Một lạng quả dành dành, một gói trà đen, mười hạt sồi ư?
Tôi ù ù cạc cạc, cái gì đây? Đông y có đơn thuốc thế này à? Ba thứ này chẳng có gì hiếm hoi, liệu có lay động nổi Lưu Chiến Đấu không? Hay có người gửi tin nhắn nhầm?
Còn đương phân vân, tin nhắn thứ ba đã nhảy ra giục giã, “Không còn thời gian đâu.”
“Thôi đành lành làm gáo vỡ làm muôi vậy…” Tôi đeo lại máy nhắn tin vào thắt lưng.
Tuy ba thứ kia khá phổ biến, nhưng gom được cũng chẳng phải dễ. Tôi ghé vào hiệu thuốc gần đường Hoài Hải, chịu đựng ánh mắt khinh miệt của chủ quầy để mua một lạng quả dành dành, sau đó lại tới tiệm tạp hóa mua một hộp trà đen đóng gói (người ta không bán lẻ từng gói), cuối cùng mặt dày đếm lấy mười hạt sồi trong hiệu bán đồ khô.
Bỏ cả ba vào một túi ni lông nhỏ, tôi quay lại gặp Lưu Chiến Đấu lần nữa. Lưu Chiến Đấu đang vui vẻ gọi điện thoại, thấy tôi quay lại vẫn không ngừng nói, chỉ bực bội khoát tay ra ý đuổi đi.
Tôi lặng thinh đặt túi ni lông lên bàn, mấy quả dành dành và hạt sồi lăn ra, còn để lộ nửa gói trà.
Nói cũng lạ, vừa thấy ba thứ đó, Lưu Chiến Đấu bỗng biến sắc. Ông ta nói qua loa mấy câu rồi vội vã dập máy, trừng mắt nhìn tôi tóe lửa.
“Cậu có ý gì?”
“Ông muốn tôi nói thẳng ra không?” Tôi chẳng hiểu gì cả, nhưng vẫn cố tình úp mở.
Lưu Chiến Đấu đứng ngồi không yên, cứ như đám chậu cảnh trên cửa sổ đã dời hết sang ghế ông ta vậy. Tôi nửa cười nửa không, ung dung nhìn thẳng Lưu Chiến Đấu. Không chịu nổi ánh mắt tôi, ông ta hạ giọng, “Rốt cuộc cậu muốn thế nào?”
“Nghe nói phương thuốc này giúp cải thiện trí nhớ nên tôi mang đến cho ông.” Tôi cân nhắc câu chữ rồi nói ngắn gọn, thế này vừa có uy lại đỡ sợ lỡ lời.
Quai hàm Lưu Chiến Đấu giần giật, một lúc sau gương mặt trắng trẻo của ông ta mới miễn cưỡng nặn ra được một nụ cười, “Ai chà, cậu đi rồi, tôi nghĩ kỹ lại mới láng máng nhớ ra. Nếu cụ Lưu đã sai cậu điều tra, tôi cũng đâu thể để cụ thất vọng.”
Tôi thầm nhủ phương thuốc này thật là hữu hiệu, tác dụng tức thì, liệu có phải là vu cổ mà tiểu thuyết võ hiệp hay nói không nhỉ? Bằng không làm sao giải thích thái độ quay ngoắt của Lưu Chiến Đấu đây?
“Ông nói đi, tôi nghe đây.”
Lưu Chiến Đấu rút một miếng khăn ra thấm mồ hôi trán rồi mới nhận ra đó là khăn lau kính. Ông ta bực bội vẩy tay rồi bảo tôi, “Cửa hàng đó tên Phàn Hộ Ký, ông chủ họ Phàn. Là một cửa hiệu nhỏ ở Thượng Hải, quy mô không lớn nhưng khá uy tín.”
“Ông cụ mà ông làm khó dễ ngày xưa chính là ông ấy à?”
“Lúc ấy tôi không cố ý làm khó ông ta. Bấy giờ càng nghèo càng vẻ vang, ai nghĩ đến chuyện bán đồ cổ lấy tiền chứ. Tôi được… ừm, cậu cũng biết đấy, được người ta giao phó nên mới ép giá. Ai ngờ ông Hoàng lại đi công tác qua đây.”
Thấy ông ta ấp úng, tôi sinh nghi, xem chừng tay này còn câu kết với ai đó, hơn nữa lại ngỡ rằng tôi “hẳn” đã biết. Tôi định hỏi thêm nhưng sợ lòi đuôi, đành thản nhiên gật đầu, “Vậy ông chủ Phàn thế nào rồi?”
“Ôm chết lâu rồi, cửa hiệu cũng đóng cửa.”
“Bấy giờ chẳng phải có một thanh niên đi cùng ông ta ư?”
“Cậu muốn nói tới Phàn Ba à. Đó là cháu ông ta, về sau đi làm công nhân, vẫn đang ở Thượng Hải.”
“Hai người vẫn liên hệ à?”
Lưu Chiến Đấu gượng cười, “Vẫn. Mấy năm trước hắn đến tìm tôi ăn vạ, nói rằng năm xưa tôi ép giá thu mua cổ vật, đòi phải trả lại hoặc bồi thường. Tôi đáp đó là chính sách thống nhất trên tất cả các cửa hàng văn vật nhà nước, chẳng liên quan gì đến tôi. Hắn không chịu, bèn đâm đơn khiếu nại lên trên, đúng là phiền phức.”
Tôi hỏi đơn đâu, Lưu Chiến Đấu bèn đứng dậy lấy trong tủ hồ sơ ra một xấp bì thư, lúc đưa tôi còn hả hê kể, “Đây đều là đơn thư của Phàn Ba, ban ngành bên trên nhận được là chuyển ngay tới chỗ tôi. Hắn còn ngây thơ viết hết lá này đến lá khác, được cái gì đâu?”
Nghe giọng điệu Lưu Chiến Đấu, tôi chỉ thấy bực mình, chẳng buồn tiếp lời mà cầm một lá thư tố cáo lên xem. Loại phong bì này tôi đã quá quen, lúc làm đơn khiếu nại cho bố mẹ mình tôi cũng viết hết lá này đến lá kia như thế, quy cách phong bì thế nào đã thuộc nằm lòng. Nhớ chuyện cũ, tôi lại nhói đau.
Tôi nhận ra tất cả các phong thư đều chưa được bóc, xem ra bao công sức khiếu nại của Phàn Ba đã đổ sông đổ biển. Cầm phong thư, tôi nhìn sang Lưu Chiến Đấu, ông ta vội đáp, “Tùy cậu, dù sao cũng toàn thứ vớ vẩn.”
Tôi bèn xé bì thư, lấy ra một bức thư dài ba trang, bên trong không chỉ thuật lại quá trình thu mua, còn đính kèm một danh sách các món đồ bị cưỡng chế thu mua, có cả Đại Tề thông bảo khuyết góc. Có điều tay Phàn Ba này rõ ràng là người ngoài ngành, chẳng những viết sai nhiều chữ mà còn tưởng Đại Tề thông bảo chẳng đáng mấy tiền nên viết vào cuối danh sách.
Tim tôi trĩu xuống, thầm nhủ, manh mối đừng đứt ở đây chứ. Chuyện thế này vốn cực kỳ phổ biến, đời trước để lại rất nhiều của quý và chuyện cũ, nhưng con cháu đời sau không có mắt nhìn, lại không muốn truyền cho người ngoài, thế là thất truyền. Trước đây có người chuyên sưu tầm tờ quảng cáo của các diễn viên Kinh kịch lừng danh Bắc Kinh, quý như báu vật, nhưng con trai ông ta không thích Kinh kịch, sau khi bố mất đã ném cả bộ sưu tập vào xó nhà kho. Tới khi có người nhớ ra, tìm đến hỏi mua lại, mở kho ra mới thấy đã mốc hết. Phàn Ba xem ra cũng không hiểu nhiều về cổ ngoạn, chưa chắc đã biết câu chuyện giữa Phàn Hộ Ký và Đại Tề thông bảo.
Tôi thầm mong cho suy đoán này không trở thành sự thực rồi đọc tiếp, thấy Phàn Ba để lại địa chỉ nhà ở cuối thư theo đúng mẫu đơn khiếu nại chuẩn, bèn rút bút ra ghi lại. Chợt nghĩ mình đường đột tìm đến chưa chắc người ta đã chịu nói, tôi vội ngẩng lên bảo Lưu Chiến Đấu, “Ông đi với tôi một chuyến.”
“Tôi đi làm gì? Hắn ta ghét tôi lắm.” Lưu Chiến Đấu phản đối.
“Cởi chuông phải tìm người buộc chuông. Ông ta liên tục làm đơn tố cáo ông không được, giờ ông lại chủ động đến thăm, ông ta sẽ nảy sinh hy vọng được giải quyết, một khi đã có hy vọng, cũng dễ nói chuyện hơn.”
Lưu Chiến Đấu đứng phắt dậy xằng giọng, “Hứa Nguyện, cậu đừng được voi đòi tiên! Dựa vào cái gì mà đòi tôi phải chấp nhận yêu cầu vô lý của cậu hả!”
“Ông chỉ cần đi với tôi thôi, không phải làm gì cả.” Dứt lời tôi đưa mắt nhìn sang túi ni lông đựng quả dành dành, hạt sồi và trà đen kia, Lưu Chiến Đấu nghiến răng nghiến lợi, cuối cùng đành nhận lời.
Tôi càng lúc càng tò mò về phương thuốc Dược Bất Nhiên dùng để uy hiếp Lưu Chiến Đấu, thực chẳng khác nào Tam Thi Não Thần đan trong tiểu thuyết Kim Dung, có thể tùy ý sai khiến người khác như con rối.
Nhà Phàn Ba nằm trong con ngõ nhỏ ở khu Hạp Bắc. Ngõ rất hẹp, hai bên đều là nhà hai tầng lè tè cũ kỹ, vách tường ám đen, khung gỗ long ra, ngẩng lên mới thấy khung trời hẹp bằng bàn tay lại bị từng hàng sào phơi đồ khô vàng xà xẻo thành vô số mảnh. Hai ba ông cụ ngồi đầu ngõ phơi nắng, ánh mắt lờ đờ. Tôi và Lưu Chiến Đấu vừa đi vừa hỏi thăm một lượt mới biết Phàn Ba sống trên một căn gác. Tuổi đời căn nhà này đã khá lớn, cầu thang tối om ọp ẹp chực sập, chất đống những thứ linh tinh. Chúng tôi đi đến tầng ba, còn phải leo lên một cái thang tre lấm tấm sơn mới tới gác.
Căn gác này không có cửa, chỉ che bằng mảnh vải loang lổ vết dầu mỡ. Tôi gọi với vào: “Phàn Ba có nhà không”, bên trong nghe lục đục một hồi, như có mấy người cùng chui rúc. Lát sau mới thấy một người đàn ông mặt nhăn nheo vén màn ló ra, “Tôi là Phàn Ba đây, các vị là?”
Người này chắc cũng trạc tuổi Lưu Chiến Đấu, song nhìn mặt cứ tưởng chênh nhau mấy chục tuổi. Những nếp nhăn trên mặt ông ta hằn dấu khắc khổ, hẳn cuộc đời chẳng lấy gì làm dễ chịu.
“Chúng tôi là người của Hiệp hội giám thưởng thư họa Thượng Hải, muốn tìm ông hỏi chút chuyện.” Tôi nói. Thấy Lưu Chiến Đấu cau có đứng sau lưng tôi, Phàn Ba sáng mắt lên, vội mời chúng tôi vào phòng.
Vừa chui vào tôi đã hiểu ngay vì sao vừa rồi ông ta phải lục đục lâu như vậy. Căn gác này cao chừng mét bảy, không cách nào đứng thẳng người được, diện tích khoảng 20 mét vuông, song lại kê hai chiếc giường gỗ chồng lên nhau, một chiếc bàn, một bếp gas, thậm chí trong góc phòng còn dùng hai tấm vải ngăn ra thành nhà xí. Trong chiếc chuồng chim này là năm người nhà họ Phàn. Hai cụ già nằm trên giường, một đứa choai choai đứng tựa vào bàn, trong nhà xí chắc còn một người nữa, hẳn là vợ ông ta thấy có khách nên không dám ra. Hỗn hợp mùi dầu cháy, mùi hôi thối và ẩm mốc nồng nặc trong nhà - xem ra cuộc sống của Phàn Ba vô cùng chật vật.
Căn gác quá thấp, Phàn Ba ân cần kéo dưới gầm giường ra hai băng ghế, dùng ống tay áo lau qua rồi mời chúng tôi ngồi. Lưu Chiến Đấu nhíu mày, rút khăn tay ra bịt mũi. Thấy tình hình ấy, tôi vội vào đề ngay, “Lần này chúng tôi đến đây là muốn hỏi ông về Phàn Hộ Ký.”
“Khiếu nại có kết quả rồi ư?” Phàn Ba mừng rỡ đứng thẳng dậy, suýt nữa cụng đầu vào trần nhà.
Lưu Chiến Đấu liền nạt, “Anh toàn đưa ra những yêu cầu vô lý, nhà nước không có chính sách giải quyết!”
Phàn Ba nổi cáu, “Thế thì các người đến làm gì!”
Tôi trừng mắt nhìn Lưu Chiến Đấu, rồi dịu giọng giảng hòa, “Tôi muốn hỏi han tình hình từ ông.”
Phàn Ba “Ừm” một tiếng, lại ngồi xuống. “Tôi đã viết rõ trong thư khiếu nại rồi mà.”
“Chúng tôi cần chứng thực danh sách cổ vật mà ông đính kèm trong thư khiếu nại, ví như đồng Đại Tề thông bảo khuyết góc, chúng tôi muốn biết nó được mua về lúc nào, từ tay ai.” Tôi cố giữ thái độ ôn tồn. Tôi không muốn lừa ông ta, nhưng cũng không thể nói ra mục đích thực sự, đành cố lập lờ viện cớ.
Chẳng ngờ Phàn Ba đảo mắt đáp, “Trừ phi nhà nước có lời chắc chắn, bằng không tôi không nói đâu.”
Lưu Chiến Đấu cáu kỉnh, “Anh lớn gan quá nhỉ, còn dám ra điều kiện với nhà nước cơ đấy?”
Phàn Ba dịch mông đi, cười hà hà, “Bao năm qua tôi đã gặp quá nhiều người lấy đủ mọi danh nghĩa tới hỏi han về Phàn Hộ Ký rồi, chẳng phải đều nhòm ngó đồ của ông Phàn ư?”
Lưu Chiến Đấu xích lại gần tôi, khẽ giải thích. Bấy giờ tôi mới hiểu Phàn Hộ Ký ở Thượng Hải cũng tiếng tăm, tuy ông chủ đã bán hai hòm báu vật cho cửa hàng văn vật nhưng chẳng ai biết ông cụ có giấu riêng vài thứ hay không, giấu ở đâu. Mấy năm nay thị trường văn vật khôi phục, không ít người lần tới chỗ Phàn Ba nói gần nói xa, nhòm ngó đồ ông cụ Phàn để lại. Phàn Ba bị họ xúi giục mới nảy ra ý định khiếu nại, đòi nhà nước đền bù.
