Chung Ái Hoa là kẻ đầu têu gây ra cục diện hỗn loạn này. Nếu không phải hắn dụ tôi tới Trịnh Châu, tất cả rắc rối về sau đã chẳng xảy ra. Hắn đóng kịch cực khéo, quan sát nhạy bén và ra tay quyết đoán, nếu rơi vào thời chiến, ắt sẽ là gián điệp thượng thừa. Chẳng biết Bách Thụy Liên kiếm đâu ra một kẻ như vậy nữa.
Tôi chỉ muốn lao tới dần cho hắn một trận nhừ tử rồi bắt hắn khai ra tất cả.
Tiếc rằng tôi không thể, tên này chỉ là đầu sai trong kế hoạch của Bách Thụy Liên, sau lưng hắn còn một thế lực lớn hơn cả Minh Nhãn Mai Hoa. Nếu giờ tôi ra tay với hắn, chỉ tổ rút dây động rừng. Huống hồ tôi còn nhiệm vụ quan trọng hơn phải hoàn thành.
“Chung Ái Hoa đấy à?” Dược Bất Nhiên hỏi nhỏ. Tôi gật đầu khẳng định.
“Hoa hồng nó ôm là hàng xịn đấy, hay thật…” Dược Bất Nhiên xoa cằm lẩm bẩm, mắt chợt sáng lên, “Năm nay Đới Hải Yến phải tầm ba mươi rồi, lại chưa chồng. Chung Ái Hoa ăn mặc thế này xuất hiện ở đây, chẳng cần nói cũng biết là có dụng ý gì.”
“Thật thế à? Cách nhau gần mười tuổi đấy.” Tôi biết Chung Ái Hoa lắm mưu nhiều kế, rất giỏi lấy lòng người, song không ngờ hắn dám làm đến mức này, đây có coi là mỹ nam kế không nhỉ?
“Mày thì biết gì, nghiên cứu sinh nữ ba mươi tuổi, lại độc thân, rất dễ mắc phải tình chị em. Huống hồ đến mày còn bị nó quay như dế muốn lừa một cô gái già thì khó gì?”
“Chết tiệt…”. Tôi rủa thầm. Nếu Chung Ái Hoa cưa đổ Đới Hải Yến thì chúng tôi coi như hết hy vọng. Giữa người yêu và hai gã cha vơ chú váo không quen không biết, Đới Hải Yến chọn ai chắc chẳng cần phải hỏi nữa. Điều duy nhất an ủi tôi là hiện giờ Chung Ái Hoa chưa đạt được mục đích. Bằng không hắn đã bỏ đi từ lâu rồi. Hắn ôm hoa hồng tới tặng, chứng tỏ vẫn chưa lấy được lòng Đới Hải Yến.
“Làm sao đây?” Tôi buộc phải cầu cứu Dược Bất Nhiên. Tôi rất vụng về trong vấn đề tình cảm, đành nhờ chuyên gia ra tay vậy.
Dược Bất Nhiên vê cằm nhìn theo bóng Chung Ái Hoa đi lên gác, cười hì hì bảo tôi, “Đợi xem kịch hay đi.”
Vừa dứt lời, một bó hồng to tướng đã từ trên trời rơi bịch xuống nền xi măng, hoa rơi vung vãi khắp nơi. Các sinh viên xung quanh ồ lên tiếc nuối, xen cả những tiếng reo hò ủng hộ. Chẳng bao lâu sau, Chung Ái Hoa ủ ê đi xuống, song không có vẻ gì là chán nản. Hắn nhìn hoa hồng rơi dưới đất, cặm cụi nhặt cho vào túi ni lông rồi bỏ đi.
Tôi sửng sốt trước tài tiên liệu của Dược Bất Nhiên, “Sao mày biết thằng kia sẽ công cốc?”
“Đơn giản thôi, nó phạm phải sai lầm mang tính chiến lược.” Dược Bất Nhiên giơ ngón trỏ lên lắc nhẹ, “Đới Hạc Hiên chẳng nói đấy ư, Đới Hải Yến luôn phản đối việc chú mình tuyên truyền khí công, còn liên tục viết bài tố cáo gửi báo chí, chứng tỏ cô ta cực kỳ lý trí, có ý thức độc lập cao. Người như vậy phần lớn đều có tiêu chuẩn thẩm mỹ và nhận thức về giá trị rõ ràng, mạch lạc, không dễ bị những thứ thời thượng hay lãng mạn mê hoặc. Chiêu tặng hoa hồng lấy lòng này tầm thường quá.”
Phân tích xong, Dược Bất Nhiên gọi một cô nàng cầm máy ảnh cạnh đó lại, hỏi đầu đuôi sự tình. Cô bé kia hào hứng kể đó là một cậu ấm, chẳng hiểu sao lại phải lòng cô Yến, một ngày ba lần tặng hoa hồng, mỗi lần chín mươi chín bông, kiên trì bền bỉ, đúng là chịu khó đầu tư. Giờ cả trường đang xôn xao đồn ầm lên, ngày nào cũng có người đúng giờ đến đây xem chàng si tình. Tiếc rằng cô Yến có vẻ chẳng ưa gì anh ta, toàn ném hoa ra cửa sổ.
“Anh chàng này đúng là si tình, bị cô Yến phũ như thế mà chẳng hề nản chí, ngày nào cũng đúng giờ đến tặng hoa, bất chấp gió mưa. Nhìn anh ấy cúi xuống nhặt từng bông hoa, chúng em cũng xót cả ruột. Cô Yến tàn nhẫn thật đấy.” Cô nàng đỏ hoe cả mắt, ôm chặt cuốn tiểu thuyết Quỳnh Dao trong tay.
Dược Bất Nhiên ôn tồn an ủi cô bé hồi lâu rồi quay lại bảo tôi, “Chẳng khác phán đoán của tao là mấy. Người thế này không dùng cách thông thường được, hoặc là phải mạnh mẽ lấn át, không để cô ta phản kháng, hoặc phải khiến cô ta cảm thấy mày thông minh hơn cô ta.” Dược Bất Nhiên phân tích đâu ra đấy, song tôi không có năng khiếu về mặt này, chỉ biết hỏi vậy mày định làm thế nào.
Dược Bất Nhiên cười tươi rói, “Giám định thì tao không bằng mày nhưng cưa gái thì mày thua xa tao.”
Hôm nay hơi muộn, tôi và Dược Bất Nhiên tìm một nhà trọ gần đại học Phục Đán nghỉ lại. Gã bảo tôi ở trong phòng đợi, rồi một mình ra ngoài. Gần mười giờ gã mới quay về, còn xách theo mấy bộ quần áo. Sáng sớm hôm sau gã loay hoay trong nhà vệ sinh một lúc lâu, tới khi đi ra, ha, Dược Bất Nhiên đã hoàn toàn thay đổi hình tượng, kính gọng vàng, sơ mi trắng sọc xanh nhạt cài đủ các cúc, rõ ràng là một nhà khoa học Hoa kiều trẻ tuổi từ chối công việc lương cao ở nước ngoài, khăng khăng về nước.
“Chúng ta đi thôi.” Dược Bất Nhiên giục. Tôi đờ ra hồi lâu mới lật đật chạy theo.
Nhờ sức hấp dẫn của Dược Bất Nhiên, chúng tôi dễ dàng hỏi thăm được lịch trình của Đới Hải Yến. Buổi sáng cô ta có tiết dạy, đến trưa ăn cơm xong sẽ đến thư viện đọc sách hai tiếng, ngày nào cũng như ngày nào.
Chung Ái Hoa theo lệ vẫn xuất hiện hai lần vào buổi sáng và buổi trưa, lại có một trăm chín mươi tám đóa hồng bị vứt đi.
Thư viện Phục Đán chia ra hai khu, tự nhiên và xã hội. Tuy chuyên ngành của Đới Hải Yến là Sinh vật học, nhưng cô ta lại hay tới khu xã hội. Hai chúng tôi ăn trưa xong bèn lẳng lặng lẻn vào khu xã hội. Phòng đọc ở đây rộng thênh thang, sáng sủa sạch sẽ. Bên phải là từng dãy giá sách, ở giữa có một tủ quầy dài bằng gỗ vàng nhạt ngăn cách, mấy thầy cô giáo đi đi lại lại giám sát. Bên trái phòng đọc kê hai mươi mấy dãy bàn bằng gỗ phủ sơn và ghế thép không gỉ, lác đác có mấy học sinh và giáo viên đang ngồi, hoặc cắm cúi đọc sách hoặc làm bài tập, không gian lặng phắc như tờ.
Dược Bất Nhiên trỏ vào trong góc, “Kia kìa.”
Tôi đưa mắt nhìn, thấy ngay một cô gái đang cầm sách ngồi đọc cạnh cửa sổ. Da cô ta ngăm ngăm, mũi cao thẳng, trông nhang nhác Đới Hạc Hiên, có lẽ người nhà này đều có gen đẹp trai xinh gái. Có điều cô ta lại đeo cặp kính dày cộp, phải đến năm sáu độ, làm khuôn mặt trông nhỏ xíu.
Dược Bất Nhiên giơ hai ngón tay làm dấu tất thắng với tôi rồi nhặt một cuốn sách tiếng anh dày cộp xuất kích. Tôi ngồi xuống cách đó ba hàng, lẳng lặng quan sát. Chỉ thấy Dược Bất Nhiên đi đến trước bàn Đới Hải Yến, cô ta ngẩng lên, hai người nói chuyện mấy câu, chợt Đới Hải Yến phì cười, không khí hết sức hòa ái. Chung Ái Hoa tán mấy ngày không đổ, thế mà gã chỉ một lúc đã câu được rồi, tôi trông cũng phải phục lăn.
Hai người rì rầm trò chuyện một lúc, sau đó Dược Bất Nhiên vẫy tay tao nhã chào từ biệt, đoạn tủm tỉm cười quay lại ngồi xuống trước mặt tôi.
“Cắn câu rồi à?” Tôi hỏi.
“Thảm bại.” Dược Bất Nhiên xòe tay, song nụ cười vẫn đông cứng trên mặt như kem.
“… Chuyện thế nào?”
Dược Bất Nhiên nghiến răng đáp, “Tao vừa đến gần người ta đã nhận ra ý đồ, nói hai ba câu là đuổi tao đi, không cho tao thể hiện gì cả.”
Tôi thần người, chợt nảy ra một ý, bèn vỗ bàn. “Chúng ta bị Chung Ái Hoa lừa rồi.”
Tôi nói hơi to khiến một sinh viên ngồi gần đó tức tối trừng mắt lườm rồi suỵt khẽ. Tôi vội cúi đầu, hạ giọng bảo Dược Bất Nhiên, “Chúng ta tiếp cận Đới Hải Yến làm gì? Để hỏi cô ta về phần thiếu của Thanh minh thượng hà đồ, chứ đâu phải nhòm ngó tài sản nhà họ Đới, cần gì phải tán cô ta? Mấy bông hồng của Chung Ái Hoa làm chúng ta đi lạc hướng rồi.”
Dược Bất Nhiên cũng vỡ lẽ, “Gay rồi, rút dây động rừng…”
“Tao thấy cứ nói thẳng với cô ta là xong, chẳng cần vòng vèo làm gì.”
“Muốn nói mày đi mà nói.” Dược Bất Nhiên trợn mắt.
Tôi ngẫm nghĩ giây lát rồi đứng dậy đến trước mặt Đới Hải Yến. Đới Hải Yến đặt bộp cuốn sách trong tay xuống, mỉm cười nhìn tôi, chẳng nói năng gì.
Tôi lịch sự hỏi, “Cô Yến phải không?”
“Anh biết rồi còn hỏi làm gì?” Gương mặt cô ta bầu bĩnh như trẻ con, nhưng miệng lưỡi lại đanh đá. Bấy giờ tôi mới ý thức được nụ cười ấy là thái độ thương hại của kẻ bề trên, giống như Chu Du khi thấy Tưởng Cán đến trộm sách vậy.
Cô ta nói vậy làm tôi chẳng biết tiếp tục thế nào. Suy đi tính lại chán vẫn thấy nói thực là hơn. Tôi bèn ngồi xuống trước mặt cô ta, bình thản nói tiếp, “Chào cô, tôi có vài chuyện liên quan đến Thanh minh thượng hà đồ muốn hỏi.”
“Anh hỏi một tiến sĩ sinh vật học về cổ vật à?” Đới Hải Yến vặn lại.
“Vì sao tôi lại hỏi cô, chắc cô cũng biết rồi, còn phải hỏi làm gì?” Tôi trả lại cô ta câu chế giễu vừa rồi. Song Đới Hải Yến không giận, chỉ yên lặng quan sát tôi hồi lâu, cặp mắt sau lớp kính cận lóe lên vẻ thích thú, “Đới Hi à?”
“Phải.”
“Anh đi cùng anh chàng Phương Hồng Tiệm vừa rồi đấy hả?”
Tôi ngây ra một thoáng mới hiểu, Phương Hồng Tiệm là nhân vật trong Vòng đời vây bủa, đem anh chàng tốt nghiệp đại học Clayden nọ ra ám chỉ Dược Bất Nhiên quả là thâm thúy.
“Đúng thế. Chúng tôi đến từ Bắc Kinh, tôi tên Hứa Nguyện, là người của Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa.” Tôi tự giới thiệu.
Đới Hải Yến thoáng ngạc nhiên, “Anh là Hứa Nguyện à?”
“Cô biết tôi?”
“Dạo này báo chí toàn đưa tin về Thanh minh thượng hà đồ, anh thành người nổi tiếng rồi đấy.”
Tôi mừng thầm, một tiến sĩ sinh vật học mà cũng quan tâm tới những tin tức này, đỡ cho tôi phải trình bày. Đoạn cố giữ vẻ bình thản hỏi, “Vậy cô có bằng lòng trả lời vài câu hỏi của tôi không?”
Đới Hải Yến đẩy gọng kính, khéo léo lảng tránh, “Gã đáng ghét ngày ngày tặng hoa hồng cũng đi chung với các anh đấy à?”
“Đó là kẻ thù của tôi.” Tôi quyết định nói thật với cô ta.
Đới Hải Yến hài lòng gật đầu, “Được đấy, ít ra anh cũng không dùng mấy câu nói dối ngớ ngẩn để sỉ nhục tôi.” Rồi chẳng để tôi kịp đắc ý, cô ta đã hếch cằm, “Có điều người ta ngày ba bận tặng hoa hồng. Còn các anh định tặng gì?”
Tôi xòe hai bàn tay trên mặt bàn, “Tôi không thể lấy tình cảm ra đùa, huống hồ cô cũng đâu phải hạng phụ nữ dễ dụ?”
