu một chập rồi ai vào lều nấy. Vừa vén bạt đi vào, tôi đã thấy Kido Kana quỳ trên tấm đệm hơi, hai tay đặt trên đầu gối, “Anh về rồi ạ.” Giọng điệu dịu dàng như vợ đợi chồng đi làm về. Cô giúp tôi cởi áo khoác, cẩn thận gấp thành hình cái gối rồi đặt ở miệng túi ngủ. Tôi bỗng ngơ ngẩn nhận ra mình đã dần quen với sự có mặt của cô bên cạnh.
Tôi để ý thấy cô đã cởi áo khoác leo núi, bên trong chỉ mặc áo thun trắng, đường cong trên ngực chẳng kém gì núi Tần Lĩnh, hai cánh tay trắng nõn đến lóa mắt, khiến cả căn lều chìm trong không khí mờ ám khó tả. Có lẽ nhận ra ánh mắt tôi đang dừng ở đâu, cô đỏ bừng mặt, nhưng không hề né tránh, trái lại còn hơi ưỡn ngực ra. Tôi cuống lên, tay chân lóng ngóng chẳng biết đặt vào đâu. Kido Kana chăm chú nhìn tôi rồi đột ngột thở dài, “Sau khi rời Kỳ Sơn, anh định thế nào?”
Tôi hiểu ý cô. Về lý mà nói, tôi đang là một người mất tích, Minh Nhãn Mai Hoa chỉ biết tôi mất tích ở An Dương, dù cạy được miệng Trịnh Quốc Cừ hay Dược Bất Nhiên tiết lộ, họ cũng không biết được tôi đã âm thầm đến Kỳ Sơn. Khi tôi xuất hiện ở Bắc Kinh, nhất định sẽ làm dấy lên sóng to gió lớn, tạm không tính nhà họ Hoàng và họ Dược, chỉ riêng cục trưởng Lưu ắt cũng phải tìm cách gì đó ăn nói cho xuôi.
“Nếu lần này chúng ta tra rõ được chân tướng, họ sẽ không tính toán mấy chuyện vụn vặt này đâu.”
“Vậy cô Yên và anh Nhiên thì sao?”
Nghe đến hai cái tên này, tôi lặng thinh. Dược Bất Nhiên còn dễ ăn nói, song Hoàng Yên Yên lại là một cái gai, đâm không sâu, nhưng nhọn hoắt. Tuy luôn nhủ lòng tại nhà họ Hoàng làm khó, mình bất đắc dĩ phải chọn cách này, nhưng nói cho cùng vẫn là tôi lừa gạt cô ta. Hễ nghĩ đến cảnh cô ta không hiểu đầu đuôi, liều mạng với Trịnh Quốc Cừ trong làng, tôi thực không dám tưởng tượng nếu cô ta biết bị tôi lừa, sẽ phẫn nộ đến đâu.
“Ôi, đến lúc đó tính sau.” Tôi không nghĩ được cách nào khác, chỉ biết tạm thời gác chuyện đó lại.
Kido Kana níu tay tôi. “Em cảm giác Minh Nhãn Mai Hoa rất có thành kiến với anh, khó mà chấp nhận để anh trở về. Khi nào chuyện này kết thúc, chúng ta sang Nhật định cư đi. Nhà Kido nhất định sẽ chào đón con cháu của người xưa mà.”
“Để sau đi… À phải, Viện nghiên cứu Đông Bắc Á giờ đang làm gì?”
“Chủ yếu là sắp xếp, bảo tồn, giám định văn vật, nói ra thì công việc cũng tương tự với Hội nghiên cứu thôi. Nếu anh cùng em sang Nhật, có thể tới chỗ họ công tác.”
“Khụ, chuyện đó hơi xa đề rồi. Em bảo liệu có phải hiện giờ họ cũng tiến hành mấy giao dịch xuất nhập khẩu đồ cổ không?”
“Em không biết nữa.” Kido Kana lắc đầu. “Sao anh lại nghĩ tới chuyện này?”
“Hỏi đại ấy mà.”
Bấy giờ tôi mới sực nhớ ra phải rút tay về, hối hả chui vào túi ngủ. Kido Kana lắc đầu, không gặng tiếp, chỉ kéo khóa cửa lều lại rồi chui vào túi ngủ của cô. Lão Tạ bên kia đã ngáy như kéo bễ.
Đêm ấy tôi mất ngủ, cứ trăn trở mãi câu hỏi của Kido Kana. Suy nghĩ như một cái chày lớn, giã nát cơn buồn ngủ trong đầu, chảy nước be bét.
Mãi đến nửa đêm, cơ thể rã rời khó khăn lắm mới át được sự kháng cự của tinh thần, tôi đang mơ mơ màng màng thì chợt nghe thấy tiếng leng keng khe khẽ bên ngoài. Tôi lập tức tỉnh như sáo, khẽ khàng kéo khóa túi ngủ, nhìn qua ô cửa trên màn lều ra ngoài, thấy bóng người thấp thoáng trong rừng.