Thế nên tôi vừa mở lời Phàn Ba đã nghe ra ngay chúng tôi muốn nhờ vả ông ta, thẳng thừng đòi trao đổi điều kiện.
“Nếu anh không phối hợp tôi sẽ không chịu trách nhiệm chuyện khiếu nại đâu.” Lưu Chiến Đấu đanh mặt dọa.
Song Phàn Ba vẫn cứng miệng, “Làm như lúc trước ông chịu trách nhiệm vậy. Tâm huyết chú tôi góp nhặt cả đời, năm xưa bị ông chà đạp thì sao? Tôi nói cho các người biết, nếu không đền bù đầy đủ tâm huyết của ông ấy, tôi sẽ không hé răng nửa chữ.”
Không khí thoắt chốc trở nên gượng gạo, Phàn Ba bấy nhiêu năm nay khiếu nại vô vọng, mãi mới tìm thấy một cơ hội để lợi dụng, bèn tóm chặt lấy như chết đuối vớ được cọc, chết cũng không buông. Người già trên giường rên rỉ, người phụ nữ trong nhà xí lo lắng ho khù khụ, khiến ánh mắt ông ta càng thêm kiên quyết.
Tôi đã quá quen với ánh mắt này, đó không phải là hy vọng thực hiện được lý tưởng, mà là khát khao được thỏa mãn dục vọng. Nói cách khác, Phàn Ba chẳng thiết tha gì với tâm huyết của ông chú, chỉ quan tâm làm sao cải thiện cuộc sống quẫn bách mà thôi.
Tôi đang cố nghĩ xem phải nói thế nào để dụ ông ta mở miệng thì Lưu Chiến Đấu ngồi trước cửa đưa ra một đề nghị, “Những thứ ông chủ Phàn bán cho cửa hàng văn vật năm xưa đã tản mác khắp nơi, không thể tìm về được nữa. Có điều hiện giờ trong Hiệp hội giám thưởng thư họa Thượng Hải còn lưu giữ một bức Vân Sơn yên thụ đồ của Hạ Khuê, cũng mua lại từ ông chủ Phàn. Tôi có thể quyên tặng cho anh dưới danh nghĩa cá nhân nhưng anh phải hứa sau này không được khiếu nại và thành thực kể ra những gì anh biết.”
Lưu Chiến Đấu đưa ra đề nghị này thực khiến tôi và Phàn Ba ngỡ ngàng. Lúc theo tôi tới đây, ông ta hết sức miễn cưỡng, vậy mà giờ lại chủ động đề nghị bồi thường, lẽ nào đã nghĩ khác?
“Vân Sơn yên thụ đồ của Hạ Khuê à…” Phàn Ba tần ngần lặp lại rồi gật gù, quả thực có bức tranh này trong danh sách thu mua.
“Hạ Khuê là một trong tứ đại gia thời Nam Tống, bút tích hiện giờ có thể bán được giá rất cao.” Hẳn Lưu Chiến Đấu cũng nhìn ra Phàn Ba chỉ cầu tài chứ không cầu vật nên đã bỏ qua giá trị nghệ thuật của bức họa, nói thẳng vào giá tiền.
“Ông chỉ trả lại tôi một bức này thôi à?” Phàn Ba mâu thuẫn thấy rõ.
Lưu Chiến Đấu lạnh lùng, “Không phải trả, mà là quyên tặng. Tôi thấy anh đáng thương nên quyên một món đồ sưu tập cá nhân tặng anh. Năm xưa chúng tôi mua bán hợp pháp, tôi và nhà nước không nợ gì anh cả.” Nói tới đây, sợ Phàn Ba kèo nhèo thêm bớt, ông ta nhấn mạnh, “Đây là cơ hội cuối cùng của anh, hoặc là nhận lấy, hoặc là cứ rúc trong cái lồng chim này mà viết đơn khiếu nại.”
Với một kẻ đang muốn cải thiện cuộc sống, không khó chọn giữa món lợi nhỏ trong tầm tay và mục tiêu lớn xa tít tắp. Phàn Ba thở hắt ra, “Tôi lấy bức tranh.” Rồi cảnh giác bổ sung, “Các ông đưa đến đây, tôi mới kể chuyện Phàn Hộ Ký.”
Tôi cùng Lưu Chiến Đấu rời căn gác, về văn phòng của ông ta. Lưu Chiến Đấu bốc máy gọi ngay trước mặt tôi, nói rằng mau đưa tới một bức Vân Sơn yên thụ đồ tranh lụa của Hạ Khuê. Nghe giọng điệu ông ta dường như tranh này không chỉ có một bức, tôi nhíu mày nhưng không tỏ thái độ gì, chỉ ngồi xuống xô pha chờ đợi. Lưu Chiến Đấu cũng chẳng buồn trò chuyện với tôi, cầm kéo lên tiếp tục tỉa cành. Thỉnh thoảng lại có người ghé vào nói chuyện gì đó về thư họa, xem ra công việc khá bận rộn.
Nửa tiếng sau, thư ký đưa một cuộn tranh tới. Lưu Chiến Đấu trải nó ra bàn, gọi tôi lại xem. Là một bức tranh thủy mặc đã được bồi và lắp cuốn trục, trong tranh mây khói lượn lờ, núi và cây liền thành một khối, ý cảnh rất đặc sắc. Vân sơn yên thụ là một chủ đề phổ biến trong tranh Trung Quốc, được rất nhiều người lựa chọn, bức tranh này vẽ tuyệt khéo nhưng khéo ở đâu thì tôi không phân tích được. Tôi không hiểu nhiều về tranh chữ, càng mù tịt đặc trưng bút pháp Hạ Khuê, chỉ để ý thấy vài chi tiết, ví như mày gấm trên dưới còn mới, chứng tỏ mới bồi gần đây, song màu giấy lụa lại ngả vàng như lá thu, hẳn đã trải nhiều năm tháng.
“Thế nào?” Lưu Chiến Đấu hỏi.
“Được đấy, không hổ là cao thủ Hồng môn.” Tôi trả lời nước đôi, câu này hiểu thế nào cũng không thể coi là sai được.
Lưu Chiến Đấu cười khì, “Tác phẩm tâm đắc của tôi mà.”
“Hóa ra đây là đồ giả à?” Ánh mắt tôi lóe lên, xem kỹ lại lần nữa.
Lưu Chiến Đấu đắc chí nhấc một góc lên vê vê, “Cậu xem, đây là lụa sợi đôi, đều đặn lại dày dặn, thuộc loại lụa viện thượng hạng đấy.”
“Lụa viện là gì?” Tôi hạ mình học hỏi. Không sai, ý tôi chính là hạ mình.
Lưu Chiến Đấu ngỡ tôi không yên tâm, cũng chẳng giấu nghề, bèn giải thích, “Thời Tống vẽ tranh trên lụa, chia ra làm hai loại, một là sợi đơn, hai là sợi đôi. Lụa sợi đôi gồm sợi dọc là hai sợi chắp lại, còn sợi ngang là một sợi, lúc đan vào nhau hai sợi dọc một trên một dưới, tinh vi chặt chẽ hơn sợi đơn, để lâu cũng không rã không hỏng. Thời bấy giờ rất khó dệt được loại lụa này, chỉ viện họa ngự dụng mới được dùng. Còn một loại lụa tiến cống, chất liệu tốt hơn nữa, thì chỉ hoàng gia mới được dùng. Hạ Khuê xưng là phái viện, nên bức tranh nhái dĩ nhiên cũng phải làm bằng lụa viện. Đồ giả thông thường không được tỉ mỉ như tôi làm đâu. Tiếc nỗi đồ nhà quê vô văn hóa như tay Phàn Ba kia làm sao nhìn ra được cái khéo trong đó, cũng chẳng hiểu được sự độc đáo tôi tạo ra.” Lưu Chiến Đấu thao thao nói, như thể bức tranh giả cầu kỳ tinh tế này rơi vào tay kẻ không có mắt nhìn đúng thật phí phạm.
Đợi ông ta nói xong, tôi chăm chú quan sát chất lụa, quả là thượng hạng. Bèn cầm kính lúp lên săm soi kỹ kết cấu sợi vải, đúng là sợi đôi. May mà trước đây tôi từng làm thuê ở xưởng dệt, biết một chút kỹ thuật dệt, bằng không e là chẳng hiểu mô tê gì. Thấy tôi loay hoay cầm kính lúp soi, Lưu Chiến Đấu cười nhạo, “Người sành chỉ vê là biết, việc gì mất công thế.”
“Tinh xảo thực.” Tôi buộc phải thừa nhận.
Lưu Chiến Đấu vẫn chưa giới thiệu hết được tâm tư tinh tế mình đổ vào bức tranh giả, lại nói tiếp, “Cậu nhìn vệt ố vàng đi.”
Tôi cúi đầu xem, phát hiện vết ố phân bố rất đều, còn ăn vào vân lụa. Những tranh chữ giả mà tôi từng xem đều dùng khói hun hoặc nước trà để làm giả vệt ố vàng, đậm nhạt loang lổ, đường ố không thống nhất với vân lụa. Hơn nữa vệt ố giả kiểu ấy chỉ ở lớp ngoài, cọ là tróc ngay. Tôi giơ tay cọ cọ lên tranh, chẳng tróc tí nào.
“Làm cũ khéo quá.”
“Dĩ nhiên rồi. Nhờ tác dụng của quả dành dành, trà đen và vỏ hạt sồi đấy. Nước quả dành dành vàng sém, nước trà nâu sẫm, nước vỏ hạt sồi vàng quạch. Ba thứ màu này pha lẫn với nhau theo tỷ lệ nhất định sẽ ra màu vàng ố hoặc màu tàn nhang. Lại chiếu tia tử ngoại làm giòn lụa mới thì kín kẽ tuyệt đối, hiệu quả hơn chỉ dùng nước trà nhiều.”
Nghe vậy, tôi sực ngộ ra. Té ra ba thứ kia là để làm cũ tranh chữ.
Thảo nào vừa thấy tôi giơ ra, Lưu Chiến Đấu đã tái mặt. E rằng mấy năm nay ông ta vẫn lén lút buôn bán tranh chữ giả theo công thức này. Lưu Chiến Đấu ngỡ đã bị tôi nắm thóp, sợ tôi báo cáo lên trên nên mới ngoan ngoãn nghe lời.
Nguyên tắc bao đời nay của Minh Nhãn Mai Hoa là “trừ giả giữ thật”, chẳng ngờ cốt cán cấp trung của Hồng môn như Lưu Chiến Đấu lại lén làm việc này, về công về tư đều không thể dung thứ được. Xem ra giáo sư Trịnh chẳng phải lo hão, từ sau cải cách mở cửa, lòng người trong Minh Nhãn Mai Hoa cũng đã thay đổi. Nguyên tắc tổ tiên ngày càng bị nhiều người coi nhẹ, lý tưởng khi xưa đứng trước đồng tiền cũng chẳng đáng một xu. Mở sàn đấu giá cũng chưa chắc đã là ý muốn của Lưu Nhất Minh, e rằng ông ta bị ép phải chiều theo tiếng hô hào đòi kiếm tiền của phái chủ lưu trong hội mà thôi.
Nhưng Lưu Nhất Minh mở sàn đấu giá là kiếm tiền đàng hoàng, còn Lưu Chiến Đấu làm đồ giả lại là phạm pháp. Ông ta là phó thư ký Hiệp hội giám thưởng thư họa Thượng Hải, cũng là người của Minh Nhãn Mai Hoa, có ông ta đứng giữa điều phối, đồ giả sẽ ùn ùn chảy vào thị trường, ảnh hưởng lớn đến mức nào, tôi thực không dám tưởng tượng. Nghĩ tới đây, tôi sực nhớ công thức này là Dược Bất Nhiên mách cho mình, gã nắm được bí mật của Lưu Chiến Đấu, có nghĩa là gì? Có nghĩa Lưu Chiến Đấu đã bị Lão Triều Phụng lôi kéo, ông ta là một trong những tay chân của Lão Triều Phụng cài cắm ở Minh Nhãn Mai Hoa.
Dược Bất Nhiên tiết lộ cho tôi cả bí mật trọng đại thế này, thực chẳng hiểu chúng tính toán gì nữa, muốn chứng minh thành ý hợp tác hay còn mưu đồ nào khác?
“Việc không thể chậm trễ, chúng ta đi thôi.” Thấy tôi lặng thinh, Lưu Chiến Đấu giục.
“Không được.” Tôi nhíu mày, âm thầm đưa ra một quyết định quan trọng.
Lưu Chiến Đấu đang cuộn tranh lại một nửa, nghe tôi nói vậy thì ngớ người, “Tranh này có sơ hở à?”
“Không sơ hở, nhưng là đồ giả.”
“Vớ vẩn, nếu là đồ thật đời nào tôi đem cho hắn ta?”
Tôi nghiêm trang nói, “Ông quên hết quy củ của Minh Nhãn Mai Hoa rồi à? Trừ giả giữ thật, quyết không làm giả. Đưa cho Phàn Ba một bức tranh giả thì vứt quy định của Minh Nhãn Mai Hoa vào đâu?”
Lưu Chiến Đấu sửng sốt nhìn tôi từ đầu đến chân, như người trên trời rơi xuống, “Cậu sốt à? Nói linh tinh cái gì thế?”
“Ông mới sốt ấy.” Tôi ngồi xuống xô pha, nhìn xoáy vào kẻ phản bội Minh Nhãn Mai Hoa.
“Cậu chẳng phải muốn dò hỏi về Phàn Hộ Ký ư? Đưa bức tranh này cho Phàn Ba, hắn sẽ nói hết, rất đơn giản mà?”
“Đúng thế, tôi muốn Phàn Ba tiết lộ chuyện về Phàn Hộ Ký, nhưng đây là tranh giả. Minh Nhãn Mai Hoa chỉ có người biết hàng giả, không thể có người làm giả được.”
“Đồ ngu.” Lưu Chiến Đấu buột miệng chửi.
“Có lẽ.” Tôi nhún vai.
Đưa Vân Sơn yên thụ đồ giả cho Phàn Ba dĩ nhiên là vừa tiện vừa lợi, nhưng thế thì tôi khác gì Lão Triều Phụng? Nếu tôi phủ định cả nguyên tắc của mình thì những việc tôi đang làm còn ý nghĩa gì nữa chứ?
Người khác tôi không quản nổi, nhưng tôi không thể làm thế được. Từ cụ tổ Hứa Hoành tới Hứa Nhất Thành ông nội tôi rồi Hứa Hòa Bình cha tôi đều đấu tranh chống đồ giả. Nếu giờ tôi tham cái tiện trước mắt mà lấy tranh giả ra lừa người thì truyền thống nhà họ Hứa gìn giữ hơn nghìn năm nay sẽ tan tành.
Người sống trên đời, luôn phải kiên trì theo đuổi vài việc trông có vẻ cực kỳ ngu xuẩn.
Ở sân bay Nam Uyển, Hoàng Khắc Vũ từng hỏi tôi rằng: Khi hiện thực ép cậu phải vi phạm nguyên tắc, cậu sẽ làm sao?
Đây là câu trả lời của tôi.