Đới Hải Yến cười khanh khách, nheo mắt lại, “Tạm coi là anh khen tôi vậy, có điều nghe gượng quá đấy.” Cô ta nhìn đồng hồ trên tường rồi đứng dậy, “Sắp đến giờ rồi, tôi phải lên lớp đây. Nếu các anh muốn biết thì sau bữa tối đến ký túc của tôi.”
Cô ta nhận lời dễ thế ư? Tôi không dám tin, vội hỏi gặng, “Nói vậy là cô đồng ý rồi sao?”
“Vì anh là Hứa Nguyện. Ngôi sao mới trong giới cổ ngoạn đã phá vụ án đầu Phật, nhân vật tiếng tăm khơi ra cuộc tranh luận xung quanh Thanh minh thượng hà đồ, kẻ theo đuổi sự thật vén bức màn đen tối của giới cổ vật.” Đó là những danh hiệu báo chí đặt cho tôi.
“Không đến mức như báo chí viết đâu.” Tôi gãi đầu, khiêm tốn nói.
Đới Hải Yến tươi cười gập sách vào, rồi lại nở nụ cười thương hại bề trên, “Đừng hiểu lầm, tôi không có hứng, cũng không ngưỡng mộ gì anh. Tôi nhận lời anh là để mượn cơ hội này nói cho anh biết anh ngu xuẩn đến mức nào.”
Nói rồi bỏ lại tôi ở đó há hốc mồm, Đới Hải Yến đứng dậy đi thẳng. Dược Bất Nhiên chạy đến hỏi tình hình ra sao, tôi nói tối nay chúng ta đến ký túc của cô ta nói chuyện. Gã giơ ngón cái thán phục, “Mày giấu nghề giỏi thật, trông thế mà đã có tám mươi phần trăm phong độ của tao thời đại học rồi đấy.”
Tôi gượng cười lắc đầu, chẳng biết miêu tả cảm xúc của mình thế nào nữa. Cô nàng này không đơn giản, tuyệt đối không đơn giản chút nào.
Sáu rưỡi chiều tan học, Chung Ái Hoa lại mò đến lần nữa, lặp lại quá trình tặng hoa rồi ném hoa, sau đó tiu nghỉu ra về. Đợi đám đông đứng xem tản hết, tôi và Dược Bất Nhiên mới âm thầm đi lên tầng ba, tới trước cửa phòng Đới Hải Yến.
Tôi gõ cửa, bên trong đáp vào đi. Vừa bước vào, tôi và Dược Bất Nhiên đã sững người.
Căn phòng này gần như bản sao phòng thí nghiệm vậy. Trên bàn cũng như cạnh giường xếp từng chồng tài liệu tiếng nước ngoài, trên chiếc tủ thấp kê sát tường bày mấy dụng cụ thí nghiệm, bàn chải và kem đánh răng cắm trong cốc đong. Trên tường còn dán một bức hình giải phẫu cơ thể người, trông rõ mồn một cơ thịt và dây thần kinh. Giờ có bảo trong tủ quần áo cô ta có một bộ xương tôi cũng tin. Phòng nhiều đồ đạc nhưng sắp xếp rất hợp lý, ngoại trừ không có hơi thở cuộc sống ra, có thể nói là hoàn hảo.
Đới Hải Yến đang ngồi trên ghế xoay, gọt táo bằng dao mổ, vỏ táo rủ xuống từng vòng đều tăm tắp, không hề đứt đoạn.
“Mời ngồi.” Cô chẳng buồn ngẩng lên.
Nhưng trong nhà chẳng có cái ghế nào nữa, tôi và Dược Bất Nhiên đành ngồi lên chồng sách. Đới Hải Yến thong dong gọt xong vỏ táo rồi cắt làm ba, chia cho mỗi người một miếng, còn huơ dao trấn an, “Tiệt trùng rồi đấy.” Tôi và Dược Bất Nhiên nhận táo, phát hiện cô chia rất đều, như lấy thước đo vậy.
Đới Hải Yến nhét miếng táo vào miệng ăn hết rồi mới đẩy gọng kính vào đề, “Đới Hạc Hiên cũng cho các anh địa chỉ của tôi à?”
Cô ta dùng từ “cũng” dĩ nhiên là chỉ việc Chung Ái Hoa cũng lấy được địa chỉ từ Đới Hạc Hiên. Tôi cảm thấy chẳng giấu được cô ta chuyện gì, bèn nói thực, “Tôi đánh cược với Đới Hạc Hiên và thắng.”
“Thắng một tên bịp bợm có gì vẻ vang đâu.” Ánh mắt sau cặp kính thoáng vẻ căm ghét, “Anh biết vì sao tôi ghét ông ta không?”
“Vì ông ta lừa gạt người khác.”
“Không, gạt người chỉ là ác, không phải tội lớn. Nhưng thứ ông ta tuyên truyền chỉ có thể miêu tả bằng một chữ ‘ngu’. Trên đời này kẻ ác không đáng sợ, kẻ ngu mới đáng sợ. Đến giờ tôi vẫn không thể hiểu nổi vì sao những lời nhảm nhí đi ngược lại thường thức vật lý và quy luật cơ thể người như thế lại được nhiều kẻ tin tưởng và sùng bái đến vậy, thậm chí nhà báo còn giúp tuyên truyền, quan chức chính phủ thì giúp đẩy mạnh. Thời đại này mà vẫn có người tin vào công năng đặc biệt và khí công, quả là đáng buồn.”
Tôi đoán trước tiên cô ta phải rủa sả Đới Hạc Hiên một trận cho đã nên cũng chẳng nói gì, chỉ gật gù phụ họa.
Ánh mắt Đới Hải Yến nhìn tôi bỗng sắc lạnh, “Anh Hứa Nguyện, anh và Đới Hạc Hiên cũng cá mè một lứa thôi.”
“Sao cô lại nói thế?” Tôi ngạc nhiên hỏi lại.
“Anh kể một câu chuyện ngu xuẩn mà làm cả nước sôi sùng sục, tâng anh lên cái ngai quá khổ với anh. Vậy anh có khác gì Đới Hạc Hiên đâu?”
“Tôi không hiểu.”
“Anh yên tâm. Hôm nay sở dĩ tôi gọi anh đến đây là muốn đập tan nghi vấn sơ hở lỗ chỗ của anh, để anh biết mình ngu xuẩn ở chỗ nào.”
Đới Hải Yến đặt lõi táo lên một chiếc đĩa tráng men, rồi lấy dao mổ chỉ. Tôi để ý thấy chồng sách trước mặt cô khác hẳn các tài liệu kỹ thuật khác, trên cùng là cuốn Minh sử của Trung Hoa thư cục, mười mấy cuốn bên dưới đều là sách văn sử, gáy sách dán nhãn, có lẽ đều mượn từ thư viện Phục Đán.
Cạnh chồng sách này có mấy tờ báo, trong đó nổi bật nhất là Tin chiều thủ đô, hơn nữa lại là số đăng bài vén màn bí mật Thanh minh thượng hà đồ, ngoài ra còn có mấy tờ báo phía Nam và Hồng Kông, đều đăng tải lại bài này.
Đới Hải Yến cầm Tin chiều thủ đô lên vẫy vẫy, “Tôi muốn nói đến bài viết nhảm nhí này của anh. Tôi có bệnh ưa sạch sẽ, không chịu đựng nổi những thứ ngu ngốc hoặc sai trái. Thanh minh thượng hà đồ lại có liên quan tới nhà họ Đới chúng tôi, nên khi thấy những luận điệu hoang đường này, tôi cứ như mắc xương ở cổ họng. Anh đã tự tìm đến cửa, dĩ nhiên tôi phải xả hết cho đỡ ấm ức!”
Cô nàng này hay thật đấy, thấy người ta nói sai là phải tóm lấy giảng giải rõ ràng mới chịu. Xem ra sở dĩ cô ta chọn tôi chứ không phải Chung Ái Hoa chẳng qua bởi tôi là tác giả bài báo, đáng bị chửi hơn mà thôi. Quả đúng như lời Đới Hạc Hiên, tính tình cô ta có hơi kỳ quái. Nhưng thực ra cũng chẳng có gì là kỳ, cô ta chỉ tích cực quá độ, một lòng muốn theo đuổi sự thật, điều này khá gần với tinh thần “trừ giả giữ thật” của Minh Nhãn Mai Hoa, nên cảm phục mới phải.
Huống hồ tôi chẳng sợ bị cô ta vạch lỗi. Trái lại, nếu cô ta chỉ ra được vấn đề của tôi, chứng tỏ cô ta quả thực đã nắm được manh mối gì đó từ Đới Hi, vậy thì tốt quá.
“Tôi xin nghe.” Tôi trả lời đơn giản.
Đới Hải Yến mở báo ra, “Trong đây anh đã kể một câu chuyện truyền kỳ. Lục Hoàn giữ gìn Thanh minh thượng hà đồ, về sau bị đứa cháu vợ họ Vương lén lút sao lại một bản, rồi bị Vương Thư mua về dâng lên cha con nhà họ Nghiêm. Kết quả thợ bồi tranh của Nghiêm Thế Phiên là Thang Thần phát hiện ra, nên Vương Thư bị giết. Về sau nhà họ Lục sa sút, bản gốc cũng rơi vào tay nhà họ Nghiêm. Con trai Vương Thư là Vương Thế Trinh viết ra Kim Bình Mai đầu độc chết Nghiêm Thế Phiên rồi cắt một cánh tay Nghiêm Thế Phiên và lấy một bản Thanh minh thượng hà đồ đi ngay trong đám tang, sau đó Nghiêm Tung rớt đài, bản Thanh minh thượng hà đồ còn lại bị sung vào nội phủ. Đúng chưa?”
“Đúng rồi.”
“Anh chưa kiểm chứng à?”
“Đâu có, tôi đã tra tư liệu kiểm chứng rồi mà.” Tôi biện hộ.
“Tư liệu anh tra cứu có phải là Tùy bút Hàn Hoa am, Tiêu hạ nhàn ký và Bút ký khuyết danh thời Thanh không?”
Đới Hải Yến rút trong chồng sách văn sử ra ba cuốn ném trước mặt tôi. Nhìn tên sách, tôi thầm kinh ngạc. Những cuốn này đều là bản photo, tuy không hiếm, nhưng được coi là sách cổ chuyên ngành, không phải ai cũng mượn được. Một người học ngành Sinh vật như cô ta mà còn rành hơn cả sinh viên Lịch sử thông thường, quả là hiếm có.
“Phải, đây là nguồn gốc xuất xứ của câu chuyện đó.”
Đới Hải Yến nổi giận đập bàn, “Không thèm phân tích, đối chiếu tài liệu, chỉ biết đọc sao biết thế, ngu, ngu, ngu!” Đoạn trợn trừng hai mắt, như căm tôi đến tận xương tủy.
Nghe vậy tôi hơi phật ý, bèn hỏi vặn lại, trong mềm có cứng, “Vậy cô nói xem vấn đề nằm ở đâu?”
“Được! Tôi sẽ chỉ ra từng điều cho anh xem! Thứ nhất, trong câu chuyện anh kể, đứa cháu họ Vương của Lục phu nhân ở trong phủ Lục xem tranh, không đem giấy bút, chỉ âm thầm ghi nhớ, trong vòng mấy tháng, cuối cùng đã vẽ lại được một bản sao, anh viết như thế đúng không?” Tôi gật đầu. Đới Hải Yến nói, “Ngay từ đầu đã sai bét! Anh tưởng người xưa chép tranh là dựa vào trí nhớ à?”
“Lẽ nào không phải?”
“Dĩ nhiên không rồi!” Đới Hải Yến trừng mắt, “Chép tranh và chép sách là hai chuyện khác nhau. Chép sách là sao lại nội dung, chỉ cần nội dung chính xác thì nét bút không quan trọng; song chép tranh lại khác, cách vận bút cũng chính là nội dung. Công việc này cần thành thạo, dù đối chiếu vẽ lại cũng rất khó vẽ giống y như đúc, huống hồ là học thuộc lòng. Một bức tranh rườm rà nhiều chi tiết phức tạp như Thanh minh thượng hà đồ lại càng không thể vẽ lại theo trí nhớ.”
“Biết đâu người ta là thiên tài.”
“Có thể, nhưng tôi tin cách giải thích anh là đồ ngu hơn.” Đới Hải Yến thẳng thừng nói tiếp, “Hồi bé anh có chơi nến không? Nhỏ sáp nến lên giấy, sẽ khiến giấy trở nên trong suốt. Người xưa chép tranh cũng dựa trên nguyên lý này, trước tiên họ sẽ quét sáp ong lên giấy, rồi dùng đấu sắt đổ đầy nước nóng đè lên trên, là đi là lại, để sáp nến ngấm hết vào mặt giấy, khiến giấy trở nên trong suốt. Sau đó người ta sẽ trải tờ giấy đó lên bản gốc, dùng bút đầu nhỏ tô từng nét, rồi nhấc ra lâm mô lại theo bản gốc. Thấy bao giờ chưa? Sao chép một bức mất công như thế, vậy mà gã họ Vương kia lại phục chế được cả bức tranh bằng trí nhớ, đúng là chuyện thần thoại. Lý luận của anh ngay từ đầu đã không vững rồi!”
Nghe đến đó, trán tôi đã lấm tấm mồ hôi. Tính tình Đới Hải Yến tuy nóng nảy nhưng nói câu nào câu nấy rành mạch xác đáng, tôi không phản bác nổi.
Thấy tôi im lặng, Đới Hải Yến chẳng hề thông cảm, trái lại ánh mắt càng thêm gay gắt. Cô lại rút trong đống sách ra một cuốn Yểm châu sơn nhân tứ bộ cảo của Vương Thế Trinh, “Anh còn nói Vương Thế Trinh đầu độc Nghiêm Thế Phiên để trả thù cho cha mình. Giờ tự đọc xem Vương Thế Trinh viết thế nào đi.”
Tôi mở ra xem, thấy một trang có kẹp cái đánh dấu sách, còn dùng bút chì khoanh lại một đoạn. Đây là đoạn trò chuyện vào năm Long Khánh thứ nhất giữa Vương Thế Trinh và người bạn đỗ tiến sĩ đồng bảng với ông - nội các đại học sĩ Lý Xuân Phương - về cái chết của Vương Thư. Vương Thế Trinh nói có ba lý do: một là vì Dương Kế Thịnh, hai là vì Thẩm Luyện, ba là vì Từ Giai. Hai người đầu tiên đều là trung thần bị Nghiêm Tung hại chết, người thứ ba là danh tướng đã lật đổ Nghiêm Tung.