Hồi nhỏ xem phim phản gián, tôi học được một chiêu, chăng một sợi dây mảnh qua bụi cỏ bên ngoài, đầu dây buộc vào một cái que rồi chống một vỏ lon lên. Nếu có người chạm phải sợi dây, vỏ lon sẽ rơi xuống phát ra tiếng động. Lúc tối chúng tôi ăn nốt chỗ thịt ban trưa, thấy có vỏ lon rỗng, tôi bỗng nảy ý nghịch ngợm, đặt ra cái bẫy này, đặt xong cũng quên bẵng, không kể với ai. Chẳng ngờ nó lại có ích.
Bóng người thấp thoáng kia dường như cũng nghe thấy tiếng vỏ lon rơi xuống đất, toan quay đầu bỏ chạy. Tôi lắng tai nghe thấy bên kia lão Tạ vẫn ngáy o o nên nhất định không phải lão, quay sang nhìn thì Kido Kana cũng đang ngủ mê mệt. Không còn nghi ngờ gì nữa, rõ là người ngoài. Nghĩ tới việc ở nơi heo hút này còn một kẻ khác ngoài chúng tôi, tôi sởn cả gáy.
Tức thì tôi bò dậy, tiện tay cầm theo bi đông nước đem khi dã ngoại, lẻn ra khỏi lều. Đêm nay trời quang, trăng sao vằng vặc trên không, phủ xuống khe núi một màu xám trắng. Ngước mắt lên, tôi trông thấy cái bóng kia chạy đến bên ngôi mộ thì nhoáng lên một cái rồi biến mất. Khí lạnh từ gan bàn chân tôi xộc thẳng theo cột sống lên đến tận đỉnh đầu, dẫu theo thuyết vô thần, nhưng nửa đêm canh ba chạy đến bên mộ xem xét, tôi cũng hơi hốt. Tôi nuốt nước bọt, chạy sang gọi lão Tạ dậy trước.
Nghe tôi kể lại, lão Tạ lồm cồm bò ngay dậy, hào hứng xách la bàn và kim cương chử chui khỏi lều. Tôi định hỏi kim cương chử chẳng cũng là pháp khí nhà Phật hay sao, nhưng lại nghĩ ra nó còn có thể phòng thân hoặc đánh người…
Vô số cây thích san sát sừng sững xung quanh, dưới ánh trăng trông như một bầy xác sống đứng lặng. Lão Tạ nói, thế này thời xưa gọi là ánh xương, bởi trông giống ánh lân tinh lờ mờ phát ra từ xương người chết. Vào lúc này không thể ra ngoài ban đêm, càng không nên lại gần mồ mả, phải chú ý. Tôi phản bác hiện giờ chúng ta chẳng phải đang phạm vào cấm kỵ hay sao? Lão Tạ vỗ ngực, “Lão biết ngũ lôi chính pháp, hồn ma bóng quế nào dám lại gần.”
Hai chúng tôi đi quanh ngôi mộ một vòng, chẳng thấy động tĩnh gì. Bóng người kia không thể chạy đâu được, chỉ còn một khả năng là đã chui vào mộ. Ngôi mộ này đã bị quật ra, phần nấm khum khum nứt toác thành một cái hốc đen ngòm, như lối vào địa ngục. Tôi dặn lão Tạ cầm đèn pin soi vào miệng hốc rồi lần lượt tụt xuống.
Cái hốc chỉ vừa một người cúi lom khom chui vào, bên trong rờn rợn âm khí, đầu kia là cửa mộ hai cánh bằng đá xanh khép chặt, bên trên chạm hoa văn chim chóc. Đẩy mãi không được, tôi nhíu mày, “Ngôi mộ này từng bị trộm, sao cửa mộ vẫn nguyên xi thế nhỉ?”
Lão Tạ hốt hoảng, “Hay là ma thật?”
Tôi lắc đầu, hai tay chậm rãi lần sang bên cạnh, sực vỡ lẽ thốt lên, “Tôi hiểu rồi, cửa mộ này là giả.”
Đoạn tôi giải thích cho lão, mộ thất thời Minh để phòng kẻ trộm thường đặt cửa giả, khiến kẻ trộm có cửa mà không vào được, còn cửa mộ thực sự lại nằm ở chỗ khác. Hai bên cửa mộ này dầm đất rất chắc, người có kinh nghiệm sờ là biết không bình thường, chắc hẳn đám trộm mộ kia đào đến đây, nhận ra là giả nên không đào nữa.
“Vậy kẻ kia chạy đâu rồi?” Lão Tạ nhìn quanh, niềm háo hức đã át nỗi căng thẳng.
Tôi hỏi lại, “Ông biết phong thủy cơ mà? Chỗ tốt ở đâu?”