Thấy tôi lắc đầu không chịu, Lưu Chiến Đấu cũng chẳng ép, thuận tay cuộn bức tranh lại, “Đúng là anh hùng đánh đồ giả, đạo đức sáng ngời, đã thế cậu tự đi mà thuyết phục Phàn Ba.”
Tôi ngồi trên xô pha, gõ gõ thành ghế, nheo mắt nhìn ông ta, “Ông đã làm được Vân Sơn yên thụ đồ giả thì chắc hẳn cũng đang giữ tranh thật nhỉ?”
Lưu Chiến Đấu nổi khùng, “Cậu thần kinh à! Thích làm thánh nhân thì cứ đi mà làm, lại định mượn hoa dâng Phật… khụ..” Nói được nửa chừng, Lưu Chiến Đấu mới nhận ra tôi đang thăm dò, bèn ném bức tranh giả xuống đất, “Tôi có cả bản thật đấy, làm sao? Cậu cướp được à?”
Hạng người như Lưu Chiến Đấu đời nào có chuyện rộng rãi bất thình lình. Ông ta mà chịu tặng bản giả thì trong tay ắt phải có bản thật, vậy mới hời.
Tôi chậm rãi đáp, “Không hỏi được Phàn Ba thì tôi không hoàn thành được việc cụ Lưu giao phó, đành về Bắc Kinh nhận lỗi thôi.” Ánh mắt Lưu Chiến Đấu thâm trầm, nhưng động tác chợt khựng lại.
Minh Nhãn Mai Hoa hiện giờ cơ nghiệp nhan nhản, không ít kẻ ngấm ngầm làm hàng giả, nhưng chẳng ai dám công khai. Nếu tôi báo cáo chuyện này với Lưu Nhất Minh, chắc chắn Lưu Chiến Đấu sẽ gặp rắc rối to. Tôi cũng chẳng làm gì quá đáng, chỉ đòi ông ta một bức tranh thật của Hạ Khuê, tuy đáng tiền, song so với khoản thu được từ tiền làm giả mấy năm nay thì chỉ là chuyện vặt.
Cứ suy từ hành động hà hiếp ông chủ Phàn cũng đủ thấy Lưu Chiến Đấu bụng dạ hẹp hòi, mềm nắn rắn buông. Có được địa vị và của cải như hôm nay, tất nhiên ông ta luôn nơm nớp lo sợ đánh mất tất cả. Cùng một cách ấy, nhưng tôi không thể áp dụng với Phàn Ba được, ông ta chẳng có gì cả, nên cũng chẳng sợ mất gì.
Trước cái nhìn chằm chằm của tôi, Lưu Chiến Đấu không còn lựa chọn nào khác, cắn răng đáp, “Được… Xem như cậu hiểm!” Đoạn ông ta nhấc điện thoại lên nói mấy câu bằng tiếng Thượng Hải. Tôi không hiểu, nhưng cũng không sợ ông ta giở trò.
Chẳng bao lâu sau, tay thư ký vừa đưa tranh đến khi nãy lại xuất hiện trước cửa, lần này ôm theo năm cuốn trục. Lưu Chiến Đấu nhận lấy, đóng cửa lại rồi bày từng cuốn ra mặt bàn trước mắt tôi.
Khóe môi ông ta cong lên khinh khỉnh, “Cậu muốn đồ thật chứ gì? Tôi để đây, cậu tự tìm nhé.”
Người ngoài cứ tâng bốc tôi là anh hùng đánh đồ giả, bậc thầy giám định, nhưng thực ra tôi không hiểu nhiều về thư họa. Lưu Chiến Đấu nhận ra tôi không am hiểu về lĩnh vực này nên cố tình làm khó. Nếu tôi chọn làm đồ giả thì là tự tôi kém cỏi, không liên quan đến ông ta.
“Sao ông không nói thẳng cho tôi biết bức nào là thật?” Tôi khó chịu hỏi.
“Tôi quên mất rồi, đành làm phiền cậu vậy.” Lưu Chiến Đấu xòe tay, trưng ra thái độ tiểu nhân đắc chí.
Tôi cúi đầu nhìn năm cuốn trục, chẳng chút do dự nhặt ngay lấy cuốn thứ hai bên trái. Lưu Chiến Đấu bàng hoàng, miệng há hốc ra đủ nhét vừa cả quả trứng ngỗng. Nhìn thái độ của ông ta, tôi biết mình đã chọn đúng.
“Sao… sao lại thế được, cậu còn chưa mở ra xem mà! Sao lại chọn đúng được!” Lưu Chiến Đấu thều thào.
Tôi nhìn ông ta vẻ vô tội, “Đơn giản thôi. Lúc thư ký của ông đưa tranh đến, tay phải anh ta ôm bốn cuốn, còn tay trái chỉ cầm một cuốn, hơn nữa lại chỉ cầm hờ, sợ làm hỏng tranh. Tôi nghĩ tay thư ký mẫn cán này hẳn sẽ hết sức giữ gìn tranh thật, thế thôi.”
Tôi vừa khen tay thư ký thì Lưu Chiến Đấu hộc ra một búng máu, thực sự là hộc máu theo nghĩa đen. Tôi hết sức thông cảm với ông ta, uất ức quá mà.
Nôn búng máu ra xong, Lưu Chiến Đấu nằm rũ ra xô pha, thoi thóp thở, không hé một lời.
Tôi biết ông ta không chết được, bèn cầm Vân Sơn yên thụ đồ bản thật của Hạ Khuê rời văn phòng. Trước lúc đi, tôi còn vỗ vai tay thư ký kia ngoài hành lang, khen anh ta làm việc đắc lực.
Phàn Ba thấy bức tranh thì mừng như điên. Tôi bảo ông ta rằng đây là bồi thường cho ông chủ Phàn năm xưa. Phàn Ba luôn miệng thở dài kể lúc lâm chung ông Phàn vẫn nắm chặt lấy tay ông ta dặn dò phải nghĩ cách chuộc đồ lại. Tiếc rằng cuộc sống của ông ta quá chật vật, ngoài viết đơn khiếu nại hằng năm ra, cũng chẳng còn cách nào khác. Kể tới đây Phàn Ba bật khóc, nói rằng mình chẳng được tích sự gì, phụ lòng trông đợi của ông cụ.
“Thôi thôi, có bức họa này cũng xem như an ủi vong linh ông cụ rồi.” Tôi xoa dịu.
Phàn Ba mếu máo cười, “Đâu có được, tôi sẽ phải bán nó đi ngay.” Đoạn ông ta quay lại nhìn chiếc giường trong căn gác thấp tè, “Người già phải khám bệnh uống thuốc, trẻ con phải đi học, chuyện gì cũng cần dùng đến tiền…”
Tôi lặng thinh, chẳng biết trách ai. Với những người như Phàn Ba, giá trị nghệ thuật của cổ vật không thể bì được với giá trị thương mại, cái đầu tiên liên quan đến gu thưởng thức còn cái thứ hai gắn liền với sinh tồn, đây là vấn đề hết sức thực tế. Tôi đành an ủi ông ta mấy câu rồi dẫn dắt câu chuyện sang Phàn Hộ Ký. Phàn Ba nhận được Vân Sơn yên thụ đồ, như trút bỏ tảng đá đeo trong lòng, dĩ nhiên trò chuyện cũng thoải mái hơn, bèn kể cho tôi nghe về cửa tiệm Phàn Hộ Ký.
Ông chủ Phàn vốn làm quản gia cho một hiệu cầm đồ lớn, về sau gom được chút tiền, đến năm 1927 thì ra riêng, mở một tiệm đồ cổ, gọi cháu trai đến giúp chạy vặt. Nghe vậy, lòng tôi trĩu xuống. Điều tôi lo lắng nhất đã xảy ra, tay Phàn Ba này hoàn toàn không hiểu gì về đồ cổ. Ông ta làm ở Phàn Hộ Ký chẳng qua vì là họ hàng của chủ tiệm. Ông chủ Phàn cũng biết trình độ cháu mình nên chỉ sai ông ta chạy vặt và trông nom cửa hiệu, không cho nhúng vào việc buôn bán.
Buôn bán cổ vật là một dạng giao dịch ngầm. Phàn Ba đã không tham gia, đương nhiên cũng không hiểu những lắt léo trong đó. Hỏi ông ta về việc làm ăn của Phàn Hộ Ký cũng như hỏi bảo vệ ngân hàng chuyện vay vốn vậy.
“Phàn Hộ Ký có để lại giấy tờ sổ sách gì không?”
Phàn Ba lắc đầu, “Dạo đánh Tứ cựu đều bị đốt rồi. Danh sách văn vật tôi đính kèm trong thư khiếu nại cũng phải chép lại từ cửa hàng văn vật đấy.”
“Vậy ông chủ Phàn trước đây qua lại với những ai?” Tôi vẫn không cam tâm, tiếp tục hỏi.
Vấn đề này quá rộng. Tuy Phàn Hộ Ký không phải cửa hiệu lớn, nhưng cũng có tiếng tăm, đối tác khách hàng nhiều không kể xiết. Phàn Ba thần ra hồi lâu mới ấp úng đáp, “Tôi từng gặp rất nhiều, nhưng không nhớ được tên họ.”
“Bạn bè thân thiết của ông cụ ông có nhớ không?” Bạn thân của ông chủ Phàn hẳn cũng là người trong giới cổ vật, chưa chừng lại biết chuyện ông cụ mua được Đại Tề thông bảo khuyết góc.
Phàn Ba nghĩ ngợi một lát mới đáp, “Thân với ông cụ nhất, có lẽ là tiên sinh Chu Thuận Huân.”
“Ông chủ hiệu đồ cổ nào?”
“Ừm… không phải hiệu đồ cổ, ông ấy là quản lý hiệu bạc Tấn Kinh.”
“Giờ ông ta ở đâu?”
“Năm 1949 đã sang Đài Loan rồi.”
“Chậc.” Tôi thất vọng.
Thấy tôi im lặng, Phàn Ba cho rằng tôi không hài lòng với thông tin mình cung cấp, bèn bổ sung, “Ông Huân tử tế lắm, lần nào đến cũng hỏi han tôi, có lúc còn dúi cho mấy đồng tiền. Chú tôi thường nói không có ông ấy giúp quay vòng vốn thì không có Phàn Hộ Ký, dặn tôi hễ gặp ông ấy phải chào hỏi lễ phép, không được vô lễ.”
Tôi đột ngột chụp lấy vai Phàn Ba, “Ông nói lại lần nữa đi!”
“Ông Huân tử tế lắm.”
“Câu sau cơ!”
“Chú tôi thường nói không có ông ấy giúp quay vòng vốn thì không có Phàn Hộ Ký…”
Tôi sáng mắt lên, cứ ngỡ đã tuyệt vọng, thực không ngờ đi đến đường cùng lại có lối ra.
Nghề buôn bán cổ vật này có đặc điểm “ba năm không mở cửa, mở cửa ăn ba năm”, rất khó lường trước một món đồ cổ khi nào được bán ra. Những cửa hàng nhỏ đều phải dựa vào quay vòng vốn, dòng tiền mặt rất dễ gián đoạn, không cẩn thận là thâm hụt đến khuynh gia bại sản. Nhưng từ cuối thời Thanh đến nay, ngân hàng phương Tây tiến vào Trung Quốc, đưa đến rất nhiều giải pháp tài chính tiên tiến, nhất là năm cửa khẩu thông thương Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba, Thượng Hải, ngân hàng quốc tế, ngân hàng trong nước, chưa kể các hiệu bạc lớn nhỏ của tư nhân nhiều vô số kể, đã đem đến cho những người buôn cổ vật một lựa chọn mới.
Ví như họ ưng một món hàng, nhưng chưa có tiền quay vòng để đầu tư, bèn lấy một món cổ vật ra hiệu bạc cầm cố để vay tiền mặt nhập hàng vào, khi nào quay vòng được lại cầm tiền đến chuộc đồ về. Làm vậy thực ra là đổi hàng tồn thành tiền lưu động, linh hoạt nhanh gọn, lấy được hàng nhanh, quay vòng lợi ích, nhất là với những cửa hiệu nhỏ lại muốn nhập lô hàng lớn, điều này cực kỳ quan trọng.
Phàn Hộ Ký quy mô khá nhỏ, nếu tự bỏ tiền túi ra mua những món cực quý như Đại Tề thông bảo khuyết góc sẽ rất nguy hiểm, nhiều khả năng sẽ chọn cách vay ngân hàng. Đã vậy ắt phải tìm người quen biết. Nghe câu này của ông chủ Phàn, rõ ràng hiệu bạc Tấn Kinh là kênh vay vốn quen của Phàn Hộ Ký.
Cổ vật không giống như vàng bạc, nhà cửa, công xưởng, tính chuyên nghiệp rất mạnh, khó mà đánh giá được giá trị, chủng loại còn muôn màu muôn vẻ. Thế nên khi cho vay, ngân hàng đều sẽ ghi lại thông tin về hàng hóa và vật cầm cố vào lề phải sổ kế toán, chủng loại thế nào, hình thức ra sao, nhan sắc hoa văn, chất liệu tạo thành v.v… để tiện kiểm tra đánh giá. Tổ chức giám định uy tín như Minh Nhãn Mai Hoa thường được ngân hàng mời tới định giá nên tôi nắm rất rõ quy trình này.
Nói cách khác nếu tìm được sổ sách của hiệu bạc Tấn Kinh, chưa chừng lại lần ra tài liệu chi tiết về tấm thiếp của Đới Hi.
Tôi hỏi thêm Phàn Ba về hiệu bạc Tấn Kinh. Phàn Ba chỉ biết hiệu bạc này do một viên quan to quê gốc Sơn Tây mở tại kinh thành, trụ sở chính ở Bắc Kinh, có chi nhánh tại một số địa phương như Thượng Hải, quy mô cũng không lớn lắm. Nói là tổ chức cho vay nặng lãi thì đúng hơn là ngân hàng. Tôi cũng biết dạng hiệu bạc thế này được tổ chức cực kỳ chặt chẽ, hằng tháng quản lý đều phải báo cáo thu chi lên trụ sở chính, sổ sách cũng được định kỳ niêm phong chuyển tới lưu trữ tại trụ sở ở Bắc Kinh. Nếu là người khác, hẳn đã từ bỏ hy vọng. Bao nhiêu năm như thế, lại trải mấy phen loạn lạc, e rằng hiệu bạc nhỏ cũng đóng cửa từ lâu, tìm đâu ra được?
Nhưng tôi vẫn chưa hoàn toàn tuyệt vọng.
Bởi tôi tình cờ lại quen một kẻ chuyên sưu tầm hồ sơ sổ sách, lấy đó làm vui…
Tôi vội vã từ biệt Phàn Ba, rời khỏi ngõ, tìm một chỗ cho gọi điện thoại đường dài.
Tôi không gọi cho giáo sư Trịnh hay Lưu Nhất Minh, mà gọi cho Thư Viện.
Lúc tôi tới tìm ảnh chụp Thanh minh thượng hà đồ, Thư Viện đã hãnh diện khoe, “Ông muốn tìm sổ sách hiệu bạc, hồ sơ hải quan Hart, bản mã điện báo của Trương Học Lương v.v…, tôi đều có hết.” Tôi rất ấn tượng với câu này nên vẫn ghi nhớ mãi. Y dốc lòng thu gom các loại hồ sơ cũ nhiều năm nay, chưa chừng sẽ tìm được manh mối.