“Xin hỏi trong ba lý do khiến Vương Thư bị giết mà Vương Thế Trinh liệt kê, có cái nào liên quan đến Thanh minh thượng hà đồ không?” Đới Hải Yến hỏi.
“Ừm… có lẽ Vương Thế Trinh không muốn nói.” Tôi vẫn cố phân bua.
Đới Hải Yến cười phá lên, “Được, anh vẫn ngoan cố chứ gì?” Cô ta lại ném ra mấy cuốn Minh sử, vẫn là dùng thẻ đánh dấu, khoanh đoạn bằng bút chì. Tôi lần lượt giở ra xem, là truyện ký về cha con họ Nghiêm, càng xem càng toát mồ hôi.
Đới Hải Yến còn chưa thỏa mãn, tiếp tục truy vấn, “Vương Thư chết vào mùng một tháng Mười năm Gia Tĩnh thứ ba mươi chín, Vương Thế Trinh đưa linh cữu về quê ở Thái Thương, Giang Tô vào ngày hai mươi bảy tháng Mười một rồi ẩn cư từ đó đến năm Long Khánh thứ hai mới lại ra làm quan. Còn Nghiêm Tung vào năm Gia Tĩnh thứ ba mươi mốt đã bị đánh đổ, Nghiêm Thế Phiên bị đày đến Lôi Châu, giữa đường trốn về quê ở Phân Nghi, Giang Tây, đến năm bốn mươi tư thì bị giết. Xin hỏi Vương Thế Trinh ở Giang Tô lấy đâu ra cơ hội gặp Nghiêm Thế Phiên ở Bắc Kinh hay Giang Tây?”
Tôi cứng họng.
“Còn về cái gì thư sinh áo trắng chặt một cánh tay Nghiêm Thế Phiên và lấy đi bức Thanh minh thượng hà đồ, tôi chẳng muốn nói nữa. Xương cánh tay người rất cứng, trước bao nhiêu con mắt nhìn vào mà Vương Thế Trinh có thể cắt đứt một cánh tay cái xác rồi ung dung bỏ đi, anh coi ông ta là gì hả? Linh cẩu châu Phi à?”
Thấy tôi câm như hến, Đới Hải Yến trịch thượng bổ nốt đòn cuối cùng, “Còn một điểm nữa, anh nói Vương Thế Trinh dùng Kim Bình Mai đầu độc Nghiêm Thế Phiên, nhưng trong Minh sử viết rành rành là Nghiêm Thế Phiên bị xử trảm công khai vào năm Gia Tĩnh thứ bốn mươi tư, lấy đâu ra chuyện đầu độc? Đừng nói tới vụ Vương Thế Trinh đến đám ma cắt một cánh tay đem đi?”
Từng luận điểm phản bác nói đâu trúng đấy, đánh cho tôi nổ đom đóm mắt, cứng họng líu lưỡi, không cách nào phản kháng.
“Câu chuyện này của anh sơ hở lỗ chỗ, nếu đem viết tiểu thuyết thì còn được. Nhưng anh lại coi là chính sử, mang ra chất vấn người khác, khiến cả nước xôn xao lên, thật dở hơi hết sức. Tôi học chuyên ngành Sinh vật mà giở đại mấy cuốn sử bán đầy đường còn nhận ra sơ hở. Mấy chuyên gia các anh não úng thủy hết rồi à?”
Dược Bất Nhiên đặt tay lên vai tôi, tỏ vẻ cảm thông sâu sắc. Gã cũng chẳng dám hó hé, sợ chọc giận Đới Hải Yến.
Những chi tiết này chỉ cần kiểm tra kỹ lưỡng là ra ngay. Nhưng tôi quá tin vào chị Tố nên không kiểm tra nhiều nguồn, chỉ xem qua mấy cuốn sách đã hăm hở viết như đúng rồi. Không ngờ cả câu chuyện đều là bịa tạc, chẳng có căn cứ nào vững chắc. Tôi lúc ấy đúng là bị mỡ heo lấp óc.
Huống hồ những vấn đề này còn do một cô nàng học Sinh vật chỉ ra, khiến tôi chẳng còn lỗ nẻ nào mà chui nữa.
Tôi cúi gằm mặt, tâm trí tức tốc tiêu hóa biến cố bất ngờ này. Nghĩ kỹ lại thì, đây thực ra là chuyện tốt.
Cơ sở dẫn tới nghi ngờ Thanh minh thượng hà đồ là Vương Thế Trinh báo thù cho cha, lấy đi bản gốc từ phủ Nghiêm, không rõ hành tung; bản sao được đưa vào nội phủ, lưu truyền đến nay, trở thành bản trong Cố cung. Nếu câu chuyện này không có thực, há chẳng phải chứng minh Thanh minh thượng hà đồ trong Cố cung là thật ư?
Nhưng ngay sau đó, một vấn đề lại nảy ra: Những sơ hở Đới Hải Yến chỉ ra, tôi không nhận thấy song Minh Nhãn Mai Hoa thiếu gì người tài, Lưu Nhất Minh lại biết nhiều hiểu rộng, sao ông cũng không nhận ra. Bài báo vạch trần bí mật Thanh minh thượng hà đồ của tôi đã khiến Minh Nhãn Mai Hoa cơ hồ sụp đổ, vì sao chẳng thấy Lưu Nhất Minh hay ai đứng ra bác bỏ? Rõ ràng chỉ cần lấy ra mấy cuốn sách như Đới Hải Yến vừa làm là phá tan được lời đồn kia mà?
Chẳng lẽ bức trong Cố cung là đồ giả nên họ không thể biện bạch được?
Lúc này Đới Hải Yến lại buông một câu, kéo suy nghĩ của tôi quay về thực tại, “Câu chuyện của anh đầy sơ hở, không có nghĩa việc này là giả.”
“Gì cơ?” Tôi chẳng hiểu ra sao cả.
“Tuy Vương Thế Trinh không báo thù, nhưng ông ta quả thật có nhiều liên quan tới bản sao Thanh minh thượng hà đồ.” Đoạn cô ta giở một trang trong Yểm châu sơn nhân tứ bộ cảo tục cảo ra, tôi ghé lại xem, phát hiện Vương Thế Trinh đã viết một đoạn về Thanh minh thượng hà đồ, “Thanh minh thượng hà đồ của Trương Trạch Đoan có bản thật bản giả, tôi đều được xem qua. Bản gốc người ngựa xe cộ cầu đường cung điện nhỏ như sợi tóc song bút lực cứng cáp, thoạt đầu rơi vào tay Mặc tướng, sau tịch biên thu vào cung trời, được Mục miếu ưa thích.”
Mặc tướng tức Nghiêm Tung, còn Mục miếu chỉ hoàng đế Gia Tĩnh. Ý nghĩa đoạn này rất rõ ràng, Thanh minh thượng hà đồ quả thực có bản thật và bản sao, Vương Thế Trinh đều đã thấy. Trong đó bản gốc do Nghiêm Tung tìm được, sau đó bị tịch biên vào hoàng cung, rơi vào tay hoàng đế Gia Tĩnh.
Tôi sực vỡ lẽ. Xem ra câu chuyện Vương Thế Trinh báo thù cho cha là giả, nhưng bên trong vẫn bao hàm một phần sự thật. Thanh minh thượng hà đồ quả thực đã ở trong tay Nghiêm Tung, sau đó lại sang tay hoàng đế Gia Tĩnh.
Tôi bèn đọc tiếp, “Bức giả do Hoàng Bưu người Ngô làm ra, có người bảo rằng lấy được bản nháp của Trạch Đoan rồi thêm thắt vào, nhưng so với bản thật có sự khác biệt, mà cũng có độ tinh xảo đáng nhớ riêng, thua kém chỉ ở lực giữa cổ tay và ngón tay mà thôi. Nay nó ở chỗ của em trai tôi. Quyển này mà cho là bản nháp của Trạch Đoan, tựa hồ chưa thấy bản Trạch Đoan. Nói vậy là vì quang cảnh cấm khói lửa cũng không giống, nhưng thế bút cứng cỏi phiêu dật, tuy có chút cẩu thả, nhưng không phải là thứ người thời gần đây có thể làm, có lẽ là quan chi hậu viện họa cùng thời với Trạch Đoan, hai bức đều vẽ cảnh đẹp sông Biện, song có hơn kém.”
Tôi đọc từ từ, càng đọc càng kinh hãi. Theo chuyện kể thì Vương Thế Trinh lấy bản gốc từ phủ Nghiêm đi, hoàng đế Gia Tĩnh lấy bản sao; song trong đoạn tự thuật này thì ngược lại, bản thu được ở nhà Nghiêm Tung là bản gốc, còn bản sao lại ở trong tay em trai Vương Thế Trinh là Vương Thế Mậu, ngay tên người vẽ cũng viết rõ là Hoàng Bưu.
Bất luận là chuyện kể hay tự thuật thì những người đời sau muốn điều tra như chúng tôi cũng đều đi đến một kết luận: Bản gốc và bản sao, một cái ở trong cung, một cái ở trong dân gian, còn về phần cái nào thật cái nào giả thì không rõ. Cuối cùng cuộc điều tra lại quay về điểm xuất phát.
Đới Hải Yến nói, “Trong đây Vương Thế Trinh đã nói rõ, bản sao mà ông ta xem là do Hoàng Bưu người Ngô làm ra. Nhưng Hoàng Bưu cũng không phải tự dưng vẽ được, mà chẳng biết bằng cách nào tìm được một tác phẩm cùng thời đại cùng viện họa cùng chủ đề với Trương Trạch Đoan, lấy đó làm nền, vẽ ra một bức tranh gần giống thật.”
Cô ta nói tới đó, tôi bỗng hiểu ra một chuyện.
Chẳng trách kết quả giám định Cacbon-14 của hai bức tranh trong Cố cung và Bách Thụy Liên lại gần nhau như thế, bởi bất luận là thật hay giả thì đều bắt nguồn từ thời Tống, là sản phẩm của cùng một thời kỳ cùng một viện họa, e rằng ngay chất mực, chất giấy cho đến chất bút đều chẳng khác nhau là mấy.
Tối hôm đó ở bệnh viện 301, Lưu Nhất Minh từng nói bài báo của tôi sơ hở lỗ chỗ, thì ra những sai sót Đới Hải Yến phát hiện, ông ta đã nhìn thấu từ lâu. Bấy giờ tôi còn hơi phật ý, cho rằng nếu thế sao ông không đứng ra chỉ rõ, giờ mới hiểu vì sao cụ Lưu giữ im lặng.
Làm rõ một câu chuyện thì dễ, nhưng công bố sự thật lịch sử trong đó chỉ tổ làm lợi cho Bách Thụy Liên. E rằng Bách Thụy Liên cũng tính trước được Lưu Nhất Minh sẽ làm vậy nên mới cố tình cài cắm để chị Tố kể cho tôi câu chuyện đó, cầm chắc Minh Nhãn Mai Hoa sẽ không lên tiếng phản bác.
Đi một vòng, ngoài chứng minh tôi là đồ ngu ra thì chẳng tìm được gì mới. Hai bức họa của Cố cung và Bách Thụy Liên cái nào thật cái nào giả, chẳng những chưa chỉ rõ được, mà càng mơ hồ hơn.
Tôi ủ rũ lắc đầu, chợt nghĩ chẳng lẽ chị Tố không biết những chuyện này? Dù không mấy tường tận lịch sử, những kiến thức cơ bản về chép tranh hẳn bà ta phải biết, sao lại kể ra câu chuyện vô lý như “gã Vương học thuộc tranh” được? Lẽ nào bà ta muốn truyền tin cho Hoàng Khắc Vũ?
“Anh đã thấy anh sai chưa?” Đới Hải Yến ép hỏi.
Tôi thấy mặt cô ta ửng hồng, khóe mắt đầu môi thấp thoáng nụ cười, có lẽ đang rất khoan khoái vì phê bình được tôi. Để làm rõ một vấn đề chẳng có quan hệ lợi ích gì với mình mà cô ta còn bỏ công tra cứu cả đống tư liệu rồi gọi hai người lạ hoắc đến ký túc của mình trao đổi, tôi không khỏi cảm thấy cô gái này cố chấp với sai đúng đến mức đáng yêu.
“Phải phải, tôi sai rồi.” Tôi thành khẩn thừa nhận sai lầm. Đới Hải Yến gật đầu hài lòng, gom đống sách vương vãi dưới đất lại xếp thành một chồng rồi khoanh tay trước ngực, “Được rồi, anh đi đi.”
Tôi vội níu kéo, “Khoan đã, hôm nay chúng ta hình như vẫn chưa nói đến vấn đề chính thì phải…”
Trận gạch đá vừa rồi chỉ chứng minh tôi đã sai lầm, còn chủ đề chính hôm nay là phần thiếu của Thanh minh thượng hà đồ. Thực ra những lời Đới Hải Yến vừa nói càng khiến tôi nhận rõ, chỉ tìm được phần thiếu mới có thể dẹp yên cuộc tranh cãi thật giả này.
“Hôm nay muộn rồi, tôi phải đi ngủ, để mai hẵng nói.” Đới Hải Yến đuổi khách thẳng thừng, giọng kiên quyết, không cho chúng tôi nói thêm câu nào, nên chúng tôi đành đứng dậy ra về.
Sau khi rời ký túc nghiên cứu sinh, thấy tôi lầm lũi chẳng nói chẳng rằng, Dược Bất Nhiên không chịu nổi phải lên tiếng trước, “Cô ả này cũng gớm lắm. Có thể thấy gã rất dè chừng Đới Hải Yến.”
“Còn cần mày bảo à, hôm nay chỉ mình tao ăn chửi, mày thì im thin thít.”
“Mày không nhìn ra à? Cô ả ấy mắc chứng cuồng ngược đãi, phải tìm người để mắng mỏ mới thấy dễ chịu. Lại gặp ngay được đứa cuồng bị ngược đãi như mày, trời sinh một cặp, tao thấy mày nên cầu hôn cô ta quách đi.” Dược Bất Nhiên khoa tay múa chân nói oang oang.
“Đừng nói linh tinh.” Tôi chẳng hơi đâu cãi cọ với gã.
“Mày mới linh tinh ấy. Hôm nay mày chịu nghe chửi để cô ta xả tức, đến mai chắc sẽ cho chúng ta biết về chuyện phần thiếu thôi.” Dược Bất Nhiên ngẩng lên nhìn phòng Đới Hải Yến trên tầng ba.
“Cấm nói cái kiểu như tao lấy thân ra đổi tin tình báo ấy.”
“Cũng thế thôi, ha ha.” Dược Bất Nhiên phá lên cười.