Lão Tạ luống cuống tính toán một hồi rồi nói ở phía Đông Nam, lật đật toan đi về phía ấy thì bị tôi kéo lại. Lão gắt gỏng, “Cậu muốn tìm cửa mộ mà?”
Tôi vội đáp, “Lúc trước tôi nói rồi còn gì? Kẻ xây mộ này chỉ nhăm nhăm làm khó chủ mộ, vậy cửa mộ dĩ nhiên không đặt ở chỗ tốt, mà sẽ làm ngược lại, đặt ở phía Đông Bắc đối diện.”
Hai chúng tôi chui ra khỏi hốc, chạy đến góc Đông Bắc ngôi mộ. Tôi tinh mắt, dưới ánh trăng cũng thấy gần đó có một chỗ hơi gồ lên, liền chạy đến, bắt gặp một cửa động nằm khuất trong bụi cỏ, bên cạnh còn xếp chồng mấy tảng đá, trông chẳng ra trật tự nào hết. Lão Tạ vừa trông đã hô lên đây là đá trấn mộ, được xếp theo phương vị Bắc Đẩu thất tinh.
Tôi đi đến cửa động quát vọng vào trong, “Mau ra đây đi! Bằng không chúng tao bịt cửa động xả khói vào đấy!” Hồi lâu, bên trong phát ra tiếng xì xì như rắn bò, rồi một cánh tay vươn ra, sau đó là một gương mặt quen thuộc.
“Hứa Nguyện, chúng ta lại gặp nhau rồi!” Phương Chấn cười nhẹ hều.
Tôi thực không ngờ kẻ chui ra từ ngôi mộ cổ vô danh trong dãy Tần Lĩnh này lại là Phương Chấn. Nếu bên trong chui ra một thây ma, tôi cũng chẳng kinh ngạc đến thế. Kẻ này là tay sai đắc lực của cục trưởng Lưu, lúc nào cũng tỏ vẻ bí hiểm khiến tôi không sao lường nổi. Một nhân vật thần bí như vậy lại chạy đến chốn khỉ ho cò gáy này, chui vào một ngôi mộ, quả là không bình thường.
Trước cái nhìn chằm chằm của tôi, Phương Chấn ung dung trèo ra, phủi bụi đất trên người rồi châm một điếu thuốc, “Tôi cứ nghĩ trốn trong đó là được, ai ngờ cậu tinh mắt thế.”
“Anh giải thích được không?”
“Cửa mộ này tôi cũng vừa tìm được thôi, tuy không lớn nhưng ẩn nấp rất tiện. Trước đây tôi từng ra trận, động đá tai mèo còn khó chui hơn nhiều!”
“Tôi không hỏi chuyện đó!” Tôi nổi giận đùng đùng, “Tôi hỏi anh sao lại đến tận đây kia!”
Bị chất vấn, Phương Chấn chỉ hờ hững nhìn tôi, bình thản đáp, “Đơn giản thôi, tôi vẫn luôn bám theo cậu mà.”
“Bám theo tôi?”
“Cậu vừa đến Kỳ Sơn đã rơi vào phạm vi theo dõi của tổ công tác phía cảnh sát rồi, cậu chưa bao giờ rời khỏi tầm mắt tôi.” Phương Chấn giải thích ngắn gọn như đang nói một chuyện vụn vặt hằng ngày. Song tôi lại sững sờ, thực không hổ là cơ quan hành pháp của bộ máy nhà nước, tôi cứ ngỡ mình như Tôn Ngộ Không, đã vượt ra ngoài tam giới, không còn nằm trong ngũ hành nữa, ngờ đâu vẫn chẳng thoát được lòng bàn tay Phật Tổ.
Lão Tạ nghe nói Phương Chấn là cảnh sát, liền rụt cổ thẽ thọt bảo tôi, “Lão đánh mất chứng minh thư lâu rồi, không tiện hàn huyên trò chuyện với người nhà nước, lão về lều trước đây.” Dứt lời vội quay lưng đi ngay, bỏ lại mình tôi trong rừng cùng Phương Chấn. Tôi nhìn chằm chằm Phương Chấn, y cũng nhìn tôi, chẳng ai nói gì. Y không mặc cảnh phục mà đã thay sang bộ đồ leo núi bằng vải dù nâu xám, thoạt trông như huấn luyện viên câu lạc bộ leo núi ở trường đại học, có điều nét mặt vẫn lạnh tanh bình thản, tựa hồ trên đời chẳng có chuyện gì đáng để y nhíu mày.
“Nói vậy là tôi vừa rời An Dương đã bị các vị theo dõi rồi ư?” Tôi hỏi.
Phương Chấn lắc đầu, phóng mắt nhìn ra căn lều đằng xa, “Chúng tôi mất dấu anh ở An Dương, cả cục xôn xao. Về sau tổ công tác nêu ý kiến, cho rằng anh và Kido Kana có thể đã bí mật hẹn nhau, vừa hay cô ta lại xin đến Kỳ Sơn, nên tôi bám theo.”