Thư Viện cáu kỉnh bắt máy, có lẽ đang làm gì đó thì bị cắt ngang. Nghe tôi tự xưng là Hứa Nguyện, y ngừng lại một nhịp mới đáp, “Ồ, là ông à, có chuyện gì thế?”
Tôi biết tính y nên cũng chẳng dài dòng, “Tôi muốn tra sổ sách của hiệu bạc Tấn Kinh, ông có không?”
“Hai mươi nghìn tệ.” Thư Viện chặt chém không tiếc tay.
“Tôi chỉ tra thôi, không mua.”
“Mấy thứ này ít người hỏi đến, tôi cũng chẳng biết có không, phải tìm cái đã. Tra thì không cần tiền à?”
“Nhưng cũng làm gì đến hai mươi nghìn tệ? Lần trước ông chỉ lấy hai nghìn thôi mà?”
“Ông còn dám nói à! Sớm biết ông làm ầm lên trên báo như thế, tôi phải lấy gấp mười mới đáng.” Thư Viện tức tối, “Không giảm giá đâu, ông không bằng lòng thì đi tìm chỗ khác.”
“À phải, lần trước ông mời tôi một cốc nước quýt đúng không?” Tôi đột ngột chuyển chủ đề.
“Biết vậy đến cốc nước lã cũng không cho ông!”
“Hôm ấy tôi từ chỗ ông về bị đưa ngay vào 301 cấp cứu, suýt chết. Bệnh viện chẩn đoán là do cốc nước quýt để lâu của ông.”
“Hai nghìn, tiền mặt.” Thư Viện mau mắn nhượng bộ.
“Tôi không ở Bắc Kinh, sẽ nhờ người đưa tiền đến cho ông được không.”
“Xong. Nói đi, ông muốn tra gì?”
Nói chuyện với kẻ lý tài thuần túy rất đơn giản. Chỉ cần thỏa thuận được giá cả, những chuyện khác chẳng cần bận tâm. Tôi bảo Thư Viện, “Tôi cần tra sổ sách của một hiệu bạc tên Tấn Kinh ở Bắc Kinh, xem ghi chép về cổ vật cầm cố để vay tiền ở chi nhánh Thượng Hải trong khoảng thời gian từ 1927 đến 1946.”
“Ông yêu cầu hơi nhiều đấy…” Thư Viện phàn nàn.
“Người phụ trách cho vay là Chu Thuận Huân, người vay họ Phàn, của Phàn Hộ Ký.”
“Được được, tôi biết rồi.”
“Có tra được không?”
“Tối nay sẽ cho ông kết quả, với điều kiện ông đưa tiền đến.” Dứt lời y cúp máy.
Tôi lại gọi cho Phương Chấn nhờ y đưa hai nghìn tới chỗ Thư Viện, Phương Chấn chẳng hỏi han gì, lập tức nhận lời. Đặt điện thoại xuống, tôi nhìn quanh, rồi… rồi chợt nhận ra mình chẳng còn gì để làm nữa.
Từ lúc đến Trịnh Châu điều tra Lão Triều Phụng tới giờ, suốt bấy nhiêu ngày tôi liên tục chạy đôn chạy đáo, không ngừng không nghỉ, tâm trạng lên xuống thất thường. Giờ bỗng dưng được thanh nhàn, tôi lại thấy không quen.
Tôi đi giữa phố mà lòng trống rỗng. Tất cả manh mối đều đã bày ra trước mặt, những gì có thể làm tôi đã làm cả rồi, giờ chỉ có thể bị động ngồi đợi kết quả. Cảm giác như học sinh lớp Mười hai bước ra khỏi phòng thi tốt nghiệp vậy, không thể làm gì với vận mệnh về sau của mình nữa, đành thấp thỏm đợi công bố kết quả.
Rảnh rang, tôi bắt đầu nhìn lại những hành động của mình, rồi ngạc nhiên nhận ra tất cả khó khăn gặp phải đều do tự tôi mà ra. Sự cố chấp của tôi vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả. Tôi một lòng kiên trì trừ giả giữ thật, cuối cùng lại đẩy Minh Nhãn Mai Hoa vào cảnh lao đao, tôi một lòng muốn điều tra Lão Triều Phụng, rốt cuộc lại buộc phải hợp tác với Dược Bất Nhiên, tôi muốn sửa sai, nhưng càng sửa càng hỏng, càng sửa càng hoang mang. Mâu thuẫn chồng chất, sương mù giăng mắc, cuối cùng chính bản thân tôi cũng chẳng biết làm sao.
Lưu Nhất Minh nói con người giám định cổ vật, cổ vật cũng giám định con người. Nghiên Đông Lỗ Giá đã chỉ ra sự nôn nóng trong tôi, thủy trì sơn thủy chỉ ra oán hận ngút trời của tôi, bia cổ Nam Kinh chỉ ra sự bạc nhược yếu hèn trong tôi… Vậy bức Thanh minh thượng hà đồ rốt cuộc sẽ vạch ra thứ gì trong tôi? Tôi không rõ.
Tôi tìm bừa một băng ghế bên đường ngồi xuống, thấy cả người bải hoải rã rời như vừa chạy marathon đường dài. Hôm nay trời rất đẹp, tôi ngả người ra lưng ghế, hơi ngửa đầu để ánh nắng rọi lên gương mặt, thấy một cảm giác vừa mệt mỏi vừa ấm áp xâm chiếm cõi lòng. Sắp thiếp đi, chợt thấy thắt lưng rung lên rồi máy nhắn tin reo bíp bíp.
Trên màn hình hiện ra dòng chữ: “Vừa nhận được tin, triển lãm giao lưu văn hóa vật thể Bắc Kinh - Hồng Kông đã xác định sẽ tổ chức sau một tuần nữa.”
Tôi nhíu mày, xem ra Lưu Nhất Minh và Lão Triều Phụng phối hợp đánh trả cũng chỉ ngăn được đến đây thôi. Hai bức Thanh minh thượng hà đồ cuối cùng cũng phải đem ra đối chiếu. Ngẩng lên nhìn quanh, chỉ thấy ngựa xe như nước, tấp nập ồn ào. Dược Bất Nhiên chắc hẳn đang nấp đâu đó âm thầm quan sát tôi. Gã cầm di động của tôi, có thể nhắn tin bất cứ lúc nào. Còn tôi lại chỉ có thể gật hoặc lắc đầu để trả lời.
Ngay sau đó một tin khác gửi đến, “Mày điều tra được gì rồi?”
Tôi chậm rãi mà kiên quyết gật đầu, rồi lại lắc đầu.
Chẳng ngờ động tác khó hiểu ấy cũng bị Dược Bất Nhiên nhìn thấu, “Khi một người phải chờ đợi, sẽ bắt đầu suy ngẫm, hễ suy ngẫm sẽ hoài nghi bản thân, hễ hoài nghi sẽ hoang mang. Mà chờ đợi thường là đằng đẵng. Cảm giác khó chịu lắm đúng không?”
Chẳng đợi tôi trả lời, tin nhắn thứ tư đã bay đến: “Tao cũng thế thôi, nên phải tìm việc để mình bận rộn, tốt nhất là bận đến mức không rảnh mà nghĩ ngợi nữa. Sang được bên đó rồi, tao sẽ không phải chơi trốn tìm nữa. Tới lúc đó chúng ta tha hồ nói chuyện.”
Để khỏi khiến tổng đài sinh nghi, Dược Bất Nhiên đành phải nói bóng gió. Hồng Kông vẫn chưa trở về Trung Quốc nên cảnh sát Đại Lục muốn bắt người sẽ rất khó khăn. Nếu Dược Bất Nhiên có thể thuận lợi chuồn sang đó, sẽ lấy lại được tự do.
Nhưng gã muốn nói gì với tôi?
“Nói về cuộc sống và lý tưởng.” Đúng là câu trả lời đậm phong cách Dược Bất Nhiên. Sau đó gã lại bổ sung thêm một tin, “Lâu lắm rồi chúng ta không ngồi tán phét như trước kia nhỉ.”
Tôi nhếch môi cười nhạt, tại ai hả? Đang yên đang lành, đường đời rộng mở, tự gã chọn đi theo Lão Triều Phụng, phản bội Minh Nhãn Mai Hoa, rơi vào cảnh này là gieo gió gặt bão thôi. Gã lấy tư cách gì mà tiếc nuối, lấy tư cách gì mà nói với tôi về cuộc sống? Có lẽ nhìn thấy vẻ trào phúng của tôi, Dược Bất Nhiên lại gửi tin nhắn đến, “Mày biết đấy, người sống trên đời, luôn phải kiên trì theo đuổi vài việc trông có vẻ cực kỳ ngu xuẩn.”
Thấy mẩu tin ấy, tôi thần người thật lâu. Đây vốn là lời tôi nói với Lưu Chiến Đấu, giờ Dược Bất Nhiên nhắc lại y nguyên, khiến tôi vừa tức vừa buồn cười. Nếu Dược Bất Nhiên nói là vì tiền bạc hay oán hận, tôi còn chấp nhận được; song giờ gã lại nói đường hoàng lẫm liệt, cứ như đi theo Lão Triều Phụng chống lại Minh Nhãn Mai Hoa là sự nghiệp vĩ đại, là lý tưởng mà gã nguyện hy sinh thân mình, cam lòng gánh vác mọi nỗi khổ tâm và oan ức vậy!
Đùa à!
Tôi giật máy nhắn tin ra khỏi thắt lưng, vung tay ném đi. Chiếc máy nho nhỏ vẽ ra một đường vòng cung rồi rơi xuống mặt đường nhựa, pin và nắp màn hình bật ra. Sau đó một chiếc xe tải chở đất rầm rập chạy qua, nghiền nát những bộ phận còn lại.
Đến bảy rưỡi tối, tôi không chờ nổi nữa, bèn gọi điện cho Thư Viện, hỏi y đã tra được gì chưa.
Thư Viện cũng không so đo chuyện tôi gọi tới sớm hơn nửa tiếng, chỉ nói, “Tra được chút chút, nhưng tôi phải nói trước, bất luận có ích hay không, tôi cũng không trả lại tiền đâu.”
Tôi siết chặt ống nghe, cố không lộ vẻ kích động quá mức, “Nói đi.”
“Năm 1947, hiệu bạc Tấn Kinh làm ăn thất bát, gặp cảnh thoái vốn ồ ạt, cuối cùng đi tới phá sản. May là ông số đỏ, sổ sách cũ mấy năm đó vẫn chất đống nằm nguyên trong nhà một cổ đông, lúc trước tôi mua lại với giá bán giấy vụn. Có điều bao nhiêu sổ sách như thế, tôi cong mông tìm suốt cả buổi chiều, mỏi rời cả lưng, phải đòi thêm tiền bồi dưỡng mới được.”
“Mau nói vào chuyện chính đi.”
“Tôi tra rồi, nghiệp vụ chính giữa hiệu bạc Tấn Kinh và Phàn Hộ Ký là đặt cổ vật để vay vốn, phải tới hơn ba mươi món. Tùy từng lần mà vay ít hay nhiều, nhưng cuối cùng đều trả đủ.”
Tôi gắng nén phấn khích, “Có ghi ghép nào liên quan tới Đại Tề thông bảo khuyết góc không?”
“Để tôi xem nào, ừm…. có đây. Ngày mười ba tháng Bảy năm Dân Quốc thứ hai mươi lăm, ông chủ Phàn đến đặt hai thứ, trong đó một thứ là Đại Tề thông bảo khuyết góc, tổng cộng vay năm mươi lạng vàng, lãi ba phân, trả sau một tháng.”
“Còn thứ kia là gì? Có phải thiếp của Đới Hi không?”
“Ồ, sao ông biết?” Lòng bàn tay tôi ướt đẫm mồ hôi, giọng cũng lạc cả đi, “Ông xem bên cạnh đoạn ghi chép đó có viết một hàng chữ không?” Hiệu bạc nhận cổ vật cầm cố đều phải viết rõ tình trạng, nhất là những thứ dễ cắt xén như thiếp chữ, nếu không quá nhiều chữ sẽ chép lại toàn bộ để tránh sau này khách chuộc về lại nói rằng không đúng, dẫn tới tranh cãi.
“À, có có, còn nhiều chữ là khác.”
“Đọc cho tôi nghe.”
“Phải thu thêm phụ phí đấy.”
“Một trăm tệ, nhanh lên!”
Thư Viện hắng giọng rồi đọc, “Ta từng thấy tranh tên Cập xuân đạp hoa đồ của Huy Tông, cảnh vật xa hoa, bút lực yếu ớt, lộ rõ cái giả, song bên trên lại đóng dấu song long, trông rất giống thật, không sao hiểu nổi. Hôm nay vào cung được ngắm Thạch cừ bảo cấp, trong có Thanh minh thượng hà đồ của Trương Trạch Đoan, xem xét kỹ, thấy tranh đã mất ba phần, lời bạt và dấu song long của Huy Tông đều mất cả. Lấy đó mà suy, hẳn tranh đã từng bị cắt, phần cắt lại bị chia ra ghép vào nhiều bức khác, Cập xuân chẳng qua là một mà thôi. Than ôi, kiệt tác thế ấy, tiếc chẳng còn nguyên, lấy thực trộn giả, xót xa khôn xiết. Nhưng vật thiên tử giữ gìn, không dám bàn luận, nay ghi lại đây, đợi đời sau kiểm chứng.”
Đới Hi đã nói rất rõ: Trước đây ông ta từng thấy một bức xưng là Cập xuân đạp hoa đồ của Tống Huy Tông, nhưng phong cách kém cỏi, thoạt trông đã nhận ra là giả. Có điều dấu song long trên tranh lại giống y như thật, khiến Đới Hi nghĩ mãi không hiểu vì sao. Hôm ấy ông ta vào cung thấy Thanh minh thượng hà đồ được cất giữ trong Thạch cừ bảo cấp, đoán ra Thanh minh thượng hà đồ đã bị xén mất một phần ba, bao gồm cả lời bạt và dấu song long của Tống Huy Tông. Đới Hi cho rằng rất có khả năng phần bị cắt ấy đã bị chia thành vài mảnh nhỏ, chắp vào mười mấy bức tranh giả khác, Cập xuân đạp hoa đồ chỉ là một trong số đó. Một kiệt tác như thế lại tàn khuyết không trọn vẹn, còn bị lấy thật chắp vào giả, thực khiến người ta đau xót. Nhưng Thanh minh thượng hà đồ là vật được thiên tử sưu tầm, ông ta không dám nhiều lời, đành ghi lại đợi người đời sau khảo chứng.
Việc Đới Hi đề cập rất phổ biến trong giới làm giả cổ vật. Người làm giả thường sẽ cắt một bức tranh hoặc chữ thật ra, chắp vào mười mấy hoặc thậm chí hai mươi mấy bức giả. Như vậy có thể lấy giả tráo thật, bán ra như hàng thật, lời gấp mấy chục lần. Đới Hi cả đời mê thư họa, khi phát hiện Thanh minh thượng hà đồ cũng gặp kiếp nạn ấy, phần thất lạc vĩnh viễn không thể khôi phục thì không khỏi kích động, mới viết ra tấm thiếp này.