Sực nhận ra mình đang nói chuyện với Dược Bất Nhiên hơi giống lúc chưa trở mặt, tôi kinh hãi vội nhắc nhở bản thân, không được để những biểu hiện của gã che mắt. Tên này là tay sai đắc lực của Lão Triều Phụng, là kẻ thù của tôi. Tuy chúng tôi buộc phải hợp tác, nhưng không có nghĩa là tôi tha thứ cho gã.
Nghĩ tới đó, mặt tôi lạnh hẳn đi. Dược Bất Nhiên quay sang định đùa, thấy tôi đổi sắc mặt thì ngẩn người, rồi hiểu ra ngay, cười hì hì ngậm miệng lại.
Lúc này trời đã tối đen, những ngọn đèn dọc con đường rợp bóng cây bên ngoài ký túc lần lượt sáng lên. Chúng tôi đi trong gượng gạo chưa đầy 10 mét, chợt nghe một giọng nói cất lên từ bụi cây gần đó, “Xin hai anh dừng bước.”
Dược Bất Nhiên đanh mặt lại, thò tay vào trong áo, dấn lên một bước chắn trước mặt tôi, quát hỏi, “Ai đấy?” Khóe mắt tôi hơi giần giật. Giọng nói này quá quen, từng có người gọi tôi là anh Nguyện, là thần tượng, còn động viên tôi đừng từ bỏ lý tưởng theo đuổi chân tướng bằng chính cái giọng này.
Chung Ái Hoa từ sau bụi cây bước ra, chắn ngang đường chúng tôi. Gương mặt hắn không thay đổi gì nhiều, chỉ thiếu vẻ non nớt hăng hái lúc ở Trịnh Châu, dưới ánh đèn đường lại thêm mấy phần thâm trầm và hung ác.
“Chào anh Nguyện. Còn anh là Dược Bất Nhiên đúng không?” Chung Ái Hoa đứng giữa đường thản nhiên chào hỏi chúng tôi. Vẫn gương mặt ấy, chỉ là thái độ nhiệt tình đến ngây ngô đã biến mất, thay vào đó là vẻ thâm trầm lạnh lùng.
“Đúng, tao là Dược Bất Nhiên đây. Tao nổi tiếng thế cơ à?” Dược Bất Nhiên cười hỏi.
“Làm ông nội tức chết, phản bội Minh Nhãn Mai Hoa, hạng phản đồ như anh, muốn không nhận ra cũng khó.” Chung Ái Hoa nghiêm trang nói rồi nhìn lướt qua cả hai chúng tôi, “Hai người vốn là kẻ thù, sao giờ lại đi với nhau?”
“Chuyện người lớn, trẻ con quan tâm làm gì, ngoan ngoãn về nhà làm bài tập hè đi!” Dược Bất Nhiên đốp lại rồi khoác vai tôi, tỏ ý đừng hòng đâm bị thóc chọc bị gạo. Về phần mình, tôi không lên tiếng, cũng không né tránh.
Chung Ái Hoa nhìn lên phòng Đới Hải Yến, than thở, “Xem ra cô ấy nói chuyện rôm rả với hai anh quá nhỉ?”
Dược Bất Nhiên cười đáp, “Dĩ nhiên rồi, chuyện cần biết chúng tao đều biết cả, chuyện không cần biết cũng biết luôn. Có đứa sáng đến tối đến mà chỉ theo sau hít khói thôi.”
Ba chúng tôi trừng mắt nhìn nhau, chẳng nói chẳng rằng. Vì sao hắn đến, vì sao chúng tôi đến, đôi bên đều hiểu cả, chẳng cần nhiều lời. Chung Ái Hoa vất vả theo đuổi mấy ngày vẫn không phá được thành lũy của Đới Hải Yến. Vậy mà chúng tôi đi sau lại tới trước, còn được cô ta mời vào phòng trò chuyện mãi mới trở ra. Chung Ái Hoa chẳng còn lựa chọn nào khác, đành chủ động ra mặt.
Quả nhiên, hắn thở dài hỏi, “Anh Nguyện à, tội gì anh phải làm thế? Minh Nhãn Mai Hoa vứt bỏ gia đình anh, Lão Triều Phụng hãm hại gia đình anh, sao anh phải bán mạng cho họ?”
“Không giúp họ chẳng lẽ giúp quân lừa bịp nhà mày à?” Tôi cười khẩy vặn lại.
“Đúng là tôi lừa anh, nhưng anh nghĩ kỹ mà xem, anh có thiệt cái gì không? Trước đây anh chỉ là một chủ tiệm đồ cổ vô danh tiểu tốt, giờ đã thành anh hùng vén bức màn đen tối bao phủ thị trường cổ vật Trung Quốc, nếu không có chúng tôi trợ giúp, liệu anh có nổi tiếng như cồn thế không?”
“Hừm, bọn mày chỉ muốn mượn tay tao tấn công Minh Nhãn Mai Hoa thôi.”
“Chuyện đó tôi thừa nhận, nhưng tôi cũng đã làm gì có lỗi với anh đâu, đúng không nào?” Nói tới đó, Chung Ái Hoa chìa tay ra, “Tôi thay mặt Bách Thụy Liên hứa với anh, nếu anh gia nhập với chúng tôi, ngày sau Bách Thụy Liên mở ba trung tâm đấu giá cổ vật ở Bắc Kinh, Thượng Hải và Quảng Châu, sẽ cho anh chọn một nơi làm quản lý.”
Chung Ái Hoa cũng mạnh tay thật, dám ra giá cao như thế. Quản lý trung tâm đấu giá là một chức vụ quan trọng, hằng năm chỉ riêng tiền ăn chia cũng đã kiếm bộn.
“Khỏi đi.” Tôi thẳng thừng từ chối không chút do dự.
Chung Ái Hoa dường như cũng lường được phản ứng của tôi, lại quay sang Dược Bất Nhiên, “Anh Nhiên, tuy mới gặp lần đầu nhưng tôi đã tìm hiểu về anh lâu rồi. Nếu anh bằng lòng gia nhập, chúng tôi sẽ sắp xếp cho anh ra nước ngoài, tẩy trắng thân phận, vợ đẹp nhà to do anh chọn cả, suốt đời không phải lo cơm áo.”
Dược Bất Nhiên cao giọng, “Quá đáng vừa chứ, dựa vào cái gì mà Hứa Nguyện được làm quản lý, trong khi đến lượt tao lại bị đuổi đi? Muốn mua mạng ông à, ít ra cũng phải mấy sòng bạc Macao nhé.”
Chung Ái Hoa dường như đã lường được chúng tôi sẽ từ chối, “Đừng hiểu lầm, tôi chỉ hỏi cho phải phép thôi. Như những gì tôi hiểu thì các anh sẽ không chấp nhận những điều kiện thế này.”
“Vậy mày còn chặn đường làm gì?” Dược Bất Nhiên cáu kỉnh gắt, lại đút tay sâu thêm vào ngực áo.
Chung Ái Hoa cười khanh khách, ung dung nói,
“Thực ra tôi chỉ muốn nhờ các anh chút việc nhỏ thôi. Tôi nhất định phải lung lạc được Đới Hải Yến, mà hai anh là hai chướng ngại vật lớn nhất, nên mong rằng…”
Chẳng đợi Chung Ái Hoa nói dứt câu, Dược Bất Nhiên đã sải bước đến trước mặt rút súng chĩa vào đầu hắn, gằn giọng, “Mày muốn làm gì?” Đây là lần đầu tiên tôi thấy Dược Bất Nhiên rút súng, từ một gã trai lông bông thoắt cái đã thành sát thủ hung tợn, khiến tim tôi đập thình thịch vì căng thẳng.
Bị chĩa súng vào đầu song Chung Ái Hoa chẳng mảy may dao động, “Anh Nhiên làm gì cũng thế. Tôi không thích dùng bạo lực như anh, tôi thích dùng đầu óc hơn.”
Dược Bất Nhiên gí súng sát hơn, “Đầu óc hả? Để tao đục cho một lỗ xem đầu óc mày còn dùng được nữa không?”
“Anh có tin tôi đứng yên ở đây cũng giải quyết được hai anh không?” Chung Ái Hoa vẫn thản nhiên.
Dược Bất Nhiên cười ha hả. “Cứ thử xem.”
Tôi nhíu mày, Chung Ái Hoa không phải kẻ ngốc, hắn bình tĩnh như thế, hẳn đã chuẩn bị sẵn thủ đoạn nào đó. Nhìn về phía đầu kia con đường hai hàng cây, tôi chợt nghĩ ra một chuyện, kinh hãi hét lên với Dược Bất Nhiên, “Mày mau chạy đi!”
Dược Bất Nhiên nhìn tôi, thoáng ngỡ ngàng. Lúc này đầu kia đường bỗng truyền đến tiếng chân chạy rầm rập, là tiếng giày da nện xuống mặt đường xi măng, hơn nữa có vẻ không ít người.
Là cảnh sát.
Mặt Dược Bất Nhiên thoắt chốc lạnh te, tôi cũng biến sắc.
Dược Bất Nhiên là tội phạm bị truy nã đang bỏ trốn. Chung Ái Hoa muốn đối phó gã chẳng có gì khó, chỉ cần gọi điện báo cảnh sát, gã sẽ bị săn đuổi ráo riết. Hắn chặn đường chúng tôi nói dông dài chẳng qua là để câu giờ, đợi cảnh sát đến.
Dược Bất Nhiên nổi giận dí súng vào Chung Ái Hoa toan bóp cò, Chung Ái Hoa bị gã ấn gập người xuống, song vẫn nhơn nhơn. Thấy cảnh sát đã áp sát, Dược Bất Nhiên không dám nấn ná lâu, vội nhét súng vào trong áo rồi quay lưng chạy biến, chỉ mấy bước đã khuất dạng trong đêm. Cảnh sát chạy tới hỏi Chung Ái Hoa mấy câu ngắn gọn rồi đuổi theo hướng Dược Bất Nhiên vừa chạy.
Giờ chỉ còn lại tôi và Chung Ái Hoa. Hắn hả hê hỏi, “Thế nào? Tôi không dọa suông chứ?”
Tôi nhìn hắn. “Dù Dược Bất Nhiên bị bắt cũng là đáng tội. Còn tao, mày định đối phó thế nào?”
Chung Ái Hoa cười đáp, “Anh lại càng dễ.”
Vừa dứt lời, đầu kia đường lại vang lên tiếng bước chân, lần này rất hỗn tạp, tôi trông thấy phải đến hơn chục người, nam có nữ có, còn cả hai người nước ngoài, cổ lủng lẳng máy ảnh, tay lăm lăm giấy bút, chạy đến trước mặt chúng tôi.
Chung Ái Hoa trỏ tôi cao giọng giới thiệu, “Đây đây, bên này thưa các vị, vị này chính là Hứa Nguyện.”
Tất cả ồ lên, đua nhau giơ máy ảnh chụp, đèn flash lóe tanh tách, khiến tôi luống cuống tay chân. Đương sững người thì vô số câu hỏi đã ập đến.
“Anh Hứa Nguyện, gần đây anh đi đâu vậy? Là bị ép buộc hay tự nguyện?”
“Anh nghĩ thế nào về bức Thanh minh thượng hà đồ mà Bách Thụy Liên Hồng Kông định bán đấu giá?”
“Là người vén bức màn đen tối, anh có biết những bí mật bẩn thỉu khác của Minh Nhãn Mai Hoa không?”
“Ngài Lưu Nhất Minh quan hệ với anh thế nào?”
Tôi không kịp nhìn ai, toan lùi lại. Song họ vẫn bám riết, ai nấy cao giọng nêu câu hỏi, câu sau sắc bén hơn câu trước. Chung Ái Hoa chen đến trước mặt tôi, nắm tay tôi hỏi khẽ, “Anh thấy thế nào?”
Tôi trừng mắt nhìn Chung Ái Hoa, ánh mắt như tóe lửa.
Tên khốn này ghê gớm thật!
Từ sau khi đăng tải bài viết vạch trần bí mật Thanh minh thượng hà đồ, danh tiếng tôi đã nổi như cồn. Lưu Nhất Minh sáng suốt kịp thời chuyển tôi tới bệnh viện 301, tránh ánh mắt công chúng, thậm chí cả khi đi Nam Kinh cũng là trong bí mật. Các hãng tin lớn vẫn không biết tôi đang ở đâu, một dạo truyền thông nước ngoài còn cho rằng tôi đã bị bắt hoặc bị giam lỏng. Giữa làn sóng chất vấn nghi ngờ Thanh minh thượng hà đồ, thiếu đi tiếng nói của kẻ khơi mào là tôi thực đáng tiếc, nên giới truyền thông vẫn truy tìm tôi ráo riết, hy vọng mọi được thêm tư liệu.
Chung Ái Hoa tiết lộ tung tích của tôi cho họ, tức thì họ đổ xô đến như ruồi thấy hơi tanh, chỉ chậm hơn cảnh sát một bước. Nhà báo trong nước còn đỡ, những ký giả Macao, Hồng Kông, Đài Loan và các hãng tin quốc tế thấy tin mới thực như chó dại vồ mồi, không dễ gì nhả ra. Một khi bị họ phơi bày hành tung, tôi đừng hòng tiếp tục điều tra nữa.
Chung Ái Hoa quả không nói ngoa, hắn chỉ gọi hai cú điện thoại cho cảnh sát và báo chí là đủ làm tôi cùng Dược Bất Nhiên khốn đốn. Hai quân cờ quyết thắng mà Lưu Nhất Minh và Lão Triều Phụng dốc lòng cài cắm, thế là bị khóa chết.
Chung Ái Hoa nhìn tôi, nửa cười nửa không, “Nhất định anh đang nghĩ tên Chung Ái Hoa khốn kiếp này chỉ gọi hai cuộc điện thoại mà đã khiến mình tiến thoái lưỡng nan, dễ xơi quá nhỉ? Sai rồi! Anh có biết đằng sau hai quyết định ấy cần phải tiến hành điều tra bao nhiêu chuyện, cần bao nhiêu quan hệ, bao nhiêu tính toán không? Những thứ đó không phải công lao của một mình tôi đâu. Anh Nguyện à, giờ anh biết mình đang chống lại một tổ chức lớn mạnh nhường nào rồi chứ? Đầu hàng chưa muộn đâu, đề nghị của tôi vẫn như cũ…”
Hắn chưa nói dứt câu thì rào rào, một trận mưa xối xả từ trên trời trút xuống đầu tất cả chúng tôi. Đám phóng viên không kịp đề phòng, đồng loạt la lên. Mái đầu rẽ ngôi bóng mượt của Chung Ái Hoa tức thì ướt sũng, lôi thôi lếch thếch. Tôi cũng ướt như chuột lột, chẳng hơn gì hắn. Sờ tay lên tóc, tôi chợt nhận ra đây không phải nước mưa mà là thứ gì đó nhơm nhớp, bốc mùi gây gây, dính vào đầu rất khó gột sạch.