Nói tới đây, Phương Chấn tủm tỉm cười, còn tôi than thầm trong bụng, rõ ràng họ đã nhầm lẫn về thứ tự trước sau trong câu chuyện này, tôi tới Kỳ Sơn rồi mới hợp tác với Kido Kana, nhưng giờ có nhảy xuống Hoàng Hà cũng chẳng thanh minh nổi. Tôi mau chóng gạt bỏ ý nghĩ này, ướm hỏi, “Nói vậy là tôi giao thiệp với tay họ Hồ và Cơ Vân Phù, anh đều biết cả ư?”
Phương Chấn chẳng ừ hử gì, chỉ rít một hơi thuốc, đầu thuốc đỏ rực lên giữa rừng cây tăm tối. Tôi sợ nhất kiểu phản ứng bí hiểm khó lường thế này, chẳng rõ y biết hay không, đành đằng hắng một tiếng, “Tôi không phải tội phạm truy nã, cũng không phải gián điệp, càng không làm gì phạm pháp. Sao anh cứ úp úp mở mở thế?”
“Nhiệm vụ của tôi là theo dõi bảo vệ, cục trưởng Lưu không bảo tôi can thiệp hay dò la hành động của các vị.” Phương Chấn đáp. Nghe vậy, tôi mới thở phào. Nếu y nói thực, chứng tỏ ‘tổ công tác’ của y chỉ biết tôi đã tiếp xúc với những ai ở Kỳ Sơn, còn về việc tôi và Cơ Vân Phù, Kido Kana trò chuyện những gì, họ không hề hay biết.
Tôi lén nhìn đôi giày bata cũ dưới chân Phương Chấn, thầm bội phục. Cùng là theo dõi bảo vệ, nhưng theo dõi ở thị trấn là một chuyện, bám đuôi vào tận trong núi lại là chuyện khác. Y chỉ có một mình, vừa phải đề phòng đường núi hiểm trở, lại phải đuổi theo sau chúng tôi mà không để bị phát hiện, thực không dễ dàng. Y nói trước đây mình từng đi lính, quả nhiên nhanh nhẹn khác thường.
Theo lý, lúc này Phương Chấn nên hỏi “Các vị tới Tần Lĩnh làm gì?” Nhưng dường như y không hứng thú với đề tài ấy nên chẳng buồn hỏi rõ ngọn ngành, chỉ mải hút thuốc.
Tôi thở dài. “Giờ anh lộ rồi, định thế nào đây? Giết người diệt khẩu à?”
“Tôi chưa nhận được lệnh ấy.” Phương Chấn thản nhiên nhìn tôi, “Nếu cậu không ngại thì tôi muốn đi cùng. Kinh nghiệm dã ngoại của tôi khá phong phú đấy.”
Thấy y tự tin hiên ngang, tôi cũng chẳng có cách nào từ chối. Cục trưởng Lưu ủy thác cho chúng tôi điều tra vụ việc đầu Phật, lại phái Phương Chấn bảo vệ, về lý thì chúng tôi là một đội, chẳng có cớ gì gạt y ra ngoài. Tôi nhủ bụng vậy cũng hay, ngửa hết bài lên rồi, ít nhất y sẽ không lẩn lút theo đuôi như âm hồn bất tán nữa.
“À phải, tình hình bên kia thế nào?” Tôi hỏi mà áy náy không thôi.
Phương Chấn đáp, “Trịnh Quốc Cừ chịu để điều tra rồi, nhưng chứng cứ không đủ, chẳng bao lâu sẽ được thả thôi. Hoàng Yên Yên đã quay về Bắc Kinh, Dược Bất Nhiên báo với ông Dược rồi ở lại An Dương xử lý việc trong gia tộc.”
Tôi thở phào, ít nhất mọi người đều bình yên vô sự.
Tôi dẫn Phương Chấn về chỗ cắm trại, y tự giác tìm một phiến đá phẳng nằm xuống ngủ. Trước ánh nhìn chằm chằm của y, tôi đành chai mặt chui vào lều Kido Kana, thầm nghĩ đúng là càng chữa càng hỏng.
Náo động một hồi, tôi không còn trằn trọc nữa mà đánh một giấc thẳng đến sáng. Tỉnh dậy thấy trong lều trống không, tôi vội thò đầu ra ngoài thì ngửi được mùi thịt thơm nức. Thì ra Phương Chấn chẳng biết bằng cách nào đã tóm được một con thỏ hoang, xiên cành trúc qua, đang nướng xèo xèo. Kido Kana và lão Tạ ngồi hai bên, tay bưng ống trúc hai đốt, bên trong đựng cơm trắng ngần, nhỏ nhẻ ăn.