Tôi đặt ống nghe xuống, cuối cùng cũng thấu hiểu những trắc trở gian nan trong suốt mấy trăm năm lưu truyền của Thanh minh thượng hà đồ.
Bấy giờ trong viện họa tổng cộng có hai người vẽ cảnh sắc sông Biên, Trương Trạch Đoan và một tác giả khác không biết tên. Tống Huy Tông chọn bức của Trương Trạch Đoan, chính tay đề năm chữ “Thanh minh thượng hà đồ” và lời bạt lên tranh, đóng cả dấu song long. Còn bức kia được cất giữ trong viện họa, chôn vùi mai một, tạm gọi là bản B.
Thanh minh thượng hà đồ lưu truyền đến thời Minh, sau khi được Lý Đông Dương bảo quản thì gặp kiếp nạn, bị cắt mất một phần ba. Kẻ làm giả đã chia phần này thành mười mấy thậm chí mấy chục mảnh để chế ra cả đống đồ giả. Trong đó quan trọng nhất là bức Cập xuân đạp hoa đồ, được chắp với phần có dấu song long của Thanh minh thượng hà đồ.
Đến đời Gia Tĩnh, Thanh minh thượng hà đồ tàn khuyết rơi vào tay Nghiêm Tung. Cùng lúc này, Hoàng Bưu người Ngô tìm được bản B, lấy đó làm nền tảng tạo ra một bức Thanh minh thượng hà đồ giả khá giống thật, rơi vào tay em trai Vương Thế Trinh. Tới khi Nghiêm Tung rớt đài, hai bức tranh một thật một giả mới hoàn toàn lẫn lộn. Chẳng ai biết bức được hoàng đế Gia Tĩnh tịch thu vào nội phủ là thật hay giả.
Tới thời Thanh, Đới Hi từng được xem Cập xuân đạp hoa đồ, sinh nghi, sau đó vào cung lại được thấy bức Thanh minh thượng hà đồ tàn khuyết. Ông ta nhận ra dấu song long trên Cập xuân đạp hoa đồ vốn thuộc về Thanh minh thượng hà đồ. Nhưng vì sợ oai vua nên Đới Hi không dám nói ra, đành viết lại vào một tấm thiếp, cất trong hộp sắt cùng Đại Tề thông bảo khuyết góc, không cho ai biết, đến con trai mình là Đới Dĩ Hằng cũng chẳng được xem.
Sau khi Đới Hi qua đời, tấm thiếp và Đại Tề thông bảo khuyết góc đều mất tích, chẳng biết bị kẻ nào đánh cắp, cả hai lưu lạc trong dân gian rồi rơi vào tay Phàn Hộ Ký. Ông chủ Phàn quý như báu vật, không chịu đem bán, chỉ cầm cho hiệu bạc Tấn Kinh một lần. Sau đó chiến loạn nổi lên, tấm thiếp của Đới Hi thất lạc, ông ta chỉ giữ được đồng Đại Tề thông bảo khuyết góc. Sau giải phóng các tiệm đồ cổ thực hiện công tư hợp doanh, ông chủ Phàn tới cửa hàng văn vật bán đồ bị Lưu Chiến Đấu ép giá, may được Hoàng Khắc Vũ trượng nghĩa bênh vực. Ông ta bèn tặng đồng Đại Tề thông bảo khuyết góc cho Hoàng Khắc Vũ để cảm tạ. Đến hiện nay, Hoàng Khắc Vũ giao Đại Tề thông bảo cho tôi, để tôi đi điều đình với con cháu nhà họ Đới…
Đây là kết luận điều tra của tôi lần này.
Một bức Thanh minh thượng hà đồ mà lại có hai bản, do Cố cung và Bách Thụy Liên nắm giữ, hẳn trong đó một bức là thực còn bức kia là đồ giả của Hoàng Bưu. Nhưng Hoàng Bưu đã lấy một bức tranh cùng thời với Thanh minh thượng hà đồ ra để làm giả, nên kiểm nghiệm bằng Cacbon-14 không ra kết quả.
Thanh minh thượng hà đồ gặp kiếp nạn xà xẻo vào khoảng mấy chục năm sau khi rời tay Lý Đông Dương tới trước khi bị Hoàng Bưu làm giả. Theo lý thuyết, chỉ cần tìm đủ những bức tranh giả bị chắp một phần của Thanh minh thượng hà đồ là có thể ghép lại thành một bức Thanh minh thượng hà đồ hoàn chỉnh, tiếc rằng vĩnh viễn không thể biết được rốt cuộc có những bức nào đã được chắp ghép. Chỉ biết duy nhất một bức là Cập xuân đạp hoa đồ có dấu song long mà thôi.
Tuy tôi chưa từng thấy Cập xuân đạp hoa đồ nhưng cũng đã nghe câu chuyện này. Chuyện kể rằng có lần Tống Huy Tông làm chủ khảo kỳ thi viện họa, ra đề cho các thí sinh là: Giẫm hoa về vó ngựa còn thơm. Ý nói khi cưỡi ngựa đi du xuân, suốt dọc đường vó ngựa xéo lên hoa tươi, thấm đượm hương thơm. Có người vẽ vó ngựa bám đầy hoa tươi, kẻ lại vẽ người cưỡi ngựa đi giữa bụi hoa. Chỉ có một người không vẽ hoa tươi mà vẽ mấy cánh bướm quấn quýt quanh vó ngựa đang phi nhanh. Tống Huy Tông thích thú, thưởng hậu người này, cho đỗ đầu. Bức tranh này có lẽ cũng bắt nguồn từ điển cố đó.
Chỉ cần tìm được Cập xuân đạp hoa đồ, so sánh phần lụa có ấn song long với hai bức Thanh minh thượng hà đồ kia là biết ngay bức nào thật.
Đây chính là quân át chủ bài Lưu Nhất Minh muốn tôi tìm.
Còn làm sao tìm được Cập xuân đạp hoa đồ thì không phải vấn đề của tôi.
Tôi sắp xếp lại suy nghĩ rồi gọi điện cho Phương Chấn, nhờ chuyển máy cho Lưu Nhất Minh. Lưu Nhất Minh đã đi nghỉ, nhưng Phương Chấn biết đây là chuyện hệ trọng, bèn đi đánh thức ông cụ. Giọng ông cụ khá mệt mỏi, mấy ngày này ông đã dốc hết sức lực để chèo chống Minh Nhãn Mai Hoa, gánh vác bao nhiêu là chuyện. Nhưng tôi biết giờ không phải lúc ân hận, ngay cả hỏi han tôi cũng bỏ qua, đi ngay vào đề thuật lại từ đầu chí cuối phát hiện của mình cho Lưu Nhất Minh.
Nghe tôi kể xong, Lưu Nhất Minh cảm khái, “Phương pháp của người xưa còn tinh vi đến mức này. Vất vả cho cậu quá rồi.”
Tôi lại nhắc nhở, “Cập xuân đạp hoa đồ là tranh thời Minh phỏng Tống, nếu lưu truyền đến ngày nay cũng được coi là văn vật. Ông hẳn sẽ tra được manh mối về bức tranh quý ấy chứ?” Tôi chỉ có một thân một mình, thế đơn lực yếu, nhưng Hồng môn xưa nay chuyên về giám định thư họa, còn qua lại với rất nhiều nhà sưu tầm lớn, họ điều tra về một bức họa, hẳn là dễ như trở bàn tay.
“Cập xuân đạp hoa đồ thì tôi biết.” Nghe Lưu Nhất Minh nói, tôi lấy làm mừng, nhưng câu tiếp theo lại khiến lòng tôi chùng xuống, “Tiếc rằng nó đã bị xé nát từ lâu rồi.”
“Sao lại xé nát? Ai xé?”
“Sau khi kháng chiến kết thúc, nội bộ Minh Nhãn Mai Hoa nổ ra tranh chấp ở Dự Thiểm, chắc cậu cũng nghe nói nhỉ?”
“Tôi biết.” Tôi sực nhớ ra chính Chung Ái Hoa đã kể cho mình chuyện này, vận mệnh thật là kỳ diệu.
“Bảy tiệm đồ cổ ở Trịnh Châu bày thưởng trân hội trên nhà hàng Dự Thuận, định hạ gục Hoàng Khắc Vũ. Song Hoàng Khắc Vũ đánh đâu thắng đó, họ đành phải mời một cao nhân gọi là Mắt Âm Dương từ Khai Phong tới, đấu một trận núi đao biển lửa với Hoàng Khắc Vũ, đặt chính bức Cập xuân đạp hoa đồ. Cuối cùng Mắt Âm Dương đánh bại Hoàng Khắc Vũ, song phải trả giá bằng việc xé tan Cập xuân đạp hoa đồ.”
“Không sao. Chúng ta không cần Cập xuân đạp hoa đồ hoàn chỉnh, chỉ cần mảnh có dấu song long thôi. Dù chỉ là mảnh vải vụn bằng móng tay cũng đủ rồi.”
“Bấy giờ chuyện cụ thể thế nào thì tôi không được rõ. Sau khi trở về Hoàng Khắc Vũ cũng không hé răng nửa lời với người trong Hội, dường như đã thề giữ kín bí mật, nên chẳng ai biết chi tiết cuộc đấu thế nào cả.”
“Vậy thì dễ quá, hỏi ông ấy là được mà.”
Lúc trước ở sân bay Nam Uyển tôi từng gạn hỏi Hoàng Khắc Vũ về chuyện trên nhà hàng Dự Thuận, ông ta mắng tôi là đừng lo việc bao đồng. Giờ nó đã trở thành mấu chốt tồn vong của Minh Nhãn Mai Hoa, chắc ông ta sẽ chịu mở miệng chứ?
“Ôi…” Lưu Nhất Minh thở dài. Tôi linh cảm thấy chuyện chẳng lành, vội gặng hỏi đã xảy ra chuyện gì, Lưu Nhất Minh lặng đi giây lát mới đáp, “Tôi vừa nhận được tin Hoàng Khắc Vũ bất ngờ lên cơn đau tim, đã được đưa đến bệnh viện Queen Mary Hồng Kông, giờ vẫn đang hôn mê.”
Tôi nghe như sét đánh ngang tai, “Sao lại thế?”
Lưu Nhất Minh đáp, “Khắc Vũ đang nói chuyện với một người phụ nữ thì đột ngột phát bệnh tim, được đưa thẳng đến bệnh viện.”
“Mai Tố Lan ư?” Tôi chợt nghĩ đến bà già mù ấy.
“Người đi theo kể rằng, lúc Hoàng Khắc Vũ về khách sạn thì bà ta xuất hiện, hai người mới nói được vài câu trong đại sảnh, Hoàng Khắc Vũ đã phát bệnh.”
Tôi nắm chặt ống nghe, rủa thầm. Hẳn đây cũng là một trong những kế hoạch của Bách Thụy Liên. Chị Tố vốn là một quân bài trong tay chúng, trước để lừa tôi, sau để đả kích Hoàng Khắc Vũ. Minh Nhãn Mai Hoa lại mất một viên đại tướng, cục diện càng thêm nguy ngập.
Hoàng Khắc Vũ bệnh nặng nằm viện, sống chết chưa rõ, sự thật về cuộc đấu trên nhà hàng Dự Thuận chẳng hỏi ai được, dĩ nhiên cũng không cách nào tìm được những mảnh cắt rời của Thanh minh thượng hà đồ.
Tôi bần thần, lẽ nào chúng tôi cố gắng bấy lâu, cuối cùng chỉ công cốc sao?
Thấy tôi lặng đi hồi lâu, Lưu Nhất Minh chậm rãi nói, “Cậu đừng tự trách, cậu đã cố hết sức rồi. Yên tâm đi, từ xưa giả không thắng được thật, tà không thắng nổi chính, dù chẳng tìm được mảnh tranh đó, Minh Nhãn Mai Hoa cũng chưa chắc thua đâu. Chỉ cần nghe theo tấm lòng truy cầu cái thật, nắm giữ vật thật trong tay thì dù chúng giở trăm phương ngàn kế, ta vẫn có thể thủ vững như núi.”
Nói vậy nhưng giọng Lưu Nhất Minh vẫn mệt mỏi tột cùng. Tôi hiểu ông chỉ đang an ủi mình mà thôi. Lưu Nhất Minh còn nói thêm, “Tuổi tác tôi đã cao, bác sĩ không cho đi xa. Lần này Tiểu Lưu sẽ thay tôi tham dự buổi giao lưu văn hóa Bắc Kinh - Hồng Kông, cậu mau về Bắc Kinh đi.”
Nghe ra ý “đem con bỏ chợ”, tôi cao giọng, “Chưa đến lúc chịu thua đâu!” đoạn cúp máy.
Tuy cụ Lưu đã đoan chắc với tôi rằng bản của Cố cung là thật, nhưng giám định cổ vật rất khó có thể bảo đảm trăm phần trăm, lỡ ông cũng mắc lừa thì sao? Lỡ tổ giám định Cố cung ngay từ đầu đã lầm thì sao? Lỡ Bách Thụy Liên lôi ra một chứng cớ không chối cãi được thì sao? Bách Thụy Liên trù tính đã lâu, ắt có sát chiêu lợi hại có thể chứng minh bức trong Cố cung là giả, nếu chúng tôi không có quân át chủ bài để chống lại thì khả năng thua sẽ rất cao. Tới lúc đó không chỉ Minh Nhãn Mai Hoa thất thủ, mà cả thị trường cổ vật Trung Quốc sẽ rơi vào tay chúng.
Trước tình thế này, tôi sao có thể buông bỏ, sao dám buông bỏ đây?
Con người tôi chẳng có ưu điểm nào ngoài cố chấp. Mặc người Nam Bắc Tây Đông, ta đây vẫn quyết bạn cùng núi xanh. Nhà họ Hứa chúng tôi đời đời vẫn cổ hủ ngoan cố như thế.
Rời bốt điện thoại, tôi định thần nhìn quanh, chợt nảy ra một ý nghĩ lạ lùng. Giờ đã hơn mười giờ đêm, người xe thưa thớt, chỉ có những ngọn đèn sáng trưng dàn hàng hai bên đường. Tôi đi tới lối dành cho người đi bộ, sải bước chạy. Thoạt đầu chỉ chạy chầm chậm rồi nhanh dần, tiếng chân tôi nện xuống mặt đường nhịp nhàng, hai tay nắm chặt, luân phiên vung lên như một con bồ câu vụng về đập cánh. Cứ thế chạy miết, dọc con đường thênh thang, nghe gió rít bên tai ù ù.
Tôi vốn không ham thể thao, thể lực cũng chỉ trung bình, bỗng dưng vận động mạnh như thế, thân thể lập tức phản ứng. Mới chạy được hơn một cây số, tôi đã thở hồng hộc, hai chân đau buốt. Tôi nghiến răng, để đại não quất roi thúc dây thần kinh vận động, hòng ép ra chút năng lượng cuối cùng từ chúng, tiếp tục giữ nguyên vận tốc. Chẳng mấy chốc trán tôi đã túa mồ hôi, lưng áo cũng bắt đầu ướt đẫm.