Mọi người lũ lượt ngẩng lên, ngỡ ngàng thấy trời quang mây tạnh, trăng sao vằng vặc, mây đen mưa rào ở đâu ra. Đúng lúc này một cô gái từ tầng ba ký túc xá ló đầu ra, chậm rãi nói vọng xuống dưới, “Các người đừng hò hét ồn ào dưới đó nữa đi. Lần này chỉ là dung dịch dinh dưỡng, lần sau sẽ là axit đấy.”
Tôi ngước lên thấy Đới Hải Yến đang nhìn xuống, cặp mắt sau lớp kính thoáng vẻ giận dữ, tay còn ôm cái thau rửa mặt. Chung Ái Hoa cũng nhận ra người giội nước là Đới Hải Yến bèn nheo mắt, giơ tay vuốt nước trước trán rồi cao giọng, “Xin lỗi nhé Hải Yến, quấy rầy chị nghỉ ngơi rồi.” Đới Hải Yến chẳng buồn trả lời hắn. Chung Ái Hoa dang hai tay ra nói với đám nhà báo, “Mọi người đừng chen lấn nhau ở đây nữa, quấy rầy các sinh viên và thầy cô giáo nghỉ ngơi, chúng ta ra ngoài từ từ nói chuyện đi, anh Hứa Nguyện đã ra mặt rồi, chẳng lẽ còn trốn được nữa ư.” Câu đùa của hắn khiến cánh phóng viên cười ồ, nhưng tôi lại nghe như một lời uy hiếp. Tôi nhíu mày thầm nhủ, bị đám săn tin này bám riết, e rằng khó mà thoát được.
Ngờ đâu đúng lúc ấy, Đới Hải Yến lại gọi với xuống, “Hứa Nguyện, còn không mau lên đi ngủ à?”
Đám người dưới tầng lặng đi. Chung Ái Hoa nhìn - nói chính xác là trừng mắt với tôi, ngạc nhiên ra mặt, không giữ nổi vẻ điềm tĩnh nữa. Đừng nói hắn mà chính tôi cũng đờ ra, chẳng hiểu cô ta đang nói gì.
“Anh mà không lên thì sau này đừng đến nữa.” Đới Hải Yến ném lại một câu rồi rụt vào trong.
Tôi quyết định thật nhanh, vạch đám phóng viên xúm xít xung quanh ra, chạy thẳng lên gác. Chung Ái Hoa phân vân giây lát song không hề ngăn lại, chỉ đứng bên dưới nhìn theo tôi, ánh mắt lấp loáng. Các phóng viên thì đua nhau chụp ảnh tanh tách.
Tôi đi từng bước lên cầu thang, lòng thấp thỏm không thôi. Đới Hải Yến có ý gì? Sao bỗng dưng lại nói vậy? Hơn nữa còn nói trước mặt cả đám phóng viên. Tôi đoán sáng sớm ngày mai các báo sẽ lên bài dài thượt kể về anh hùng đánh đồ giả say mê nữ sinh Phục Đán.
Song tôi không tự luyến đến mức cho rằng cô nàng bỗng dưng động lòng với mình.
Đến trước cửa phòng Đới Hải Yến ở tầng ba, tôi gõ cửa, cửa bật mở. Tôi thấy cô ta đã thay đồ ngủ nền trắng kẻ caro xanh, ngồi trên ghế cầm sách đọc. Dưới chân cô là thau rửa mặt, cũng bốc mùi là lạ như trên đầu tôi. Bên cạnh còn mấy bình hóa chất rỗng không.
“Nhà tắm ở đầu kia hành lang, anh đi gội đầu đi.” Đới Hải Yến nói mà chẳng buồn ngẩng lên, rồi lại bổ sung, “Đây là dung dịch dinh dưỡng để tưới bón cho cây, thành phần chủ yếu là Ammonium sulfate pha với Tricalcium phosphate, không độc.”
Tôi xách thau đi đến đầu kia hành lang. Nhà tắm ở đây chia thành hai bên nam nữ, dùng chung vòi nước bên ngoài, bên cạnh còn một máy nước nóng. Tôi ngửa thau hứng ít nước nóng rồi đặt xuống dưới vòi nước, xối qua đầu một lượt. Nhà tắm lúc nào cũng có người đi qua đi lại, đều là giảng viên hoặc nghiên cứu sinh tiến sĩ trong trường, một người ngoài như tôi trông lạc quẻ ngay. Gội đầu xong, tôi chần chừ giây lát rồi trơ mặt quay vào phòng Đới Hải Yến, lúc khép cửa lại, tôi cảm thấy có mấy ánh mắt tò mò sau lưng.
Đới Hải Yến vẫn đang chăm chú đọc sách. Tôi nhìn qua cửa sổ thấy Chung Ái Hoa đã mất tăm, chỉ còn mấy phóng viên vẫn lảng vảng dưới đó, thỉnh thoảng giơ máy ảnh lên bấm vài pô, vội đóng cửa kéo rèm thật kín, rồi lại nhận ra thế càng mờ ám hơn.
“Sao cô lại giúp tôi?” Tôi quay lại, băn khoăn hỏi.
Đới Hải Yến hờ hững đáp, “Anh hiểu lầm rồi, tôi chỉ không thích ồn ào thôi.” Đoạn cô ta vén một góc rèm lên nhìn xuống dưới, nói tiếp, “Tôi không biết vừa rồi bên dưới xảy ra chuyện gì, cũng không muốn biết. Có điều nếu tôi khoanh tay đứng nhìn, mai anh sẽ không đến được nữa đúng không?”
“Ừm… phải.” Tôi thừa nhận. Dược Bất Nhiên bị truy bắt, tôi cũng bị lộ tung tích, sẽ khó hành động hơn rất nhiều.
“Tôi ghét nhất là nói nửa chừng lại thôi. Nếu mai anh không tới được thì tối nay nói một lèo cho xong đi.”
Tôi đã nghĩ tới đủ mọi động cơ khiến Đới Hải Yến giúp mình, song thực không ngờ lại là một lý do đơn giản đến vậy. Bèn hỏi, “Cô không sợ lời ong tiếng ve à?”
Đới Hải Yến nhìn tôi, như thể vừa nghe thấy một câu hỏi ngớ ngẩn, “Họ bàn tán thì liên quan gì tới tôi?”
Đoạn cô ta gập sách lại, ngáp khẽ, “Mau bắt đầu thôi, tôi còn phải đi ngủ. Nói xong chuyện về Thanh minh thượng hà đồ thì anh đi đâu cứ đi, không liên quan tới tôi.”
Đới Hải Yến là cháu gái dòng đích của Đới Hi, chỉ có cô ta mới biết được manh mối về phần thiếu của Thanh minh thượng hà đồ. Chung Ái Hoa giở đủ mọi trò, phá bĩnh tôi và Dược Bất Nhiên, song lại không lường được tính tình kỳ quái của cô. Thế nên giờ tôi mới ngồi đây, trong khi hắn chỉ đứng dưới nhà lo lắng suông.
Chỉ cần Đới Hải Yến tiết lộ phát hiện của Đới Hi để tôi lần ra manh mối phần thiếu, tôi sẽ giành lại được quyền chủ động, xáo tung sự sắp xếp của Bách Thụy Liên.
“Được, được.” Tôi lại ngồi xuống chồng sách, hai tay đặt lên đầu gối, hai mắt nhìn thẳng, bình ổn hơi thở, như một đứa bé đợi nghe dạy dỗ. Đới Hải Yến dựa vào xô pha, hai tay khoanh lại, cặp chân dài trắng muốt dưới lớp đồ ngủ duỗi thẳng như một con mèo Ba Tư lười biếng. Đám ký giả bên ngoài có nghĩ nát óc cũng không tưởng nổi trong phòng bây giờ lại là cảnh tượng hữu tình thế này.
Đới Hải Yến lên tiếng, “Lúc chiều tôi đã chứng minh sai lầm ngớ ngẩn anh phạm phải với bản Thanh minh thượng hà đồ đang lưu truyền. Giờ tôi muốn nói rằng anh cũng chẳng hiểu gì về bức tranh này.”
Tôi đã chuẩn bị sẵn tâm lý đón nhận những luận điệu trịch thượng của cô ta nên chỉ lặng thinh lắng nghe.
“Muốn làm rõ vấn đề này phải kiểm tra một chút, tôi hỏi anh nhé, cái tên Thanh minh thượng hà đồ nghĩa là gì?”
“Thanh minh ý chỉ tiết Thanh minh theo nông lịch, thượng hà ý nói viếng mộ. Chủ đề bức tranh này là cảnh phồn hoa bên bờ sông Biện vào tết Thanh minh dưới thời Bắc Tống ở Biện Lương.” Tôi trả lời.
“Sai rồi, sai hoàn toàn.” Đới Hải Yến lắc đầu.
“Sai ở đâu?” Tôi ngỡ ngàng. Đây không phải tôi tự tiện nói bừa, tất cả sách lịch sử và lịch sử nghệ thuật đều giải thích như vậy mà. Cô ta nói sai hoàn toàn là sao?
Đới Hải Yến cúi xuống lục tìm trong đống sách tham khảo mượn từ thư viện, rút ra một cuốn Nghệ thuật cổ điển Trung Quốc tuyển chọn. Cuốn sách này khổ rất to, in ấn cũng đẹp, Đới Hải Yến nhanh nhẹn giở đến trang Thanh minh thượng hà đồ, tôi thấy bức tranh dài được chia thành bốn phần, in song song trên hai mặt giấy, tuy không rõ như ảnh giám định, nhưng vẫn thấy được đủ các chi tiết, có thể coi như bản rõ nhất trên thị trường hiện nay.
Cô xoay bức tranh tới trước mặt tôi, móng tay ngón trỏ bàn tay phải vạch lên mé phải bức tranh. Tôi để ý thấy vị trí cô chỉ vẽ năm con lừa, mỗi con thồ hai sọt than trên lưng đang được người dắt vào thành Biện Lương.
Người xưa xem tranh từ phải sang trái, chỗ này rơi vào phần bên phải bức tranh, tương đương với đoạn mở đầu của Thanh minh thượng hà đồ.
“Chỗ này… có vấn đề gì?”
“Đã chỉ rõ thế mà anh vẫn chưa nhìn ra à?” Đới Hải Yến chế nhạo, “Thanh minh theo nông lịch đã là cuối xuân, sắp sang hè đến nơi. Người thời Tống chỉ dùng than sưởi ấm vào mùa đông, mùa hè đưa than vào thành làm gì?”
“Chưa chắc là để sưởi ấm, cũng có thể là nhóm bếp nấu cơm mà.” Tôi thận trọng giải thích.
“Được, anh xem tiếp chỗ này đi.”
Ngón tay Đới Hải Yến trỏ vào giữa bức tranh, hai bên bờ sông Biện ở đây đã khá phồn hoa, nhiều hàng quán đông đúc, trong đó có mấy quán rượu, cờ rượu phấp phới, khách khứa ùn ùn, thấp thoáng thấy cả mấy vò rượu lớn, nét vẽ tỉ mỉ tinh tế. Đới Hải Yến gõ vào mấy chỗ trên đó, tôi thấy có ba lá cờ rượu có thể đọc được chữ “rượu mới”, có lẽ cũng giống như bảng quảng cáo hiện nay, rêu rao rằng mình là hàng mới.
“Rượu mới nghĩa là rượu dùng lương thực mới chín ủ nên. Bất luận nguyên liệu là cao lương, lúa mì, gạo nếp hay gạo tẻ thì vào tiết Thanh minh, những thứ này đều chưa chín, lấy đâu ra rượu mới?” Đới Hải Yến chỉ ra vấn đề thứ hai.
“Chuyện này…” Tôi cứng họng. Cô nàng này không hổ là dân Sinh vật, người bình thường sẽ khảo chứng từ bút pháp hoặc phong cách, chỉ có cô ta một mình một kiểu, đưa ra nghi vấn từ góc độ lạ lùng này.
Chẳng để tôi kịp ngẫm nghĩ, Đới Hải Yến lại trỏ vào chỗ thứ ba trên bức tranh. Đó là một chiếc cầu cong bằng gỗ, tên là cầu Vồng, không có trụ cầu, thân cầu cong cong như cầu vồng, bắc ngang sông Biện bên ngoài thành Biện Lương. Trên cầu nô nức người qua xe lại, hai bên cầu đều là sạp hàng, vô cùng náo nhiệt.
“Thấy chưa? Mấy sạp hàng đó bán gì?”
“Dưa hấu bổ đôi.” Tôi đáp.
“Anh bảo thời Tống có nhà kính không? Có ăn được dưa hấu vào tiết Thanh minh không?” Mắt quan sát của Đới Hải Yến cực kỳ nhạy bén, khiến tôi thực sự cạn lời. Cách tư duy phân tích này đúng là ngoài sức tưởng tượng. Trước đây tôi từng nói, chỗ khó nhất trong giám định thư họa là nghệ thuật không có quy tắc cố định, mọi người chỉ bình phẩm về mực, cách vận bút, lên màu vân vân mà thôi, một cái cây anh nói là cứng đờ, tôi nói là phóng khoáng, không thể phán định đúng sai, đành so về bề dày kinh nghiệm. Song những nghi vấn mà Đới Hải Yến liệt kê ra đều là sự thực khách quan phi nghệ thuật tính, là chứng cứ hai năm rõ mười.
Xem ra Đới Hải Yến đã tìm được khá nhiều tài liệu từ Đới Hi, phương pháp khảo chứng này quả khiến tôi được mở mang tầm mắt.
“Vậy theo cô thì thanh minh nghĩa là gì?” Tôi không giải thích nữa, chỉ hỏi.
“Tranh này không vẽ cảnh xuân, mà là cảnh thu. Còn hai chữ thanh minh ý nói thịnh thế thanh minh, đây là cái tên Trương Trạch Đoan đặt ra để ca ngợi nền cai trị của Tống Huy Tông. Giờ chẳng phải cũng thế ư? Người dân an cư lạc nghiệp, ca hát thanh bình, vân vân đều là lời sáo mà thôi.”
“Vậy thượng hà thì sao?”
“Cái đó càng đơn giản hơn. Sông Biện rẽ nhánh từ cửa Lạc ở Tây Kinh, theo cổng Tây Thủy ở hướng Tây Nam chảy vào thành, qua cổng Cựu Trinh, cầu Châu, cuối cùng chảy ra theo cổng Đông Thủy, tiếp tục chảy về phía Đông. Nó chảy qua cả kinh thành Đại Tống, ngang với sông ngự, nên được tôn xưng là thượng hà.”