Thấy tôi thức giấc, Kido Kana bước đến đưa khăn mặt đã dấp nước sẵn. Tôi lau mặt rồi trao đổi bằng ánh mắt với cô, không nói năng gì. Phương Chấn nói y chỉ phụ trách an toàn, nhưng chúng tôi vẫn không tiện trò chuyện trước mặt y. Kido Kana viết hai chữ ‘cẩn thận’ vào lòng bàn tay tôi, tôi gật đầu viết lại, ‘Tùy cơ ứng biến’.
Nhìn Phương Chấn đã dỡ lều gọn gàng đâu ra đấy, tôi chợt sinh nghi: Y lão luyện nhường ấy, lẽ nào lại sơ ý đến mức để tôi phát hiện, buộc phải ra mặt đi cùng chúng tôi? Nhiệm vụ của Phương Chấn là âm thầm bảo vệ chúng tôi, việc gì nửa đêm phải mạo hiểm tiếp cận lều trại. Trừ phi… y cần tiếp cận ai đó, hoặc lấy thứ gì đó?
Chẳng mấy chốc mọi người đã dùng xong bữa sáng, chúng tôi thu lều lại sẵn sàng, chuẩn bị lên đường. Phương Chấn bỗng đi đến, đưa cho tôi một thứ, “Nhặt được ở lối vào mộ đêm qua đấy, tôi không hiểu gì cả, cậu xem xem.” Tôi cúi nhìn, ra là một đồng tiền vàng rực, bề mặt loang lổ gỉ sét, lỗ vuông cũng hơi sứt mẻ. Mặt phải đồng tiền khắc bốn chữ bao quanh lỗ vuông: ‘Nhữ nam thế đức’, mặt trái cũng có bốn chữ nhưng đã mờ hết, chỉ thấy được một chữ nhân và một chữ tâm.
Tôi bảo họ, đây là tiền hoa, một loại tiền tự đúc trong dân gian, không được lưu thông như đồng tiền chính thức, thông thường chỉ dùng để kỷ niệm hoặc lấy hên những lúc ma chay cưới gả nên bên trên sẽ khắc những câu hợp tình hợp cảnh. Chúc thọ thì khắc ‘trường mệnh bách tuế’, thăng chức thì khắc ‘gia quan tiến lộc’, nên còn gọi là tiền chúc phúc. Đồng tiền hoa mà Phương Chấn nhặt được hẳn là một trong các thứ tùy táng, có lẽ kẻ trộm đã để rơi ở lối vào mộ.
‘Nhữ nam thế đức’ có lẽ chỉ dòng họ của chủ mộ, nhưng bốn chữ này có thể ứng với khá nhiều họ, Chu, Trần, Hứa đều được, về phần bốn chữ ở mặt trái thì khó mà luận ra được. Tôi không phải dân khảo cổ chuyên nghiệp, chỉ giải thích được đại khái thôi.
Phương Chấn nghe vậy ‘ồ’ lên một tiếng, nhét đồng tiền vào túi, lặng thinh nheo mắt nhìn ngôi mộ. Lão Tạ tức thì sán tới lấy lòng, “Đồng chí cảnh sát có cần dùng la bàn không?”
Phương Chấn xua tay, “Khỏi cần, tôi đâu biết xem phong thủy, chỉ đang suy đoán ngôi mộ này sao lại bị trộm viếng thăm thôi.” Đoạn y nửa cười nửa không, liếc lão Tạ, “Trước kia tôi làm bên hình sự nên bị bệnh nghề nghiệp ấy mà.” Lão Tạ run bắn lên, lại càng thêm khúm núm.
Đội thám hiểm mới bổ sung thêm một người của chúng tôi tiếp tục lên đường, Phương Chấn đeo ba lô nặng nhất đi đầu. Trước lúc xuất phát, tôi không hề cho Phương Chấn biết chúng tôi muốn tìm gì, mà y cũng không hỏi. Tôi chỉ đánh dấu địa điểm nọ trên bản đồ rồi đưa cho y, yêu cầu y dẫn chúng tôi đi theo con đường nhanh nhất và an toàn nhất để tới đó.
Phải thừa nhận rằng, có một tay quân nhân giải ngũ như Phương Chấn, chúng tôi đi nhanh hẳn lên. Bản đồ quân sự cũ của Nhật nằm trong tay kẻ có nghề, quả nhiên phát huy tác dụng hơn hẳn. Y dẫn chúng tôi băng băng trèo đèo vượt núi, không chút chần chừ, gặp chỗ quá cheo leo, y còn vai vác tay kéo, lần lượt đưa từng người chúng tôi an toàn vượt qua. Cuối cùng tôi cũng hiểu vì sao hôm trước y có thể theo sát chúng tôi mà không hề để lộ dấu vết, so với tay quân nhân thông thạo tác chiến giữa núi rừng này, đám bọn tôi chỉ là một bầy trẻ con mẫu giáo đi dã ngoại.