Nhưng thân thể càng rời rã thì nỗi muộn phiền trong lòng cũng dần tiết ra ngoài, đầu óc sáng rõ hơn ra. Từ anh Từ, tôi học được rằng tâm trạng buồn rầu cũng như nước trong miếng bọt biển, có thể ép ra khỏi cơ thể thông qua vận động cường độ cao. Dưới núi Tử Kim, tôi đã trút bỏ hết những nôn nóng trong lòng qua việc rập bia, giờ tôi lại điên cuồng chạy để tiêu tan buồn bực.
Tôi chạy một mạch về khách sạn, ướt sũng mồ hôi như vừa ngoi từ sông Hoàng Phố lên, phổi rát bỏng, hai chân run bần bật cơ hồ không đứng nổi. Bước vào phòng, tôi ngồi phịch ngay xuống xô pha, chẳng buồn đóng cửa, cũng chẳng đứng lên nổi nữa.
Cơ thể mệt lử, nhưng tâm trạng tôi lại nhẹ nhõm. Tôi dựa vào xô pha, ngửa đầu nhìn trần nhà, bắt đầu ôn lại từng chuyện từ khi đến Trịnh Châu, nghiền ngẫm kỹ mọi chi tiết xem có bỏ sót manh mối nào không. Cũng lạ, tôi mệt đến không nhúc nhắc nổi một ngón tay, song đầu óc lại sáng tỏ chưa từng thấy, mọi việc lần lượt trôi qua tâm trí như một bộ phim.
Tôi lặng lẽ ngồi trên xô pha, tua lại những cảnh tượng ấy trong đầu. Chẳng biết bao lâu sau, một cảnh sáng lên trước mắt tôi, rồi tới một cảnh nữa, một sợi dây tưởng chừng mỏng mảnh gắn liền cả hai lại với nhau; sau đó lại vươn dài, lội trong ký ức sâu thẳm ra cảnh thứ ba, rồi thứ tư, thứ năm… Chỉ một lát sau, trong đầu tôi đã giăng mắc thành một tấm mạng nhện phức tạp.
Tôi nhắm nghiền mắt lại, hòng nhìn rõ tấm lưới hơn. Trong tưởng tượng, tôi với tay ra, lần này những manh mối mơ hồ hiện rõ rành rành. Tôi có thể sờ thấy những nút thắt giữa các manh mối, cũng có thể vuốt dọc theo hướng phát triển của chúng. Thậm chí tôi còn cảm thấy mình có thể gỡ cả tấm lưới ra, rồi chắp lại từng chút một.
Tôi mở bừng mắt, nhìn đồng hồ thấy mười hai giờ đúng. Tôi dang hai tay, chống vào tay vịn ghế, gắng nhấc mình khỏi xô pha. Tôi phải tới một chỗ, nhưng lại nhận ra mình chưa chắc đã đi hết được hành lang trước cửa phòng.
Vận động mạnh để bào mòn buồn bã tuy hay nhưng khi muốn hành động tiếp, nó lại gây ra ảnh hưởng tiêu cực không sao tránh khỏi.
Song tôi không còn thời gian để lãng phí nữa.
Tôi nén đau, lê từng bước ra quầy lễ tân, mượn một cây gậy rồi khập khiễng nhích từng bước ra khỏi khách sạn trong cái nhìn chằm chằm của nhân viên trực đêm.
Tôi muốn tới đại học Phục Đán. Lúc này cả ngôi trường đã chìm trong giấc ngủ, cổng lớn đóng im ỉm, chỉ có mấy phòng thí nghiệm sáng đèn. Tôi nói với bảo vệ là mình bị thương trong lúc đánh bóng rổ, vừa từ bệnh viện về. Bảo vệ cũng không hỏi nhiều, xua tay cho vào. Tôi nhìn quanh định hướng rồi đi thẳng về phía ký túc nghiên cứu sinh.
Tuy ký túc nghiên cứu sinh có quản lý trực đêm nhưng cũng không quản chặt như bên ký túc sinh viên, mười hai giờ đêm mà cửa vẫn không khóa. Tôi rón rén chạy lên tầng ba, gõ cửa phòng Đới Hải Yến. Đới Hải Yến còn chưa kịp dậy mở cửa, mấy phòng bên cạnh đã len lén hé cửa nhìn trộm. Tôi phớt lờ những ánh mắt săm soi, tiếp tục gõ theo nhịp. Gõ hơn hai mươi tiếng, mới nghe Đới Hải Yến ngái ngủ hỏi vọng ra, “Ai đấy?”
“Hứa Nguyện đây.”
Cửa mở hé, Đới Hải Yến mặc đồ ngủ hoa, mắt nhắm mắt mở ló ra. Cô mơ màng nói, “Nếu anh muốn theo đuổi tôi thì chọn nhầm thời điểm quá rồi.”
“Tôi biết đến muộn thế này làm phiền cô nghỉ ngơi. Nhưng có một việc quan trọng tôi nhất định phải hỏi.” Tôi nói khẽ.
“Việc sống chết à?” Đới Hải Yến vặn lại.
“Việc sống chết!” Tôi trịnh trọng gật đầu.
Đới Hải Yến ồ lên rồi mở cửa rộng ra, để tôi vào. Song tôi giữ lấy khung cửa, “Sự tình khẩn cấp, tôi không vào đâu, chỉ hỏi mấy câu thôi, xong là đi ngay.”
“Anh hỏi đi.” Đới Hải Yến dựa cửa, hai tay khoanh trước ngực.
“Lần trước cô kể chi của Đới Hạc Hiên là dòng thứ, đã rời Tiền Đường từ lâu phải không?”
“Chính xác.”
“Lần trước cô cũng kể nhà họ ban đầu chuyển đến Hà Nam, sau đó mới dời về Nam Kinh phải không?”
“Ừ.”
“Ở Hà Nam họ làm nghề gì?”
“Buôn cổ vật. Nghe nói làm ăn cũng khấm khá, là một trong những cửa hiệu tiếng tăm ở Hà Nam. Mãi tới trước giải phóng họ mới dọn về Nam Kinh.”
“Cảm ơn nhé!” Tôi chắp tay cảm tạ rồi chống gậy khập khiễng ra về.
Đới Hải Yến không ngờ tôi lại đi nhanh như vậy, liếc xéo mấy phòng hé cửa hóng chuyện kia, làu bàu, “Thì ra anh đến hỏi mấy câu thật,” rồi đóng cửa quay vào.
Rời đại học Phục Đán, tôi quay về khách sạn, gọi điện cho Đới Hạc Hiên.
Giờ này mà Đới Hạc Hiên vẫn chưa ngủ, đệ tử nhận điện nói lão ta đang vận công thổ nạp, đêm khuya thanh vắng rất hợp để dưỡng khí. Tôi chẳng muốn nghe mấy câu vớ vẩn ấy thêm nữa, bèn lôi thân phận đại sứ quảng bá của Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng bá văn hóa Vũ Trụ Hoàng Đế ra, bảo chuyển máy cho Đới Hạc Hiên. Đệ tử kia không dám chậm trễ, vội chạy đi bẩm sư phụ. Chừng năm phút sau, Đới Hạc Hiên mới thong dong bắt máy, “Trò ngoan, khuya thế này con còn gọi tới, có gì thắc mắc trong việc tu luyện cần ta chỉ dẫn à?”
“Tôi có việc cần hỏi thầy.” Tôi vào đề ngay.
“Chẳng phải con đã tìm tới đứa cháu gái kỳ hoa dị thảo của ta rồi ư?”
“Không liên quan tới cô ấy.”
“Vậy liên quan tới Hoàng Yên Yên à? Cô ta rời trại tạm giam rồi đấy, con không biết hả?”
Tôi khựng lại, mấy hôm nay việc này dồn dập nối tiếp việc kia, chẳng còn bụng dạ nào nghĩ đến Yên Yên nữa. Nghĩ tới chuyện cô rời trại tạm giam mà mình không đi đón được, tôi lại áy náy. Nhưng tình thế trước mắt nguy cấp, tôi không thể nghĩ nhiều, vội hỏi ngay, “Không liên quan gì tới họ cả, tôi muốn hỏi thầy, trò cược trăm bước bắn liễu có phải là cách gọi riêng của Hà Nam không?”
Đới Hạc Hiên không ngờ tôi lại hỏi câu này, bèn đáp, “Đúng thế, Bắc Kinh, Nam Kinh đều không gọi là trăm bước bắn liễu, chỉ có Hà Nam gọi thôi.”
Tôi thầm trách mình sơ ý. Lúc trước Đới Hạc Hiên dụ tôi đánh cược đã dùng từ này, chứng tỏ gia đình lão quê gốc Hà Nam. Bấy giờ tôi đã sinh nghi, nhưng về sau lại quên khuấy. Nghe Đới Hải Yến kể rằng chi nhà Đới Hạc Hiên dời đến Hà Nam, tôi vẫn chưa ngộ ra. Mãi tới giờ mới lắp ghép được hai chuyện lại với nhau.
“Đới Hải Yến kể rằng nhà thầy vốn cũng ở Hà Nam, làm nghề buôn bán cổ vật.”
“Nào chỉ mở tiệm, còn có thể xếp vào hàng mười hiệu đứng đầu tỉnh ấy chứ. Tiếc rằng sau khi kháng chiến thắng lợi, các cụ trong nhà quá tin vào Tưởng Giới Thạch nên mới dọn đến Nam Kinh, sau đó… khụ.” Đới Hạc Hiên nuối tiếc kể.
“Vậy thầy từng nghe nói đến thưởng trân hội ở nhà hàng Dự Thuận bao giờ chưa?” Tôi cố nén kích động.
Đới Hạc Hiên ngẫm nghĩ rồi đáp, “Có nghe nói, sự kiện chấn động giới cổ vật Hà Nam cơ mà. Lần đó Hoàng Khắc Vũ thua đau, từ bấy mới bị Lưu Nhất Minh cưỡi cổ.”
“Bảy cửa hiệu lớn ở Hà Nam bắt tay nhau bày thưởng trân hội, có nhà thầy không?”
Đới Hạc Hiên hào hứng, “Có chứ! Hiệu nhà ta xếp thứ sáu. Cuối thời Thanh nhà ta mới dọn tới Hà Nam, là dân ngụ cư mà đạt được vị thế cao như thế không phải dễ đâu nhé. Hoàng Đế cũng có gốc gác Hà Nam, Hoàng Đế nội công của ta lấy cảm hứng từ truyền thống gia đình…”
Tôi chẳng hơi đâu nghe lão tự tâng bốc mình, tiếp tục gặng, “Thầy có biết thưởng trân hội lần ấy diễn biến cụ thể thế nào không?” Rồi nhớ ra tuổi Đới Hạc Hiên, tôi lại đổi giọng, “Các cụ nhà thầy có kể chuyện xảy ra trong thưởng trên hội ở nhà hàng Dự Thuận không?”
“Thưởng trân hội lần ấy yêu cầu nghiêm ngặt, các cửa hiệu lớn chỉ có ông chủ được đi, tổng cộng bảy cửa hiệu là bảy người. Người của nhà ta trở về chỉ buông đúng một câu may mà thắng được, không nói gì thêm. Mấy ông già bà cả ngoan cố lắm, đã thề thì đánh chết không chịu hé răng.”
Tôi thất vọng tràn trề, đã điều tra đến nước này rồi, lẽ nào không thể chừa cho tôi chút cơ hội ư?
“Thật là không nói nửa lời chứ?” Tôi vẫn cố vớt vát.
“Hừm… ông ấy quả thực không hé răng, song trên đời có chuyện gì tuyệt đối bí mật đâu, về sau ta cũng láng máng nghe người khác kể lại chút chút. Đồn rằng ban đầu bảy ông chủ nắm chắc mười mươi, nào ngờ Hoàng Khắc Vũ như được thần linh phù hộ, đánh đâu thắng đó, lần lượt phá hết mọi cạm bẫy họ bày ra. Thấy sắp không trụ nổi, một vị bèn đề nghị đi thâu đêm mời cao nhân bí ẩn họ Liêu từ Khai Phong tới, đánh một trận định càn khôn.”
“Người họ Liêu đó hiệu là Mắt Âm Dương phải không?”
“Đúng thế, nhưng ta không biết lai lịch thế nào. Ông ta đến nhà hàng Dự Thuận, đi thẳng lên tầng cao nhất, nói rằng muốn đấu một trận núi đao biển lửa với Hoàng Khắc Vũ. Những kẻ khác đều phải lui xuống tầng dưới, không được lên trên. Nửa tiếng sau Hoàng Khắc Vũ đi xuống chịu thua, còn Mắt Âm Dương được khiêng xuống. Không ai biết trên đó đã xảy ra chuyện gì.”
“Sau đó Mắt Âm Dương thế nào, không ai biết ư?”
“Chuyện đó thì ta không rõ.”
Tôi thất vọng thở dài, những điều này tôi đã được nghe Chung Ái Hoa và Lưu Nhất Minh kể rồi, thậm chí còn rõ hơn Đới Hạc Hiên, biết họ đánh cược bằng Cập xuân đạp hoa đồ. Những người lên nhà hàng Dự Thuận năm xưa, bảy chủ hiệu đều đã qua đời, Hoàng Khắc Vũ hôn mê bất tỉnh, Mắt Âm Dương chẳng rõ tung tích. Manh mối về bức Cập xuân đạp hoa đồ đến đây hoàn toàn đứt đoạn.
“Mắt Âm Dương nhìn thấu âm dương thật sao?” Tôi ủ rũ gãi đầu thầm nghĩ, nếu ông ta thực sự có khả năng đặc biệt ấy thì đi đến đâu cũng sẽ gây chấn động, đâu chỉ một lần ở nhà hàng Dự Thuận, chưa chừng lại tìm được manh mối ở chỗ khác.
Đới Hạc Hiên cười rộ lên, “Con là đại sứ quảng bá của Hoàng Đế nội công, sao lại đi tin mấy thứ nhảm nhí ấy? Khả năng đặc biệt chứ có phải rau cải đâu mà sẵn thế. Mắt Âm Dương chỉ là cách nói của người Hà Nam thôi, thực ra là mắt to mắt nhỏ, mắt nhỏ bẩm sinh do gen di truyền liên quan gì đến âm tào địa phủ, toàn mê tín dị đoan.”
Bàn tay đang gãi đầu của tôi chợt khựng lại.
Mắt to mắt bé.
Quê gốc Khai Phong.
Họ Liêu.
Gộp ba điều kiện này lại, tôi nghĩ ngay đến một gã mình biết, bất giác bàng hoàng.
Chẳng phải là Mắt Trố bày cỗ ăn trên chiếu bị tôi dẫn cảnh sát đến bắt ư!
Tôi nhớ rõ Mắt Trố bị bắt cùng con trai. Hai cha con đều mắt to mắt bé, có thể thấy là gen di truyền. Lúc thẩm vấn y khai rằng mình họ Liêu, nhà ở Khai Phong. Theo lời Đới Hạc Hiên, chẳng lẽ Mắt Trố là con cháu Mắt Âm Dương? Sao mà khéo thế?