Tôi nhắm mắt lại để tiêu hóa những kiến thức này rồi hỏi, “Cứ coi như cô nói đúng, hai chữ thanh minh và thượng hà giải thích như thế đi, nhưng liên quan gì đến phần thiếu?”
“Liên quan nhiều chứ.” Giọng Đới Hải Yến vẫn đều đều mà kiên định, “Anh nhìn mé trái tranh mà xem.”
Đó là phần cuối của Thanh minh thượng hà đồ, vẽ một ngã tư, xe ngựa như nêm, cửa hàng bốn góc phố cũng đông như trảy hội. Nhưng đi về bên trái thêm một quãng, quang cảnh bỗng vắng bặt, chỉ còn toàn giấy trắng, tất cả những người sưu tầm đều ghi lời bạt và đóng dấu lên đó.
“Anh không thấy Trương Trạch Đoan dừng bút ở chỗ này quá đột ngột sao? Con đường ở mé trái chỉ vẽ một nửa, ngay cái cây trước cửa hiệu cũng chỉ có nửa tán. Thế này không giống như vẽ xong, mà giống bị xén mất một đoạn hơn.”
“Nhưng đây cũng chỉ là suy đoán phải không?” Tôi rụt rè hỏi, chỉ sợ mình hỏi ngu.
Đới Hải Yến nhìn tôi, “Anh muốn bằng chứng chứ gì? Trương Trạch Đoan vẽ cảnh vật chạy dọc hai bên bờ sông Biện, từ ngoại ô thành Biện Lương vào đến trong thành, ở góc Đông Nam Biện Kinh. Ông ta muốn khắc họa cảnh tượng thịnh thế thanh minh, đáng lý không thể bỏ qua một cột mốc quan trọng của Biện Kinh được.”
“Gì cơ? Phủ Khai Phong à? Hay chùa Đại Tướng Quốc?” Tôi không rõ lắm về lịch sử triều Tống, chỉ biết mấy địa danh quen thuộc trong chuyện kể rong thôi.
“Hồ Kim Minh.” Đới Hải Yến gõ ngón tay lên phần bên trái để trống của Thanh minh thượng hà đồ.
Hồ Kim Minh thì tôi biết, đó là một hồ nước vuông vắn, chu vi chín dặm ba mươi bộ, nằm bên ngoài cổng Tây Thủy ở góc Tây Nam Biện Lương, bờ Nam sông Biện. Thủy quân hoàng gia thường diễn tập ở đây, mỗi năm từ mùng một tháng Ba đến mùng tám tháng Tư còn cho dân chúng vào du ngoạn xem các trò chơi dưới nước, lại thường tổ chức các giải đua thuyền, là nơi cực kỳ náo nhiệt ở Biện Lương, đại để giống với sân vận động công nhân và cung thể thao Thủ đô ngày nay.
Dù không phải dân nghiên cứu, cũng thường nghe thấy cái tên hồ Kim Minh này trong các câu chuyện kể rong như Thủy Hử, Dương gia tướng, Tiết Cương phản Đường, Bao Công v.v… Tôi chợt nghĩ ra Trương Trạch Đoan còn có một tác phẩm khác tên là Kim Minh trì tranh tiêu đồ. Có thể thấy ông ta cũng nghiên cứu rất kỹ về hồ Kim Minh.
Đới Hải Yến nói, “Hồ Kim Minh là địa điểm chính trị quan trọng để thể hiện quân uy triều đình, cũng là chốn vui chơi giải trí của dân chúng Biện Lương, lại nằm bên bờ sông Biện. Trương Trạch Đoan muốn khắc họa thịnh thế thanh minh, vẽ cảnh sắc sông Biện ngoài ngoại ô lại bỏ sót một điểm quan trọng như hồ Kim Minh, chẳng lạ lắm ư? Anh vẽ một bức phố dài mười dặm ở Bắc Kinh, liệu có bỏ qua Vương Phủ Tỉnh không?”
Tôi biến sắc, “Ý cô là bức Thanh minh thượng hà đồ này quả thực đã bị cắt mất một đoạn vẽ cảnh hồ Kim Minh và cổng Tây Thủy phải không?”
“Tôi chẳng những biết phần thiếu vẽ những gì, còn biết nó dài bao nhiêu cơ.” Đới Hải Yến tự đắc khoe.
“Chuyện đó cô cũng biết được ư?” Tôi giật bắn mình. Lẽ nào tấm thiếp Đới Hi viết đã rơi vào tay Đới Hải Yến? Bằng không sao cô ta biết rõ vậy?
“Phân tích thì biết thôi. Trước khi Thanh minh thượng hà đồ rơi vào tay Nghiêm Tung, từng được một danh nhân thời Minh cất giữ, người này tên gọi Lý Đông Dương, còn để lại hai lời bạt. Anh biết chứ?”
Tôi gật đầu. Lúc nghiên cứu ảnh giám định, tôi đã đối chiếu kỹ những lời đề bạt và dấu đóng qua các đời, trong đó có cả của Lý Đông Dương. Lý Đông Dương là danh thần hai triều Hoằng Trị và Chính Đức, cũng là một nhà sưu tầm có tiếng.
“Anh có nhớ ông ta viết gì không?”
Tôi lắc đầu, tôi chỉ quan tâm tới dấu đóng và mối liên quan giữa các lời bạt, phần nội dung đều đọc qua loa, không lưu ý. Dù sao những lời bạt đó chẳng qua cũng chỉ ca ngợi tài vẽ, giám định giá trị, tiện thể tâng bốc bản thân mấy câu thôi.
Đới Hải Yến nói, “Bởi thế mới bảo anh ngu xuẩn. Trong lời bạt, Lý Đông Dương có viết một câu quan trọng, rằng tranh rộng chưa đầy thước, dài hai trượng có lẻ.” Tôi nhíu mày cố nhớ lại, hình như đúng là có một đoạn như thế, nhưng con số cụ thể thì không nhớ rõ.
Đới Hải Yến rút máy tính ra bấm nhoay nhoáy, “Một thước thời Minh là 0,32 mét hiện nay. Dài hai trượng có lẻ, ta cứ coi là hai trượng ba đi. Tính ra thì khi Lý Đông Dương cất giữ, bức họa này dài khoảng 7,36 mét.”
Nghe con số này, tôi đứng phắt dậy, mặt tái đi. Thanh minh thượng hà đồ hiện nay chỉ dài 5,28 mét, ngắn hơn bản Lý Đông Dương nói đến 2,08 mét! Cũng có nghĩa là bức danh họa này đã bị cắt mất gần một phần ba! Tôi thực không ngờ phần thiếu này lại dài đến thế.
Đới Hải Yến lại nói, “Tính theo tỉ lệ xích trên Thanh minh thượng hà đồ, đổi 2,08 mét này thành khoảng cách thật trong thành Biện Lương, vừa khớp với đoạn đường từ hồ Kim Minh đến cổng Tây Thủy.”
Theo giải thích của Đới Hải Yến, kết luận đã hiện ra rõ rành rành. Thanh minh thượng hà đồ vốn còn một phần dài 2 mét về phía trái, vẽ cảnh hồ Kim Minh đến cổng thành. Khi Lý Đông Dương thời Minh sưu tầm, nó vẫn còn nguyên vẹn, nhưng sau đó tới thời Gia Tĩnh, khi Vương Thế Trinh trông thấy thì đã khuyết. Trong mấy chục năm ngắn ngủi từ thời Chính Đức đến thời Gia Tĩnh, kiệt tác này đã bị người ta cắt làm đôi.
Tôi lập tức nhớ tới Tống Huy Tông vốn có một lời đề tựa đóng dấu song long, nhưng trên bản hiện nay không còn nữa, nghe nói là bị cắt mất, chưa chừng cũng mất vào lúc đó. Nếu thế thì phần thiếu này không chỉ có tác dụng phân định thật giả mà riêng bản thân nó cũng có giá trị kinh người! Gần một phần ba bức Thanh minh thượng hà đồ còn gì! Lại cả ngự bút của Tống Huy Tông nữa!
Lời bạt của Trương Trạch Đoan có lẽ chẳng cách Tống Huy Tông là mấy, e rằng cũng bị cắt đi rồi.
Phát hiện này của Đới Hi thực sự quá quan trọng. Tôi kích động đi qua đi lại trong phòng mấy lần, hòng bình ổn tâm trí. Trái lại Đới Hải Yến chỉ lạnh lùng ngồi nhìn, như vừa thảo luận chuyện thường ngày vậy.
Đang đi bỗng tôi khựng lại, nhận ra một vấn đề then chốt. Đới Hi đã chứng minh sự tồn tại của phần thiếu một cách hoàn hảo, nhưng nó ở đâu? Nếu tôi không tìm được thứ này thì dù có chứng minh hoàn hảo tới đâu, cũng chẳng còn ý nghĩa.
Nghĩ vậy, tôi hỏi Đới Hải Yến, “Ngoài khảo chứng được nội dung và độ dài của phần thiếu, cụ tổ nhà cô có nhắc gì tới tung tích nó không?”
Đới Hải Yến ngạc nhiên nhìn tôi, “Anh nói gì cơ?”
“Đới Hi, cụ tổ nhà cô ấy. Chẳng phải ông ấy là người đầu tiên phát hiện Thanh minh thượng hà đồ không hoàn chỉnh sao?”
Nghe câu này, nụ cười của Đới Hải Yến tắt lịm, cô khoanh hai chân lại, “Anh tưởng những điều hôm nay tôi nói đều là biết được từ Đới Hi sao?”
“Ấy… không phải ư?”
Đới Hải Yến cười nhạt đứng dậy, “Sao trên đời này lắm đồ ngu tự cho mình là đúng thế nhỉ? Nói cho mà biết, tuy tôi là cháu dòng đích của Đới Hi nhưng về tổ tiên mình, tôi cũng chỉ biết những nội dung như trong ghi chép của cụ Đới Dĩ Hằng mà thôi, ngoài ra không còn gì cả.”
Lần này đến lượt tôi ngỡ ngàng. “Vậy những phát hiện cô vừa nói là nghe được ở đâu thế?”
Đới Hải Yến hếch cằm, “Nghe cách dùng từ đủ thấy anh cổ hủ thế nào rồi. Anh nghĩ phụ nữ không thông minh bằng đàn ông hả? Anh cho rằng người nay không hơn được người xưa chắc? Nói cho mà biết nhé, những điều đó đều do tôi tự nghiên cứu từ hồi cấp ba đấy.”
Tôi kinh ngạc không kém lúc biết Thanh minh thượng hà đồ còn một phần nữa. Một nữ sinh cấp ba không ngờ lại có thể nghiên cứu một vấn đề chuyên sâu như thế, quả là thiên tài. Đới Hạc Hiên từng nhắc tôi rằng cô gái này học nhiều hiểu rộng, song tôi đâu ngờ cô lại xuất chúng đến mức này.
“Sao cô lại nghĩ tới việc nghiên cứu về nó?”
Đới Hải Yến đáp, “Chương trình học cấp ba quá dễ với tôi, nhàn nhã quá nên tôi định tìm việc gì đó để làm. Tình cờ tìm thấy bút ký của cụ Đới Dĩ Hằng, phát hiện được lời bàn của Đới Hi về Thanh minh thượng hà đồ, tôi bắt đầu tìm kiếm tấm thiếp của cụ, nhưng không thấy ở đâu trong nhà cả. Thế là tôi quyết định tự phá giải bí ẩn này, mất cả một học kỳ thu thập tư liệu, một học kỳ khảo chứng, những gì nói với anh hôm nay, tôi đã phải mất một năm mới tìm ra được đấy.”
“Đã vậy sao cô không công bố?” Tôi thắc mắc, lúc cô ta học cấp ba là khoảng những năm 80, vậy mà trước giờ tôi chưa từng nghe bất cứ một bình luận nào về chuyện này trong giới thư họa cả.
Đới Hải Yến nhún vai khinh khỉnh, “Công bố làm gì? Bấy giờ tôi chỉ là học sinh cấp ba, tiếng nói không có trọng lượng. Giới cổ vật các anh giống như động khỉ trong vườn thú, không cho người ngoài gia nhập đã đành, mà giữa người mình với nhau cũng phân biệt đối xử. Họ chỉ nhìn danh tiếng, lai lịch chứ không nhìn vào nội dung. Tôi đã gửi bài tới mấy tạp chí, cũng từng liên hệ với chuyên gia trong giới học thuật, đều như ném đá xuống giếng. Trong các ngành xã hội không có chân lý, toàn xét lý lịch để chia vai vế cả! Những thứ đó không thể tính chính xác, không sao lượng hóa, chỉ dựa vào lập luận, ai phải ai trái cũng xập xí xập ngầu. Từ đó trở đi tôi đã quyết định chọn ngành tự nhiên, lý luận khoa học phải dựa vào logic chặt chẽ, người vai vế lớn đến đâu mà nói 1+1=3 cũng không được. Trong thế giới này, tôi có thể tự gây dựng giá trị của mình.”
Chẳng trách Đới Hải Yến thái độ với tôi như vậy, thì ra cô ta vẫn để bụng việc bị phớt lờ thời cấp ba.
Tuy đã bỏ xã hội theo tự nhiên từ lâu, nhưng chuyện năm xưa cứ canh cánh trong lòng cô. Tôi phát biểu linh tinh trên báo thì được truyền thông tâng bốc, trong khi cô có phát hiện động trời lại chẳng ai nhìn đến, dĩ nhiên ôm ấm ức trong lòng, muốn tranh luận với tôi cho ra nhẽ.
“Chẳng trách hôm nay cô nói nhiều với tôi như thế.” Tôi cảm khái.
Đới Hải Yến liếc tôi, “Kiến thức của anh về Thanh minh thượng hà đồ đúng là nông cạn hết chỗ nói, nhưng dù sao anh cũng có quan hệ mật thiết với nó, nhất định sẽ chăm chú lắng nghe tôi. Tôi chỉ công bố thành quả nghiên cứu của mình cho những người biết trân trọng giá trị của nó thôi.”
“Nhưng tên Chung Ái Hoa kia cũng sẽ trân trọng thành quả nghiên cứu của cô mà. Sao cô không cho hắn biết?”
Đới Hải Yến xùy một tiếng, “Nếu hắn đến hỏi thẳng, có lẽ tôi sẽ nói. Nhưng hắn lại giả vờ giả vịt theo đuổi tôi, còn làm đỏm vuốt keo, ngày ngày tặng hoa hồng, chẳng những coi thường IQ của tôi, mà còn giẫm đạp lên thẩm mỹ của tôi.”