Đáng tiếc nhất là, có y ở đây, tôi và Kido Kana gần như không cách nào trò chuyện được, dọc đường cứ im như thóc.
Đi trong núi hơn một ngày nữa, đến hơn hai giờ chiều ngày thứ ba thì Phương Chấn thông báo chúng tôi đã đến rất gần mục tiêu. Y trỏ ngọn núi nhỏ như con ốc cách đó mấy ki lô mét, “Nơi các vị muốn đến nằm ở ngọn núi kia kìa.” Tôi khum tay che mắt nhìn sang, thấy đó là một ngọn núi trơ trọi, tách riêng ra khỏi thế núi chạy dài xung quanh, dáng núi dốc dựng đứng, các lớp đá xếp chồng lên nhau như xoắn ốc, hai bên sườn núi đều ngả về trước, nhưng đỉnh núi lại khá bằng phẳng, được thảm thực vật xanh ngắt bao phủ. Trông hơi giống núi Mạch Tích thu nhỏ, có điều trên vách không có tượng đá, chỉ có dây leo chằng chịt.
Lão Tạ cầm la bàn xem xét một lượt, bỗng ‘ồ’ lên một tiếng đầy nghi hoặc. Tôi hỏi có chuyện gì, lão đáp mình đo đạc vị trí, phát hiện ngọn núi nhỏ này và phần mộ trong khe núi hôm qua tình cờ lại đối ứng hướng vào nhau. Tôi gặng hỏi cặn kẽ, lão bèn tuôn ra một tràng ngũ hành bát quái phong thủy vân vân nghe mà nhức cả óc. Tôi phải giục nói ngắn gọn thôi, lão mới sờ cổ đáp nếu chỉ xét riêng hình thế ngôi mộ hôm qua vừa tù túng vừa khô cạn, nhưng kết hợp ngọn núi hình ốc này thì cục diện vây hãm hồn phách người chết kia lại trở thành thế giữ mộ.
“Nếu trên núi kia có mộ cổ, vậy thì ngôi mộ hôm qua là mộ trấn bên ngoài của nó, cũng như tượng Ông Trọng bên lối dẫn vào lăng mộ đế vương vậy, cũng có nghĩa là dùng người chết chôn theo để giữ mộ.” Nói xong, lão chặc lưỡi. Chúng tôi nhìn về phía ngọn núi xoắn ốc sừng sững trơ trọi đằng xa, lòng không khỏi ớn lạnh. Chỉ riêng Phương Chấn vẫn trơ trơ, xòe bàn tay đoán phương hướng theo mặt trời.
Nghỉ ngơi chốc lát, chúng tôi lại sửa soạn lên đường. Mục tiêu đã sờ sờ trước mắt, ai nấy đều hăng hái tinh thần, bước đi như bay, chẳng mấy chốc đã đến chân núi phía Nam của ngọn núi nọ.
Ngọn núi xoắn ốc sừng sững đứng tách ra khỏi quần thể núi, nhìn từ xa không mấy cao, nhưng tới gần mới thấy chẳng vừa, từ chân đến đỉnh tính sơ cũng phải hai trăm mét. Vì chuyển động của địa chất nên những ngọn núi đơn lẻ thế này đều hiểm trở khác thường, độ dốc có lúc đạt tới năm sáu mươi độ, nơi cheo leo một chút thậm chí đến tận tám mươi độ, đừng hòng có đường đi lối lại gì. Bởi vậy trước hết chúng tôi phải chuẩn bị thừng leo núi, lúc cần thiết có lẽ phải bám vào đá mà leo lên.
Nhưng khi đi vòng sang sườn Bắc ngọn núi, cả đội đều sững ra. Bên sườn núi có một sạn đạo như con rồng nhỏ men theo vách núi uốn lượn mà lên, quanh co khúc khuỷu, thông thẳng tới đỉnh.
Lão Tạ lại gần mấy bước, nhíu mày nhận xét, “Con đường này nhìn cứ kỳ dị làm sao ấy…”
Tôi hỏi nguyên do, lão giải thích Tần Lĩnh từ xưa đã nhiều sạn đạo, nổi tiếng có đường Bao Tà, đường Kim Ngưu, những con đường nhỏ càng không kể xiết, đã đi cả vào thành ngữ “ngoài sửa sạn đạo, trong đánh Trần Thương”. Hồi trẻ, lão đã đi rất nhiều lần, nắm rõ từng loại. Theo lão, sạn đạo cổ thường phải đục lỗ to trên vách núi, cắm đòn dông lớn vào, thẳng hoặc xiên tùy ý, sau đó trải ván gỗ lên, có lúc còn dựng cả mái để che mưa. Cách này vừa tốn thời gian lại mất sức, phải mấy năm mới xong.