Tôi đi loanh quanh một vòng, hóa ra lại quay về điểm khởi đầu. Người cuối cùng tôi phải tìm, té ra là kẻ tôi đã gặp đầu tiên, vận mệnh đúng là một trò đùa.
Tôi cúp máy, chạy vào nhà tắm vã nước lạnh lên mặt. Nước lạnh vã lên, kích thích da tôi. Ngẩng đầu nhìn, trong gương hiện ra một gương mặt hoàn toàn thấu triệt.
Tôi lấy chứng nhận Phương Chấn cho ra, không còn nhiều thời gian nữa, phải trở về Bắc Kinh ngay.
Chẳng kịp xếp hành lý, tôi đi thẳng ra cửa khách sạn. Vừa bước ra đã thấy hàng loạt đèn flash chớp lóe, rồi mấy phóng viên từ chỗ nấp chạy tới. Tôi nhận ra lại là mấy tay chặn mình ở Phục Đán bữa trước, thì ra họ vẫn không nản lòng, cắm chốt trước cửa khách sạn, còn có cả quay phim theo sau.
“Xin hỏi vừa rồi anh lại đến ký túc của cô Đới Hải Yến giữa đêm hôm, có phải các vị đã xác định quan hệ rồi không?”
“Sao anh lại từ chối bình luận, có phải bị chính phủ đe dọa không?”
“Thảm cảnh của ông nội anh có ảnh hưởng đến anh không?”
Đủ mọi câu hỏi ập đến. Tôi sầm mặt rẽ đám đông bu bám như ruồi nhặng, lẳng lặng đi thẳng, mặc cho họ bám theo như hình với bóng. Giữa những tiếng ồn ào, tôi chợt nghe thấy một nhà báo lớn tiếng hỏi, “Triển lãm giao lưu văn hóa vật thể Bắc Kinh - Hồng Kông sắp diễn ra rồi, tới lúc đó hai bức Thanh minh thượng hà đồ của Cố cung và Bách Thụy Liên sẽ được đem ra đối chiếu, là người châm ngòi chuyện này, anh nghĩ thế nào?”
Tôi dừng bước, đi tới trước mặt người vừa hỏi. Đó là một phụ nữ ngoài bốn mươi, mặt tròn, tóc xoăn, môi tô đỏ chót. Thấy tôi nhìn chằm chằm, chị ta rụt rè lùi lại một bước. Tôi giơ tay cầm lấy micro của chị ta rồi bước tới trước máy quay, nói rành rọt, “Tôi sẽ đến Hồng Kông đem theo chân tướng, mong các vị chuẩn bị cho tốt.”
Tôi biết Chung Ái Hoa nhất định sẽ nghe được, Bách Thụy Liên và những kẻ đứng sau hắn cũng vậy. Dứt lời tôi trả micro lại cho người kia rồi quay đi, đấu chí hừng hực dâng trào.
Tôi đã nghĩ thông. Dù manh mối chỉ đến Mắt Trố là đứt, tôi cũng phải tới Hồng Kông. Chuyện này từ tôi mà ra, tự tôi phải kết thúc nó. Tôi đẩy Minh Nhãn Mai Hoa xuống vách núi thế nào thì phải kéo nó lên thế ấy. Đây là trách nhiệm của một chuyên gia giám định.
Chứng nhận đặc biệt quả là hữu ích, nhờ có nó tôi đã lên được chuyến bay quân dụng gần nhất, sáng sớm hôm sau thì tới Bắc Kinh. Vừa xuống thang máy bay, tôi đã thấy chiếc jeep của Phương Chấn đậu trên đường băng đợi sẵn. Chẳng kịp hít thở không khí trong lành, tôi chui ngay vào xe.
Phương Chấn vừa nổ máy vừa thông báo, “Hôm nay Cố cung sẽ mở kho, sau khi Thanh minh thượng hà đồ cùng các văn vật tham gia triển lãm được đóng thùng, cục trưởng Lưu sẽ đích thân dẫn đoàn đến Hồng Kông, tôi cũng phải đi theo phụ trách đội bảo vệ.”
“Mấy giờ xuất phát?”
“Tôi đưa cậu đến nơi là đi ngay, cậu tự nói chuyện với Mắt Trố nhé.” Phương Chấn lái xe với vẻ mặt vô cảm, rồi nói thêm, “Mắt Trố sắp bị tuyên án rồi, nếu lập công chuộc tội sẽ được giảm án.”
Tôi cười, có câu này của Phương Chấn là được rồi.
Chiếc jeep chạy băng băng trên đường, đột nhiên Phương Chấn lại nói, “À phải, cậu bảo tôi điều tra Chung Ái Hoa đúng không? Có chút manh mối rồi đấy.”
“Ồ,” tôi phấn khởi.
“Những chuyện hắn kể với cậu cơ bản đều là thực. Hắn quả thật có một người bác ở An Dương vì mua lầm đồ giả mà tự sát, chuyện này còn liên quan đến Minh Nhãn Mai Hoa. Mười năm trước, Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa tiến hành thẩm tra văn vật giả trên cả nước, tìm được một món hàng giả ở An Dương, Hoàng Khắc Vũ đích thân báo cho địa phương, sở Quản lý hiện vật văn hóa An Dương nhận định rằng bác của Chung Ái Hoa đã tham ô trong lúc nhập hàng, ngay hôm sau ông ta uất ức tự sát. Sau đó một năm, Chung Ái Hoa theo cha mẹ di cư đến Hồng Kông.”
“Nên hắn mới hận chúng ta?”
“Thông tin về Chung Ái Hoa ở Hồng Kông tôi không rõ lắm. Chỉ biết cha mẹ hắn qua đời khá sớm, hắn từng tham gia Tân Nghĩa An, còn bị kiện cáo vì dính líu đến mạng người, về sau trốn vào thành trại Cửu Long, không ai trông thấy nữa, cho tới khi cậu gặp hắn ở Trịnh Châu.”
“Thành trại Cửu Long ư?”
“Thôi, cậu không muốn nghe về chỗ đó đâu.” Phương Chấn nhíu mày, lộ vẻ ghê tởm ít thấy.
Tôi nhắm mắt lại. Một đứa bé mới tí tuổi đầu đã đầu quân cho xã hội đen lại lắc mình biến thành quản lý khu vực Đại Lục của sàn đấu giá quốc tế lớn, những trải nghiệm trong đời ấy đủ quay thành một bộ phim. Chẳng trách tên đó vừa xảo quyệt như hồ ly, vừa có vẻ trầm tĩnh và già dặn trước tuổi. Mỗi lần nhớ tới thái độ vô tư nhiệt tình của Chung Ái Hoa ở Trịnh Châu, tôi lại không rét mà run.
Nhưng lạ một điều là sau lần tình cờ chạm trán ở Phục Đán, ngoài giở trò tách Dược Bất Nhiên ra, lợi dụng cánh nhà báo để kiềm chế tự do của tôi, hắn không đi thêm nước cờ nào nữa. Hắn thôi đeo bám Đới Hải Yến, cũng không phá bĩnh những hành động điều tra sau đó của tôi.
Chung Ái Hoa im hơi lặng tiếng lại khiến tôi nơm nớp không yên, cảm giác như có một con sói đang khom lưng rình trong bụi cỏ chuẩn bị lao đến vồ mình. Tôi cố trấn tĩnh lại, tự nhủ đây không phải vấn đề đáng lo nhất hiện giờ.
Chiếc jeep chẳng mấy chốc đã tới trước cửa trại giam nằm tại một góc yên tĩnh vùng ngoại ô phía Nam. Phương Chấn trao đổi mấy câu với người bên trong rồi vội vã rời đi. Nhân viên quản ngục dẫn tôi đến phòng thăm gặp, bảo tôi điền vào đơn xin thăm phạm nhân. Tôi không phải công an làm án, không được vào phòng thẩm vấn, đành xin gặp Mắt Trố theo cách này.
Phòng thăm gặp rất tuềnh toàng, vôi đã tróc quá nửa, khẩu hiệu sơn trên tường cũng mờ cả. Một dãy bàn cao đến ngực màu nâu sẫm ngăn đôi gian phòng, nhưng trên bàn không lắp kính.
Tôi ngồi xuống đợi, lát sau Mắt Trố được một quản giáo đưa vào theo cửa khác. Y mặc áo tù màu xám, đầu cạo trọc, song trong bộ dạng vẫn không tới nỗi nào, bước vào phòng còn nhìn quanh ngó quất. Thấy người thăm là tôi, con mắt to của y trợn tròn, trong khi mắt nhỏ thì nheo lại, “Tướng mặt cậu càng ngày càng xấu đi đấy.”
Bấy giờ tôi mới nhớ ra lần trước Mắt Trố từng xem tướng cho mình, nói rằng mặt tôi treo kéo vàng, nhắm thẳng nhân trung, sẽ gặp kiếp nạn. Không bao lâu sau thì xảy ra vụ Thanh minh thượng hà đồ, chẳng biết có phải là ứng nghiệm không nữa. Mắt âm dương của tay này coi như cũng linh.
“Xấu ở đâu?” Tôi hỏi.
“Cây kéo vàng trên mặt cậu giờ nửa khép nửa mở, không rõ định khép lại hay mở ra, nên là mệnh lửng lơ. Lành dữ thế nào phải trông vào ý niệm của cậu.” Mắt Trố đang hào hứng phân tích, nghe quản giáo đứng bên đằng hắng một tiếng, vội khiêm tốn xua tay, “Ai dà, toàn mê tín dị đoan cả, tôi đang lao động cải tạo, thuận miệng nói linh tinh thôi, cậu đừng coi là thật nhé.”
Tôi hỏi thẳng, “Lần này tôi đến có việc muốn hỏi anh.”
Mắt Trố lắc lư cái đầu, vẻ oan ức, “Tôi đã khai tất cả rồi mà, không giấu giếm gì đâu.”
“Trước giải phóng nhà anh vẫn ở Khai Phong ư?”
“Đúng thế, tới đời tôi mới dần dà tản mát.”
Tôi lại chỉ mặt y, “Cặp mắt này của anh là bẩm sinh à?”
Mắt Trố ngớ người, “Phải, cậu định bảo lãnh cho tôi ra ngoài chữa bệnh? Tôi đã nghiên cứu rồi, không phù hợp điều kiện đâu.”
Tôi ngắt lời, “Người trong nhà anh đều có mắt âm dương thế này sao?”
Nghe thấy ba chữ ‘mắt âm dương’, Mắt Trố tái mặt. “Cậu… cậu biết cả chuyện đó à?”
“Trả lời tôi đi.”
Mắt Trố đưa tay phải lên miệng theo thói quen, rồi chợt nhận ra không có thuốc lá, y gượng cười, con mắt nhỏ lộ vẻ bùi ngùi, “Bệnh này của nhà tôi y học gọi là mắt nhỏ bẩm sinh, di truyền. Người ta có báu vật gia truyền, đằng này lại bị bệnh gia truyền, cậu bảo có khổ không. Bộ dạng thế này đừng nói là làm quan chức hay buôn bán, ngay cả làm thuê cho người ta cũng chẳng ai nhận, đi đến đâu bị hắt hủi đến đấy. Tổ tiên tôi hết cách, đành biến rác thành vàng, tự gọi nó là mắt âm dương, có thể nhìn thấu cõi âm. Người xưa vô cùng mê tín, tưởng rằng nhà tôi có thiên bẩm trời ban, hễ cần xem quẻ đoán số, chôn cất hay đuổi ma tế thần v.v… đều mời người nhà tôi, lâu dần thành tiếng Mắt Âm Dương.”
“Cả Khai Phong chỉ nhà anh có mắt âm dương thôi hả?”
“Nơi khác thì không biết, còn ở Khai Phong chỉ có độc nhà tôi thôi. Chứng bệnh này đâu phải phổ biến.”
Tôi hít sâu một hơi, “Hơn bốn mươi năm trước, Khai Phong có một Mắt Âm Dương đến nhà hàng Dự Thuận ở Trịnh Châu, đánh bại cao thủ Hoàng Khắc Vũ của Minh Nhãn Mai Hoa. Anh biết chuyện này không?”
Mắt Trố đáp ngay không chút chần chừ, “Biết.”
“Là người trong họ anh à?”
“Là ông Hai tôi.” Mắt Trố thành thật trả lời.
Tôi tóm chặt mép bàn bằng hai tay, tim hồ như ngừng đập. Kẻ thần bí trong cuộc tỷ thí ở nhà hàng Dự Thuận rốt cuộc cũng hiện thân rồi.
“Anh kể tôi nghe được không?” Tôi gắng nén hưng phấn.
Mắt Trố là típ người cởi mở, tôi muốn hỏi han manh mối từ người khác thế nào cũng phải vòng vo tam quốc một hồi, chỉ có y là hỏi đâu đáp đấy. Vừa nghe tôi hỏi, y đã hào hứng giơ ngón cái, ngả người ra sau, hãnh diện khoe, “Ông Hai tôi cũng là một trường hợp đặc biệt trong nhà họ Liêu. Ông tên Liêu Định, chỉ một lòng nghiên cứu cổ ngoạn, mặc cho cả họ nhà tôi xem tướng đoán mệnh kiếm sống qua ngày. Sở dĩ tôi dấn thân vào nghề này cũng một phần là bị ông ảnh hưởng. Tiếc rằng sinh nhầm thời, từ sau giải phóng tôi không có đất dụng võ, để sống qua ngày, đành lưu lạc tới bước này…”
“Nói vào việc chính đi!”
“Được, được. Tôi nghe các cụ trong nhà kể, trước đây ông Hai là kẻ lừa bịp, lang thang khắp mấy tỉnh phía Bắc kiếm sống bằng đôi mắt âm dương. Về sau chẳng hiểu sao ông đụng phải một cao thủ. Người ta nhìn qua đã bắt thóp được ông, làm ông khốn đốn. Có điều cao thủ ấy tay nghề cao, tấm lòng lại rộng rãi, ông ta nói tư chất ông Hai tôi cũng khá, nếu cứ đi lừa gạt như thế thì quá lãng phí, bèn dạy ông Hai vài ngón nghề giám định cổ vật rồi cho một món tiền, dặn ông về quê làm ăn tử tế. Ông Hai tôi ghi lòng tạc dạ, sau khi về Khai Phong bèn bỏ hết những trò lừa lọc, chuyên tâm nghiên cứu cổ vật. Có chí thì nên, ông Hai tôi vốn thông minh sẵn, lại dốc lòng nghiên cứu, cuối cùng thực sự đã trở thành cao thủ giám định. Về sau trong giới đồn rằng cặp mắt âm dương của ông chẳng những nhìn thấu âm ti mà còn soi được cả cổ kim, xem món nào chuẩn món đấy, càng đồn càng linh. Nhưng ông Hai tôi biết tất cả là do được cao nhân truyền thụ, song cao nhân ấy chưa chính thức nhận ông làm đệ tử, ông cũng không dám nhận bừa, bèn bày một khám thờ tại nhà, lập bài vị trường sinh cho cao nhân nọ, mỗi ngày thắp ba nén hương, chưa bao giờ chểnh mảng. Về sau người đó vì tuồn văn vật ra nước ngoài, bị nhà nước kết tội làm Hán gian rồi xử bắn, ông Hai tôi…”
“Đợi đã!” Tôi lớn tiếng, mắt trợn tròn như muốn nổ tung. “Cao nhân nọ tên gì?”