Bấy giờ tôi mới yên tâm, xem ra không cần lo Đới Hải Yến sẽ nói với Chung Ái Hoa về phần thiếu của Thanh minh thượng hà đồ nữa.
“Vậy cô có thể khảo cứu ra tung tích tấm thiếp của Đới Hi không?” Tôi khấp khởi hỏi. Cô nàng này thần thông quảng đại, đến độ dài phần thiếu của Thanh minh thượng hà đồ còn tính ra được, chưa chừng lại có manh mối khác.
Tiếc rằng Đới Hải Yến lắc đầu, “Việc này tôi không giúp được anh đâu. Tấm thiếp của cụ tổ nhà tôi thất lạc lâu rồi, có lẽ là lưu lạc trong dân gian, cũng có thể đã bị hủy hoại trong chiến tranh. Ghi chép của cụ Đới Dĩ Hằng không cung cấp được manh mối nào, người nhà họ Đới chúng tôi cũng đã thử đi tìm, song chẳng ai tìm ra cả.”
Tôi thất vọng tràn trề, đây là vấn đề quan trọng nhất, vậy mà không thể làm rõ được. Đới Hải Yến đẩy gọng kính hỏi, “Đới Hạc Hiên cũng không biết à?”
“Ông ta nói mình chỉ là dòng thứ, dù Đới Hi hay Đới Dĩ Hằng có để lại tài liệu gì, cũng chẳng đến lượt ông ta.”
“Cũng biết thân biết phận đấy.” Đới Hải Yến cười khẩy, “Họ Đới chúng tôi quê gốc ở Tiền Đường, mà chi nhà Đới Hạc Hiên đã dời tới Hà Nam từ lâu, đến trước giải phóng mới quay lại Nam Kinh. Thế nên trong tộc phả họ Đới đã tách chi này ra riêng, không liên quan đến chi ở Tiền Đường.”
“Ờ..” Tôi chợt thấy là lạ, như thể vừa bỏ qua manh mối nào đó, nhưng gãi đầu nghĩ mãi không ra, bèn cau mày vắt óc cố nhớ. Thấy tôi vò đầu bứt tai suy nghĩ, Đới Hải Yến phì cười thành tiếng rồi đứng dậy, quả quyết nói, “Những gì muốn nói tôi đã nói xong rồi. Anh đi đi, sau này đừng đến làm phiền tôi nữa.”
“Cảm ơn cô.” Tôi chân thành cảm tạ. Tôi và cô ta vốn không quen biết, được cung cấp bao nhiêu manh mối thế này đã là thu hoạch trên cả mong đợi rồi.
Đới Hải Yến xua tay, chẳng hiểu ý là đừng khách sáo hay đừng nói dông dài.
Tôi đang định đi thì nghe tiếng gõ cửa. Mở cửa ra liền thấy mấy viên cảnh sát. Họ rút thẻ cảnh sát ra, nói rằng vừa rồi có người thấy tôi cùng Dược Bất Nhiên đi vào ký túc này nên muốn đưa tôi về phối hợp điều tra.
Xem ra Dược Bất Nhiên đã trốn thoát, tôi cũng chẳng biết cảm giác của mình là tiếc nuối hay mừng rỡ nữa.
Dù sao thì đi cùng cảnh sát cũng có thể tránh bị đám phóng viên làm phiền. Thế nên tôi ngoan ngoãn đi theo cảnh sát, để Đới Hải Yến đóng sầm cửa lại sau lưng. Lúc đi qua hành lang, tôi thấy có mấy cánh cửa mở he hé, có lẽ từ hôm nay trở đi, trong trường sẽ rộ lên hàng loạt lời đồn thổi, may mà Đới Hải Yến chẳng buồn để tâm.
Vừa rời khỏi ký túc, đã thấy đèn flash lóe lên tanh tách khắp bốn bề, rồi cả đống phóng viên hào hứng xúm lại. Cảnh sát buộc phải xua họ đi mới đưa được tôi vào xe. Chẳng biết sáng mai họ sẽ viết thế nào, anh hùng đánh đồ giả nửa đêm lẻn vào khuê phòng nghiên cứu sinh tiến sĩ rồi bị bắt chăng?
Tới đồn công an, tôi lấy chứng nhận của cục Tám bộ Công an ra, khiến đám cảnh sát giật mình, vội gọi điện xác thực. Chẳng bao lâu sau họ đã trả chứng nhận lại cho tôi, thái độ cũng dịu hẳn đi. Đây là bùa hộ mệnh Phương Chấn cho tôi, dĩ nhiên không thể giả được. Tôi nói với họ rằng mình và Dược Bất Nhiên chỉ tình cờ cùng đi vào ký túc xá, còn về phần tôi tới đó làm gì thì xin lỗi không thể tiết lộ được.
Cảnh sát ghi lại lời tôi rồi cho về. Suốt dọc đường về khách sạn, tôi luôn có cảm giác bị bám đuôi, nên tới quầy lễ tân bèn giơ chứng nhận ra, nói rằng mình đang thực hiện một nhiệm vụ cơ mật, bất luận ai hỏi thăm cũng không được cho biết số phòng. Nhân viên trực quầy hoảng hốt vỗ ngực bảo đảm sẽ làm đúng như tôi dặn.
Trở về phòng, tôi sực nhớ ra di động của mình vẫn giắt trên người Dược Bất Nhiên. Cảnh sát không biết điều này nên nhất định không nghe lén. Tôi bèn dùng điện thoại bàn gọi vào số mình, chuông reo gần chục tiếng Dược Bất Nhiên mới bắt máy. Tôi nghe hắn thở hồng hộc, như vừa chạy một đoạn dài.
“Mày đâu rồi?” Tôi hỏi.
“Mày không biết thì hơn, tóm lại tao tạm thời rất an toàn. Thằng ranh Chung Ái Hoa kia báo cảnh sát làm tao phải chạy tháo thân, mệt quá đi mất, bao nhiêu năm không chạy mệt thế này.”
“Tao cũng bị phóng viên bám đuôi rồi.”
“Khốn thật.” Dược Bất Nhiên tức tối, “Về sau mày định thế nào?”
Tôi đắn đo giây lát, cảm thấy không cần giấu giếm, bèn kể vắn tắt cho gã nghe phát hiện của Đới Hải Yến. Nghe xong, Dược Bất Nhiên hỏi, “Đại Tề thông bảo của Đới Hi cũng mất tích cùng tấm thiếp đúng không?”
“Đúng.”
“Hoàng Khắc Vũ đã có Đại Tề thông bảo, chưa chừng cũng biết tung tích tấm thiếp kia đấy.”
Phải rồi! Sao lúc nãy tôi không nghĩ tới điểm này nhỉ! Hai thứ này vốn được Đới Hi cất cùng nhau mà. Sau khi ông ta nhảy xuống sông tự tử, người tìm được Đại Tề thông bảo chưa chừng cũng biết tung tích tấm thiếp. Tuy chuyện đã qua nhiều năm, chẳng biết Đại Tề thông bảo đã qua tay bao nhiêu người, Hoàng Khắc Vũ chưa chắc đã rõ, song đây là manh mối duy nhất của chúng tôi hiện giờ.
“Chắc chắn mày sẽ bị cảnh sát theo đuổi, chúng ta tạm thời không thể gặp nhau được, cho tao mượn điện thoại dùng ít bữa nhé.” Rồi chẳng đợi tôi đồng ý, Dược Bất Nhiên đã cúp máy, hẳn là lại gặp phải tình huống khẩn cấp.
Tâm trạng tôi khá mâu thuẫn. Vốn dĩ tôi chỉ mong gã bị cảnh sát bắt rồi đưa ra xét xử, song giờ lại mừng thầm vì gã trốn được. Vừa rồi khi Chung Ái Hoa xuất hiện, Dược Bất Nhiên đã bước lên chắn trước mặt tôi, phản ứng tức thời của con người thường không dễ gì giả vờ, hành động của gã khiến tôi thực chẳng biết nghĩ sao.
Không nghĩ được thì đừng nghĩ nữa, việc chính quan trọng hơn. Tôi vội vàng gọi điện về Bắc Kinh cho Phương Chấn, thuật lại ngắn gọn tình hình ở Phục Đán, để y có lời với cảnh sát Thượng Hải, tránh gây rắc rối cho tôi. Phương Chấn đồng ý.
Tiện thể tôi hỏi han tình hình cụ Lưu. Phương Chấn kể rằng ngày ngày Lưu Nhất Minh đều cùng cục trưởng Lưu tới các cơ quan ban ngành và nhà riêng của lãnh đạo, hết sức bận rộn, giờ đã uống thuốc an thần đi ngủ rồi. Tôi vốn định báo cáo tình hình với cụ Lưu để xin ý kiến, nghe Phương Chấn nói vậy thì đành thôi. Lại hỏi y có cách nào liên lạc với Hoàng Khắc Vũ ở Hồng Kông không, Phương Chấn bèn cho tôi một số điện thoại.
“Cụ Hoàng đằng đó thế nào rồi?” Tôi thuận miệng hỏi. Sau khi bùng lên vụ tai tiếng về Thanh minh thượng hà đồ, Lưu Nhất Minh ở lại trấn giữ Bắc Kinh, còn Hoàng Khắc Vũ phải tới Hồng Kông vật lộn trong lòng địch.
Song Phương Chấn hỏi một đằng lại trả lời một nẻo. Y nói hiện giờ những tranh luận xung quanh Thanh minh thượng hà đồ ngày càng lan rộng, kết quả giám định Cacbon-14 cũng không dẹp yên nổi, cấp trên đã quyết định mở một triển lãm giao lưu văn hóa vật thể giữa Bắc Kinh và Hồng Kông, nhân dịp này đưa Thanh minh thượng hà đồ tới Hồng Kông tiến hành đối chiếu giám định.
Nhà nước dĩ nhiên không chấp nhận đổi chất công khai, nhưng cũng không thể bất chấp dư luận. Vừa hay Hồng Kông còn năm năm nữa là trở về với Trung Quốc, nên cấp trên mới nghĩ ra cái cớ giao lưu văn hóa, để các bên đều chấp nhận được, Thanh minh thượng hà đồ cũng có thể danh chính ngôn thuận đưa sang Hồng Kông.
Song quyết định này cực kỳ đáng ngại với Minh Nhãn Mai Hoa, chứng tỏ họ đang mất đi quyền nắm giữ cục diện.
Tôi không còn nhiều thời gian nữa.
Phương Chấn không muốn bình phẩm về Hoàng Khắc Vũ, nhưng nghe thái độ của y, e rằng Hoàng Khắc Vũ ở Hồng Kông cũng không phát huy được mấy hiệu quả. Từ sau khi Minh Nhãn Mai Hoa đổi thành Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, cũng cắt đứt quan hệ với Hồng Kông, mấy chục năm nay chẳng còn sức ảnh hưởng ở đó nữa. Giờ đây giới cổ vật Hồng Kông hoàn toàn là sân khách của Minh Nhãn Mai Hoa.
Nghĩ ngợi một thoáng, tôi lại hỏi, “Có thể nghĩ cách gì đó kiềm chế bớt hoạt động của Chung Ái Hoa không?” Cứ để tên nhãi ấy nhởn nhơ khắp nơi, có ngày lại nhảy ra phá bĩnh tôi chưa chừng.
Lần này Phương Chấn trả lời ngay, “Hắn là công dân Hồng Kông, hơn nữa hiện giờ cũng chưa gây ra chuyện gì phạm pháp, khó bắt giam lắm.” Ngừng một lát, y lại nói, “Nhưng nếu cậu muốn Dược Bất Nhiên sa lưới thì cực dễ.”
Xem ra bộ máy nhà nước mạnh hơn tôi tưởng tượng nhiều. Đây vốn là cơ hội ngàn năm khó gặp, nhưng tôi phân vân giây lát lại trả lời rằng tạm thời chưa cần vội, cứ để gã lại đó có việc cần dùng. Phương Chấn chỉ ừm một tiếng, không hề gặng hỏi. Thấy thế tôi thở phào nhẹ nhõm, nếu y hỏi tại sao, tôi thực chẳng biết phải đưa ra lý do nào thuyết phục nữa.
“Vậy có cách nào tra được lai lịch Chung Ái Hoa không?” Tôi chuyển chủ đề. Chung Ái Hoa tuy là dân Hồng Kông nhưng nhìn cách ăn nói cư xử, nhất định đã lớn lên ở Đại Lục, phong cách ấy không thể bắt chước được. Phương Chấn bèn đáp sẽ thử tìm trong đăng ký hộ tịch.
“Tôi hiểu rồi. Nếu có kết quả, anh bảo tôi ngay nhé.” Tôi nói.
“Cẩn thận đấy.” Phương Chấn dặn bằng giọng đều đều, như đang nói chuyện công việc. Nhưng tôi biết, người này xưa nay không bao giờ nhiều lời. Chẳng hiểu câu này của y ý nói cẩn thận với Chung Ái Hoa hay với Dược Bất Nhiên nữa.
Đặt ống nghe xuống, tôi lại quay số Hoàng Khắc Vũ, nghe thấy tiếng tổng đài mới sực hiểu ra ở đây không có dịch vụ gọi đường dài quốc tế, muốn gọi phải ra bưu điện. Tôi đành lên giường đi ngủ, sáng mai tính tiếp. Vốn tưởng lòng ngổn ngang muôn mối như thế sẽ tha hồ mơ linh tinh nhưng lạ một điều là tôi ngủ say như chết đến tận sáng, chẳng mơ mộng gì. Thực ra từ sau khi rời núi Tử Kim, tôi không còn bị ác mộng đeo đẳng nữa.
Sáng hôm sau, tôi vừa mở cửa phòng đã thấy một vật đen sì dưới đất, nhặt lên xem thì là máy nhắn tin, bên trong còn lưu một câu: “Mày dùng cái này để liên lạc nhé.”
Chẳng biết Dược Bất Nhiên làm cách nào đưa được thứ này tới đây. Máy nhắn tin chỉ liên lạc được một chiều, tôi bị động tiếp nhận tin tức, đối với kẻ đang trốn truy nã như gã thì phương thức liên lạc này an toàn hơn. Tôi bèn giắt nó vào thắt lưng rồi nhanh chóng rời khách sạn. Vừa ra khỏi cửa đã thấy một đám phóng viên lao tới, hỏi đủ thứ chuyện. May mà trước lúc xuất phát tôi đã liên lạc với hãng xe du lịch Thượng Hải đặt một chiếc taxi Santana. Tôi không nói một lời, đợi xe trờ tới lập tức lên xe đi thẳng. Các phóng viên không có sẵn ô tô, không kịp đuổi theo, ai nấy tức lồi mắt.