Nhưng con đường trước mắt này gần như chẳng thấy lỗ đục và đòn dông đâu cả, chỉ có mấy chục sợi thừng kép to tướng khéo léo dựa vào thế núi gập ghềnh, dùng móc nối, dây treo cùng nguyên tắc đòn bẩy treo lơ lửng trên không, như một cây cầu treo. Xét trên góc độ công trình học, gần như đã phát huy cách mượn lực đến cực điểm, quả là một kiệt tác.
Kido Kana buột miệng thốt ra một câu tiếng Nhật, thái độ khá kích động. Thấy ba chúng tôi đều ngạc nhiên nhìn sang, cô bèn đổi sang tiếng Trung giải thích, mình từng trông thấy loại cầu thế này, là một dạng ‘cầu núi’ do người Ainu ở Hokkaido phát minh ra, gọi là ‘kunu’, dùng dây mây quấn quanh từng gờ đá nhô lên trên vách núi rồi lần lượt mắc từng tầng ván gỗ, cách này tốn ít thời gian, cũng không cần huy động đông người, phù hợp với những ngọn núi nhỏ, không cao lắm nhưng địa thế hiểm trở. Ông Kido Yuzo từng viết một bài nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực ấy, còn được trao giải thưởng. “Nói vậy là con đường này rất có thể do ông Kido Yuzo bắc ư?” Tôi buột miệng hỏi. Kido Kana gật đầu, nhìn hàng dây treo lủng lẳng, mắt rơm rớm.
Từ Kỳ Sơn đến núi này, dù đi đường vòng cũng chỉ mất năm ngày là cùng. Vậy mà Kido Yuzo và ông tôi lại ở đây hơn hai tháng, thực khiến người ta khó hiểu. Giờ trông thấy con đường kunu này, tôi đoán rất có thể trong hai tháng đó, hai người họ, hoặc ba, dưới sự chỉ đạo của Kido Yuzo đã bắc đường để đi lên đỉnh núi.
Nhưng như vậy lại nảy ra một vấn đề khác. Núi ốc không khó leo, dùng trang thiết bị leo núi thông thường cũng thừa sức lên đến đỉnh. Sao phải mất công bắc một con đường theo kiểu người Ainu làm gì? Hay họ muốn chuyển thứ gì lên núi, hoặc đưa thứ gì xuống…
“Xem ra phải lên đỉnh mới biết được câu trả lời.”
Tôi rảo bước tiến lên trước, nhưng bị Phương Chấn giữ lấy vai, “Cậu không được đi, con đường này lâu ngày không sửa sang, e rằng dây thừng và ván gỗ đều mục cả rồi, liều lĩnh bước lên nguy hiểm lắm.”
Kido Kana cũng góp lời, “Anh Phương nói đúng lắm. Đường kunu kiểu này không được bền, người Ainu cũng chỉ sử dụng tạm thời thôi. Dù ông em dùng vật liệu tốt đến đâu chăng nữa thì bấy nhiêu năm rồi, ai dám chắc nó còn dùng được nữa.”
“Vậy phải làm sao? Bám vào vách núi trèo lên như kế hoạch ban đầu à?” Tôi nghĩ ngợi.
Phương Chấn không đáp mà đi tới lối vào con đường, ngẩng đầu quan sát hồi lâu, đạp chân lên ván gỗ rồi dùng tay lắc lắc dây thừng, quay lại bảo, “Đường này chia đoạn, cứ hai mươi mét lại có một hệ thống thừng riêng. Lát nữa tôi đi trước, các vị đi sau cách tôi hai mươi mét, đợi tôi xác nhận đoạn đường dưới chân an toàn rồi, các vị hẵng bước lên. Chú ý chỉ được giẫm lên những miếng ván gỗ tôi giẫm thôi nhé.”
Thấy y hăng hái như vậy, tôi rất áy náy. Việc này quá đỗi nguy hiểm, người đi đầu chỉ hơi sơ sẩy là mất mạng như chơi. Bèn can, “Anh đâu cần theo chúng tôi lên làm gì.”
Phương Chấn cười thản nhiên, “Đây là nhiệm vụ của tôi.”
Chẳng còn cách nào hơn, chúng tôi đành đồng ý. Phương Chấn chỉ lão Tạ, “Ông đứng dưới canh, lỡ phía trên xảy ra chuyện gì thì mau mau đi báo với người khác.” Lão Tạ có vẻ rất sợ Phương Chấn, cun cút gật đầu.
Chúng tôi bỏ tất cả đồ nặng dưới núi, giao cho lão trông, chỉ đem theo chút đồ ăn và toàn bộ thừng, móc leo núi, Kido Kana còn cầm theo máy ảnh mini. Phương Chấn đi trước, Kido Kana đi giữa còn tôi khóa đuôi, ba người thận trọng bước lên sạn đạo.