“Họ Hứa, tên Hứa Nhất Thành, là chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa. Cậu biết Minh Nhãn Mai Hoa không?”
Mắt Trố thao thao những gì, tôi hoàn toàn không nghe được nữa, chỉ ngồi chết trân trên ghế, không cử động nổi, lòng cồn lên muôn ngàn đợt sóng. Tôi chẳng bao giờ ngờ được chuyện này còn liên quan tới cả ông mình, đúng là dây mơ rễ má chằng chịt.
“Này, cậu sao thế? Mặt tái mét đi kìa, hay chúng ta nghỉ một lát?” Mắt Trố quan tâm hỏi.
“Khỏi, khỏi cần, anh kể tiếp đi.”
“Hứa Nhất Thành bán văn vật cho người Nhật nên bị xử bắn. Ông Hai tôi đứng trước bài vị trường sinh khóc thảm thiết, nói rằng có đánh chết cũng không tin ông ấy làm Hán gian. Khóc chán rồi, ông Hai đóng cửa không làm ăn gì nữa, tuyên bố bỏ nghề, hẳn là bị sốc nặng. Sau khi kháng chiến thành công, có người đến tìm ông Hai, mời ông tới Trịnh Châu có việc gấp. Ông Hai vốn định từ chối, nhưng vừa nghe nói là đối phó với người của Minh Nhãn Mai Hoa bèn đập bàn tuyên bố, chưởng môn Hứa chết thảm ắt có liên quan đến lũ vong ơn bội nghĩa Minh Nhãn Mai Hoa, ta phải báo thù cho ông ấy, tức thì khăn gói đi ngay.”
Hai tay tôi vô thức run bắn lên, khóe mắt ướt đẫm. Năm xưa ông tôi qua đời, bị cả nước chửi là Hán gian, không ngờ ở Khai Phong vẫn có người tin rằng ông trong sạch.
“Về sau thế nào?”
“Về sau tôi không biết.” Mắt Trố đáp, “Ông Hai tôi cầm đi một bức tranh, song lúc về chỉ đem theo một mớ giấy vụn. Không lâu sau ông cũng nhắm mắt xuôi tay.”
Tôi gần như không ngồi nổi nữa. Bức tranh nọ nhất định là Cập xuân đạp hoa đồ. Đúng như Lưu Nhất Minh nói, trong ván cược, nó đã bị xé tan.
“Đống giấy vụn ấy đâu rồi?”
“Lúc hấp hối, ông Hai trối rằng đã phần nào rửa hận được cho chưởng môn Hứa rồi, không còn gì hổ thẹn nữa, dặn con cháu chôn đống giấy vụn kia theo ông. Như thế xuống âm tào địa phủ ông gặp chưởng môn Hứa, nói rằng đã giúp ông ấy báo thù thì cũng có bằng có chứng.”
“Chôn theo rồi à? Liêu Định chôn ở đâu?”
“Ông Hai tôi dặn muốn được chôn ở nơi chưởng môn Hứa qua đời, đôi hồn gần gũi, ông mới dễ tìm gặp được Hứa Nhất Thành. Con cháu trong nhà vâng lời trăng trối đã hỏa thiêu ông, cho tro cốt vào hộp gấm rồi đưa tới Bắc Bình chôn cất.”
“Khoan đã, hỏa táng rồi à?” Tôi kinh ngạc hỏi lại.
“Mắt âm dương chúng tôi nhìn trộm thiên cơ, trời đất không dung. Thế nên đời đời không để lại thi hài, chết đi đều hỏa táng cả.” Mắt Trố nghiêm trang đáp.
Tôi than thầm, nếu vậy thì đống mảnh vụn của Cập xuân đạp hoa đồ chẳng cũng thành tro rồi sao? Lẽ nào tôi đã sắp đến đích lại phải ngậm ngùi trở về? Không được, bất luận thế nào tôi cũng phải tận mắt trông thấy đống tro ấy mới chịu thôi.
“Liêu Định chôn ở chỗ nào của Bắc Kinh?”
Mắt Trố gật đầu rồi giơ tay chỉ về phía Đông, “Ông Hai tôi chôn cạnh pháp trường hành hình Hứa Nhất Thành năm xưa, dưới chân núi Linh Yên Giao ngày nay.”
Tôi sững người.
Tôi đứng trên gò đất gồ lên bên đường, khum tay phóng mắt nhìn ra. Núi Yên mênh mông chạy dài đến đây là hết, phần còn lại gồ lên thành ngọn núi Linh chót vót, mặt Đông nối liền với rặng núi, ba mặt còn lại đều là đồng bằng. Trên đỉnh núi có bảo tháp Linh Sơn xây từ thời Liêu, tám góc năm tầng, tạo thành một tam giác với tháp Bàn Sơn phía Đông và tháp Cô Sơn phía Tây.
Yên Giao cách Bắc Kinh hơn năm mươi cây số, thuộc thành phố Tam Hà. Dưới hai triều Minh, Thanh, Tam Hà đều thuộc phủ Thuận Thiên, vẫn được coi là kinh kỳ. Các hoàng đế nhà Thanh đến Đông lăng cúng tế đều nghỉ chân ở đây, nên Tam Hà còn được gọi là hành cung ngự giá, dưới chân thiên tử. Thời Dân Quốc, chính phủ dời đô về Nam Kinh, cho tới khi đổi thành tỉnh Hà Bắc, nó lại được quy vào Hà Bắc, nhưng người dân vẫn luôn coi nó là phần kéo dài của Bắc Kinh.
Hứa Nhất Thành ông tôi bị Lão Triều Phụng hãm hại, rồi bị kết tội là Hán gian, hành hình ở đây. Mà Liêu Định, nhân vật then chốt để tháo gỡ nguy cơ lần này của Minh Nhãn Mai Hoa cũng được chôn tại đây. Nếu vẫn chưa thấy vận mệnh kỳ diệu thì xin nói thêm, mộ của bốn người nhà họ Hứa chúng tôi đều đặt tại nghĩa trang Linh Sơn Bảo Tháp gần đây, cách di tích pháp trường năm xưa vài trăm mét. Con tạo xoay vần, quay tôi như chong chóng cả một vòng lớn, cuối cùng cũng đưa tôi về điểm khởi đầu. Điều này rốt cuộc biểu thị cái gì?
Tôi ngẩng đầu thấy trời xanh lồng lộng, trong đến mức tưởng chừng thấy được cả những linh hồn thấp thoáng. Gió nhẹ thổi qua, dường như có mấy làn khói bồng bềnh nổi lên, biến ảo giữa ánh nắng vàng rực.
“Ông ơi, bố ơi, có phải cả nhà đấy không?” Tôi lẩm bẩm.
Không nghe tiếng đáp, tôi cũng chẳng đợi nghe tiếng đáp. Hít đầy phổi không khí mát rượi, tôi chậm rãi bước xuống, tay nắm chặt xẻng công binh.
Năm xưa theo di chúc, nhà họ Liêu đã chôn Liêu Định dưới chân Linh sơn, chỉ đắp thành một gò đất nhỏ ở hướng chính Đông kề sát pháp trường, còn không lập bia mộ. Quanh pháp trường là đất dữ, chẳng ai muốn chôn cất ở đó cả. May nhờ thế nên mộ Liêu Định mới thoát khỏi bao phen dông bão trong mấy chục năm qua, tồn tại đến tận ngày nay.
Nhiều năm trôi qua, gò đất đã xanh rì cỏ dại, lỗ chỗ tổ kiến, hòa làm một với cảnh vật xung quanh. Nếu không nhờ Mắt Trố chỉ dẫn, dù tôi có đứng trên nấm mộ cũng chẳng phát hiện ra.
Đào mồ quật mả là việc vô đạo đức, trước khi tới đây tôi đã phải xin phép Mắt Trố. Mắt Trố vốn tốt tính, không hề phản đối, đổi lại chỉ yêu cầu tôi có thể gửi những tài liệu pháp luật mới nhất tới nhà lao định kỳ để y học tập.
Tôi bày nhang đèn ra, cung kính dập đầu ba cái trước mộ Liêu Định, khấn rằng Minh Nhãn Mai Hoa gặp nạn lớn, hôm nay tôi buộc phải mạo phạm đào ông lên, Minh Nhãn Mai Hoa là tâm huyết của ông nội tôi Hứa Nhất Thành, nếu ông cụ còn sống, ắt cũng sẽ không khoanh tay bỏ mặc, hy vọng ông Hai trên trời linh thiêng thông cảm cho, đừng trách tội v.v…
Khấn xong, tôi vung xẻng công binh xọc vào nấm đất rồi vận lực cả hai tay xúc lên một xẻng đất. Đàn kiến nháo nhào túa ra chạy tứ tán, song tôi chẳng lo được đến những sinh vật nhỏ ấy, lại xới tiếp xẻng thứ hai. Nấm đất không lấy gì làm lớn, tôi đào một lúc đã lộ ra một ngôi mộ tiêu chuẩn một mộ thất chính với hai gian ngách hai bên, nhưng quy mô rất bé, chỉ như mô hình thu nhỏ.
Xúc thêm mấy lần, mũi xẻng của tôi đụng phải thứ gì đó ở giữa mộ. Tôi vội cúi xuống đào ra một hộp gấm vuông mỗi bề chừng một thước, làm bằng sắt, bên ngoài bọc gấm. Lớp gấm bên ngoài đã mục nát, bạc thếch, vừa chạm vào là rã. Vỏ hộp gỉ ngoèn loang lổ, song cố gắng vẫn đọc ra được ba chữ “Mộ Liêu Định”.
Tôi thận trọng bưng hộp sắt ra, thấy nó không khóa, chỉ cài bằng một thanh gỗ đã mục. Tôi rút then cài mở hộp, bên trong là một nắm tro xám trắng. Giữa đống tro xương vẫn có thể nhận ra lác đác những tàn tro giấy, hạt tro xương khá to, màu xám trắng, trong khi tro giấy ngả đen, hạt mịn hơn.
Mặt tôi tái dại đi, hai tay run bắn, suýt thì rơi cả hộp. Tia hy vọng cuối cùng đã hoàn toàn tắt ngấm. Tôi chỉ còn cách sự thật trong gang tấc, vậy mà lại gục ngã bước cuối cùng. Tôi ủ rũ ngồi bệt xuống thảm cỏ, thất vọng đến gần như nghẹt thở. Giữa lúc hồn xiêu phách lạc, tay phải tôi hơi nghiêng đi, khiến hộp tro đổ dồn về một bên, tôi giật bắn mình, vội cân nó lại. Liêu Định cũng coi như ân nhân của nhà tôi, đào mồ đã quá đáng lắm rồi, không thể làm đổ tro cốt của ông ta được.
Song nhờ cú nghiêng này tôi mới thấy giữa đống tro cốt hình như còn có gì đó. Ghé lại xem, tôi trợn tròn mắt, thấy một góc ố vàng lộ ra. Tôi nín thở, dùng nhíp nhẹ nhàng kẹp một góc nhấc lên, là một mảnh lụa nhỏ.
Mảnh lụa này chỉ to bằng bàn tay đứa bé mới sinh, vẫn nằm dưới đáy hộp, trông chẳng ra hình thù gì cả, mép cháy sém quăn queo, rõ ràng là bị lửa đốt. Tôi gắp nó giơ lên soi dưới ánh mặt trời. Chất lụa đã cũ, nhưng dấu vết bên trên vẫn nhìn ra được. Đó là một khoảnh dấu ấn đỏ thẫm, phía trên còn có hình song long, mặt lụa dính mấy vết hoen như nước mắt.
Không sai, nó đây rồi, đây chính là một mảnh trong phần thiếu của Thanh minh thượng hà đồ đã thất lạc từ thời Minh, chứng cứ quan trọng có thể dẹp yên sóng gió.
Tôi phá lên cười khanh khách, vật ra thảm cỏ, duỗi dài tay chân.
Ra là thế.
Liêu Định và Cập xuân đạp hoa đồ rõ ràng đã được hỏa thiêu riêng. Nhà họ Liêu ở Khai Phong hỏa táng Liêu Định trước, đưa tro cốt đến Bắc Kinh chôn cất ở đây. Trước khi chôn hộp tro xuống đất, họ châm lửa đốt những mảnh vụn của Cập xuân đạp hoa đồ bỏ vào hộp, bấy giờ mới coi như an táng được cho người chết.
Mấy vết như vệt nước mắt kia, gọi là lệ nến.
Trong khóa bồi dưỡng cấp tốc cho tôi tại bệnh viện 301, Lưu Nhất Minh từng nói, khi bồi lại tranh chữ, phải bôi keo, bôi phèn, bôi sáp nến, cán cho mặt sau bức tranh bóng loáng lên. Nếu bồi lại nhiều lần, nhìn nghiêng mặt lụa còn sáng mờ mờ, gọi là mặt kính, cũng gọi là mây gương. Con dấu song long này vốn thuộc về Thanh minh thượng hà đồ, sau khi bị đem chắp vào Cập xuân đạp hoa đồ cũng được cán qua mấy lần. Khi đốt, những keo, phèn, sáp nến trên mặt lụa đã phát huy tác dụng bảo vệ, lại thêm hộp tro một khi đóng lại, bên trong sẽ không còn không khí nên sót lại một mảnh này chưa cháy hết. Sáp nến chảy ra, sẽ để lại vết loang như nước mắt.
Kẻ làm giả vốn chỉ định đắp điếm chỗ sơ hở, ngờ đâu lại vô tình bảo vệ bản gốc. Những phần khác của Cập xuân đạp hoa đồ đều đã cháy thành tro, chỉ có mảnh này nhờ được bôi sáp nên còn sót lại.
Mánh lới để làm giả không ngờ lại giúp giữ gìn cái thật, quả là mỉa mai.
Tôi nằm ngửa trên thảm cỏ, tay nắm chặt mảnh vải tàn, cười ngặt nghẽo, cười mãi cười mãi lại đầm đìa nước mắt.
Lưu Nhất Minh nói đúng, người giám định cổ vật, cổ vật cũng giám định người.
Bức tranh giả của Tống Huy Tông đã chỉ ra trái tim quảng đại của ông tôi, tấm lòng son sắt của Liêu Định, đồng thời cũng soi tỏ khao khát sâu thẳm nhất đáy lòng tôi: mong cả nhà mãi mãi ở bên cạnh, không bao giờ bỏ rơi tôi. Bằng không thực không thể giải thích được tại sao thứ tôi vất vả tìm kiếm lại ở ngay cạnh nghĩa trang của bốn người nhà họ Hứa.
Tôi phủ phục xuống đất, khóc nức nở cạnh pháp trường từng xử bắn ông nội, bên nghĩa trang chôn cất các thành viên trong gia đình. Bấy giờ tôi như được trở về ngôi nhà thực sự của mình, cả nhà đều đang ở đó, tươi cười gọi tên tôi.
Trời càng thêm xanh biếc, mấy đám mây trắng lững lờ trôi qua, giúp tôi che ánh nắng chói gắt.