Tôi chạy thẳng đến bưu điện Hồng Khẩu, làm thủ tục gọi đường dài quốc tế rồi chui vào buồng điện thoại không người, quay số Hoàng Khắc Vũ tại Hồng Kông.
Đầu kia bắt máy rất nhanh, trong ống nghe giọng Hoàng Khắc Vũ vẫn sang sảng, song đầy vẻ mệt mỏi. Tôi nói mình là Hứa Nguyện, đầu kia liền hỏi ngay,
“Cậu cứu Yên Yên ra chưa?”
Tôi nói Đới Hạc Hiên đã rút đơn, chẳng bao lâu nữa cô sẽ được thả. Hoàng Khắc Vũ hỏi tôi đang ở đâu, tôi đáp rằng Thượng Hải. Tức thì ông ta nổi sùng, mắng tôi một trận như tát nước, hỏi vì sao tôi không ở lại Nam Kinh với Hoàng Yên Yên.
Tôi chẳng hơi đâu giải thích, đợi ông ta mắng chán mới hỏi ông ta lấy được Đại Tề thông bảo ở đâu. Hoàng Khắc Vũ vặc lại: “Cậu hỏi chuyện này làm gì?”
Tôi phát cáu đáp, “Còn làm gì nữa, dĩ nhiên là điều tra về Thanh minh thượng hà đồ rồi! Ông đưa Đại Tề thông bảo cho tôi mà chẳng nói rõ gì cả, làm tôi suýt nữa mắc bẫy Đới Hạc Hiên. Giờ là lúc ngàn cân treo sợi tóc, mấy lão tiền bối các vị có gì làm ơn nói thẳng ra, đừng vòng vo ám chỉ nữa được không!”
Nghe tôi trút giận, Hoàng Khắc Vũ lặng thinh, không hề mắng lại. Trong ống nghe vẳng lại một tiếng thở dài, rồi Hoàng Khắc Vũ chậm rãi nói, “Được lắm, oắt con nhà cậu đủ lông đủ cánh rồi, dám mắng cả tôi cơ đấy. Tôi kể cho cậu là được chứ gì.”
Thì ra đồng Đại Tề thông bảo này Hoàng Khắc Vũ mua được ở Thượng Hải từ những năm 50. Bấy giờ ông ta đi công cán đến Thượng Hải, đương bàn công chuyện trong một cửa hàng văn vật khu Hạp Bắc, tình cờ chứng kiến một cuộc thu mua. Một ông cụ đến cửa hàng văn vật bán đồ, đeo cặp kính đồi mồi tròn, mặc áo khoác ngắn màu đen, thoạt nhìn đã nhận ra là dân buôn đồ cổ. Đi cùng ông ta là một thanh niên gánh hai hòm gỗ lớn. Ông ta run rẩy đặt từng món đồ lên mặt quầy.
Hoàng Khắc Vũ đứng bên cạnh quan sát, hiểu rõ vì sao ông ta run tay. Những kẻ buôn bán cổ vật này nếu phải bán đi thứ mình trân quý thì còn đau đớn hơn cắt ruột. Nhưng cảnh ngộ bắt buộc, họ cũng không thể lựa chọn. Bấy giờ vừa giải phóng, toàn quốc đều đang cải tạo trên diện rộng, giới cổ ngoạn cũng không tránh nổi. Minh Nhãn Mai Hoa còn phải đổi thành Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, huống hồ những cửa tiệm nhỏ. Họ chỉ có hai lựa chọn, một là sát nhập vào cửa hàng văn vật, công tư hợp doanh; hai là bán đồ cho cửa hàng văn vật. Hiển nhiên ông ta đã chọn cái sau.
Hoàng Khắc Vũ liếc qua thấy những thứ ông ta đem đến không xoàng, nào bình gốm chắp màu giữa thời Minh, nào lư đồng nào Phật ngọc thời Thanh, nào ấn vuông thời Hán, mảnh ngói thời Tần, còn mấy bức tranh chữ, đủ các thể loại, mang ra chợ có thể được giá hời.
Phụ trách thu mua là một gã trai trẻ, ông cụ đặt từng món lên quầy thận trọng bao nhiêu thì hắn cẩu thả bấy nhiêu, tiện tay cầm lên xem lung tung cả. Ông lão bày hết một hòm ra, gã kia bèn cầm bút lên nói, mỗi món năm đồng, tổng cộng hai mươi món là một trăm đồng. Ông cụ cuống lên nói đồng chí không thể tính như thế được, văn vật đâu có giá ấy. Gã kia trợn mắt đáp quy định của chúng tôi ở đây là vậy. Ông cụ mở một cuộn tranh ra đánh xoạch, nói rằng đây là Khê biên đối đàm đồ của Tôn Khắc Hoằng, trước đây phải bán hơn tám mươi đồng bạc, rồi lại cầm một thỏi mực lên giới thiệu, đây là mực tùng do Tra Sĩ Tiêu chính tay đề chữ, chỉ riêng hai thứ này đã phải hơn hai trăm đồng bạc rồi.
Gã kia sốt ruột vung tay, “Đó là dưới xã hội cũ, toàn tính theo tiền mồ hôi xương máu của nhân dân bị bọn địa chủ phong kiến bóc lột cả. Giờ không theo lệ ấy nữa. Một món bốn tệ, ông còn dài dòng thì giảm xuống ba tệ, ông tự liệu đi.” Ông cụ tức điên giậm chân nói không bán nữa. Gã nụ cười nhạt, “Ông không bán cho cửa hàng văn vật thì còn bán được đi đâu? Giờ tôi sẽ gọi điện tới các cửa hàng khác, dặn họ cứ bán theo giá ấy. Xem xem ông đi nhanh hay tôi gọi điện nhanh.” Ông cụ giận quá, đứng trước cửa hàng khóc rống lên.
Hoàng Khắc Vũ ngứa mắt không chịu nổi bèn mắng cho tên kia một trận. Bấy giờ rất nhiều nhân viên ở cửa hàng văn vật đều là người của Minh Nhãn Mai Hoa, Hoàng Khắc Vũ đã lên tiếng, gã kia liền nín thin thít. Cuối cùng hai hòm văn vật của ông cụ cũng được tính một mức giá chấp nhận được. Ông cụ vô cùng biết ơn Hoàng Khắc Vũ, lấy trong ngực áo ra một túi lụa đỏ, bên trong có một đồng tiền.
Vừa thấy đồng tiền, Hoàng Khắc Vũ đã trợn tròn mắt nhận ra Đại Tề thông bảo khuyết góc trong truyền thuyết. Ông cụ đặt đồng tiền vào tay Hoàng Khắc Vũ nói đây là bảo vật trấn tiệm của chúng tôi, vẫn giấu kỹ đến nay. Giờ thế đạo thay đổi, giữ lại cũng vô dụng, anh là người biết hàng, hiểu được giá trị của nó, xin anh cứ giữ lấy, bảo quản nó cho tốt, đừng để uổng phí nó. Dứt lời ông cụ vịn tay thanh niên kia, liêu xiêu rời cửa hàng văn vật.
“Đó là tiệm đồ cổ nào?” Tôi hỏi.
Hoàng Khắc Vũ đáp, “Tôi không nhớ nữa. Nhưng cậu có thể hỏi thăm anh chàng kia.”
“Anh ta tên gì?”
“Tên Lưu Chiến Đấu, giờ là phó thư ký của Hiệp hội giám thưởng thư họa Thượng Hải, người phụ trách tại Thượng Hải của nhà họ Lưu.”
Tôi ngạc nhiên, không ngờ người như vậy cũng ở trong Minh Nhãn Mai Hoa, hơn nữa còn có địa vị cao thế. Đương định hỏi Hoàng Khắc Vũ thêm câu nữa thì ông ta nói rằng phải đi rồi vội cúp máy.
Tôi hơi do dự. Từ sau khi sự việc Thanh minh thượng hà đồ nổ ra, sản nghiệp của Minh Nhãn Mai Hoa trên khắp cả nước đều lao đao. Tất cả bọn họ đều cho rằng tôi chính là kẻ khơi mào ra mối họa lần này. Truyền thông càng tâng bốc tôi, họ lại càng căm hận. Lưu Nhất Minh hiểu điều đó nên mới bảo tôi đừng viện đến thế lực của Minh Nhãn Mai Hoa mà hãy âm thầm điều tra. Giờ nếu tôi tìm tới Lưu Chiến Đấu thì cũng ngang bằng tự tiết lộ hành tung.
Nhưng rồi tôi lại nghĩ, những phóng viên kia chắc chắn đã lên bài, nên thực ra tôi đã lộ rồi, còn trốn lánh gì nữa. Vào lúc cấp bách này, đâu thể đắn đo cân nhắc nhiều thế được.
Trong bưu điện có sẵn danh bạ, tôi dễ dàng tra được địa chỉ của Hiệp hội giám thưởng thư họa Thượng Hải, bèn đến đó ngay.
Hiệp hội giám thưởng thư họa Thượng Hải nằm trên đường Hoài Hải khu Hoàng Phố, là một ngôi nhà ba tầng kiểu Pháp, xanh trắng đan xen, trước đây là nhà riêng của một thương nhân người Anh, hai bên đường trồng đầy ngô đồng Pháp, phong cảnh khá đẹp. Tôi đến nơi, báo với người ở phòng Văn thư là tìm Lưu Chiến Đấu rồi lấy chứng nhận của cục Tám bộ Công an ra.
Có chứng nhận này đúng là tiện thật. Nhân viên văn thư vừa thấy mấy chữ thếp vàng nọ, lập tức chỉ cho tôi phòng làm việc của thư ký Đấu. Tôi đi tới gõ cửa, bên trong vọng ra tiếng mời vào. Tôi đẩy cửa bước vào, thấy cách bày biện rất giống phong cách căn biệt thự của Lưu Nhất Minh ở Tiểu Thang Sơn, đơn giản trang nhã, trên tường treo mấy bức thư pháp rồng bay phượng múa, lạc khoản đều là các lãnh đạo cao cấp. Bệ cửa sổ quay về phía mặt trời bày mười mấy chậu hoa. Một người đàn ông trung niên đang cầm kéo tỉa lá.
“Chào ông, tôi là Hứa Nguyện.” Tôi vào đề ngay.
Nghe cái tên này, người trung niên quay phắt lại. Đầu ông ta chải mượt, môi mỏng như hai lưỡi dao, mặt tròn xoe nhưng chẳng thấy một nếp nhăn, hẳn là phải giữ gìn chăm chút lắm. Ông ta đăm đăm quan sát tôi rồi ngồi xuống trước bàn làm việc, cất kéo vào ngăn tủ, cầm mảnh khăn lên lau kính, săm soi thêm hai phút nữa mới cười nhạt, “Tôi tưởng ai, hóa ra là người nổi tiếng. Cậu lại tìm thấy món hàng giả nào nên mới đến chỗ tôi đúng không?”
Nghe giọng điệu này, tôi cũng đủ hiểu thái độ của ông ta. Lúc tôi nằm tĩnh dưỡng ở bệnh viện 301, suýt nữa đã bị người của Minh Nhãn Mai Hoa xông vào dần cho một trận, lần này Lưu Chiến Đấu không đuổi tôi ra đã là tốt lắm rồi. Có điều cũng chẳng trách được, cả Hội lao đao vì tôi thế này, là tôi có lỗi với họ.
Tôi nén giận trình bày mong muốn của mình, nói rằng hy vọng có thể tra ra được tên ông cụ năm xưa hoặc địa chỉ cửa hiệu, tốt nhất là tìm được ông ta. Lưu Chiến Đấu sầm mặt hỏi, “Ông Hoàng sai cậu đến đây, định lôi chuyện cũ rích từ thời nảo thời nào ra làm nhục tôi à?” Tôi vội phân bua rằng mình không có ý đó, tôi đang điều tra một việc vô cùng quan trọng, rất cần đến thông tin kia.
Lưu Chiến Đấu mỉa mai, “Việc của cậu dĩ nhiên là quan trọng rồi, suýt nữa cậu đập vỡ nồi cơm của cả Minh Nhãn Mai Hoa kia mà. Nếu tôi giúp cậu, nhỡ đâu cậu lại viết cho bài báo, có phải chết tôi không.” Dứt lời ông ta ngả người ra lưng ghế, đặt hai tay lên bụng, “Xin lỗi, chuyện về cửa hàng văn vật đã mấy chục năm, tôi không nhớ nữa.”
Quả nhiên họ vô cùng cảnh giác tôi, chỉ sợ hở ra câu gì lại sinh chuyện. Tôi thầm thở dài, nói đây là việc cụ Lưu giao phó, liên quan tới an nguy của Minh Nhãn Mai Hoa, nếu ông không tin thì cứ hỏi cụ ấy.
Cứ ngỡ lôi tên Lưu Nhất Minh ra, ông ta sẽ phối hợp. Ngờ đâu Lưu Chiến Đấu nheo mắt, từ chối thẳng thừng, “Cậu định lôi ông cụ ra dọa tôi đấy à? Tôi nói cho mà biết, hồi trước ở cửa hàng văn vật, một ngày tôi phải xử lý mười mấy vụ thu mua, làm sao nhớ nổi mấy chuyện vặt vãnh ấy. Dù chính cụ Lưu đến đây hỏi, tôi cũng không nhớ được đâu.”
Tôi cạn lời. Nhớ ra hay không chỉ mình ông ta biết, người khác chẳng làm gì được. Thấy tôi bối rối, ông ta thoáng hả hê, rồi trở ra cửa, “Cậu đi đi, đừng nói là nhà họ Lưu chúng tôi chèn ép anh hùng đánh hàng giả nhà cậu nhé.”
Thấy Lưu Chiến Đấu chẳng nể nang gì, tôi đành rầu rĩ đi ra, thầm tính nếu không xong thì đành gọi điện cho cục trưởng Lưu vậy. Tay Lưu Chiến Đấu này có vẻ quan liêu, để cục trưởng Lưu ra mặt thì hơn.
Vừa rời cổng, tôi đã nghe máy nhắn tin kêu bíp bíp, vội mở ra xem, thấy một câu: “Đến tìm Lưu Chiến Đấu à?” Tôi ngẩng lên nhìn quanh, thấy người qua kẻ lại, ngô đồng xào xạc, chẳng có gì lạ. Nhưng tôi biết nhất định Dược Bất Nhiên đang lảng vảng đâu đó gần đây, âm thầm bám theo mình, chỉ sợ cảnh sát phái người mặc thường phục theo dõi tôi nên mới không ra mặt.
Ngay lập tức, tin nhắn thứ hai bay đến, “Mua một lạng quả dành dành, một gói trà đen, mười hạt sồi rồi quay lại.”