Khỏi phải nói thêm về độ nguy hiểm nữa, con đường cũ kỹ này đã giấu mình trong bụi cỏ hơn sáu mươi năm, đi mỗi bước mỗi lắc lư, phát ra tiếng ken két khiến người ta thót cả tim. Để giữ thăng bằng, chúng tôi phải đi cách nhau rất xa, hết một đoạn lại móc một móc bảo hộ lên vách đề phòng con đường sụp xuống đột ngột. Tôi nhìn chằm chằm khoảng không bên dưới, đầu gối nhũn cả ra, nghĩ tới hơn sáu mươi năm trước, ông nội tôi và ông nội Kido Kana cũng dò dẫm từng bước lên đỉnh núi thế này, chợt cảm thấy kỳ diệu vô cùng, tưởng như thời gian đang nối liền lại.
“Nếu trượt chân rơi xuống, chẳng biết có ai rơi nước mắt cho mình không nhỉ.” Trong đầu tôi chợt lóe lên ý nghĩ ấy. Những người thương tôi đều không còn trên đời này nữa, họa may chỉ có Kido Kana? Hoặc Hoàng Yên Yên? Tôi cũng chẳng tin lắm.
Núi ốc chỉ cao chừng hai trăm mét, chúng tôi dò dẫm hơn một tiếng mới chật vật lên đến đỉnh. Cả ba đều thở hồng hộc, bắp chân đau như dần vì căng cơ. Tôi còn chưa kịp lấy hơi đã thấy Kido Kana bấu chặt tay mình, móng tay bấm cả vào da thịt đau nhói.
Nhìn theo ánh mắt cô, tôi thấy trước mặt là một bức tường gạch cao hơn hai mét, dưới ánh nắng chiều trông càng sừng sững. Giữa đỉnh núi hoang vu chót vót thế này tự dưng lại mọc ra một kiến trúc nhân tạo. Tôi không khỏi nín thở, nheo mắt nhìn kỹ.
Không nhìn thì thôi, càng ngắm nghía lại càng thấy quen. Tôi nhìn sang Kido Kana, thấy cô gật lia gật lịa, tỏ ý tôi không nhìn nhầm. Tôi vội rút trong túi ngực ra một tấm ảnh giơ lên trước mặt. Quả nhiên bối cảnh bức ảnh chụp chung của Hứa Nhất Thành và Kido Yuzo chính là bức tường này. Dẫu trải qua nhiều năm, bức tường đã bị xói mòn sạt lở nhiều, nhưng dáng vẻ cơ bản vẫn giữ nguyên, chẳng qua giữa những kẽ gạch đâm ra nhiều cỏ dại hơn thôi. Chúng tôi cứ ngỡ bức ảnh này được chụp tại một thành cổ bí ẩn nào đó, ngờ đâu lại ở trên đỉnh núi cao này.
Đường sạn đạo và tấm ảnh là minh chứng rành rành chứng tỏ mục tiêu cuối cùng trong chuyến khảo sát bí mật của Hứa Nhất Thành và Kido Yuzo năm 1931 nằm trên đỉnh núi này. Tuy đã chuẩn bị tâm lý, nhưng khi chân tướng gần trong gang tấc, chúng tôi vẫn không nén nổi bàng hoàng và mừng rỡ. Thậm chí tôi có thể nghe được tiếng tim Kido Kana đập thình thịch.
Bức tường này không dài lắm, chỉ khoảng năm sáu mét, ngoặt vào trong như bao quanh thứ gì đó. Phương Chấn dựa vào chân tường châm điếu thuốc, khoan thai nhìn ra rặng núi phía xa, chẳng buồn để tâm đến cảnh tượng kỳ lạ trước mặt, thậm chí không thèm lại gần xem. Quả như đã nói, y chỉ phụ trách bảo vệ chúng tôi, ngoài ra chẳng quan tâm bất cứ chuyện gì khác.
Trái lại, nỗi tò mò của tôi và Kido Kana đã căng đầy đến sắp vỡ tung. Hai chúng tôi sải bước thật nhanh đi vòng qua bên kia bức tường bao, trông thấy một cổng đá đã sạt phân nửa. Băng qua cổng đá, chúng tôi dừng lại.
Nơi này cách Đại Nhật Như Lai ở chùa Thắng Nghiêm đúng mười lăm ki lô mét, chính là địa điểm giả định thờ Phật Lô Xá Na. Nhưng chúng tôi chẳng thấy pho Lô Xá Na nào, cũng chẳng thấy mồ mả gì như lão Tạ nói.
Trước mắt chỉ có một ngôi miếu nhỏ xập xệ. Ngôi miếu quá nhỏ, thậm chí còn chẳng bằng miếu thổ địa nhan nhản ở quê. Gọi là khám thờ xây bằng đá thì đúng hơn. Phía trên khám thờ hình mây đùn, khắc chìm một bảng đá ‘Nghĩa tại xuân thu’. Trong khám đặt pho tượng đồng cao bằng nửa người, mắt phượng xếch lên, râu dài đến thắt lưng, tay cầm cây Thanh Long Yển Nguyệt đao.
Đây là miếu Quan Công.