Thành Bình An nằm phía Đông Bắc Kinh, cách khoảng hơn hai trăm kilomet. Nơi này thuộc phía Tây Nam huyện Tuân Hóa, tiếp giáp với Ngọc Điền và huyện Kế. Hai đầu Nam Bắc đều là dãy Yến Sơn kéo dài, phía Đông là hồ Thúy Bình, ở giữa là đồng bằng màu mỡ, cũng coi như một vùng khá sung túc ở Trực Lệ. Chỉ cần nộp thóc thuế đúng hạn, nơi này sẽ bình yên qua ngày. Cái tên thành Bình An thực là chính xác.
Trưa hôm ấy, một cỗ xe ngựa bánh cao su bon bon chạy trên đường cái dẫn tới thành Bình An. Đôi ngựa kéo xe ngẩng cao đầu ngạo nghễ, hết sức oai vệ, tám chiếc vó nhịp nhàng dận xuống mặt đất vàng, phi như bay. Hai bên đường đều là nhà dân, chùa miếu và kênh mương từ thời Thanh, chưa nhuốm khói lửa chiến tranh nên có một vẻ nên thơ rất riêng.
Ghế đánh xe bên trái là Hoàng Khắc Vũ, bên phải là Phó Quý. Hoàng Khắc Vũ mặc áo chẽn đen như vệ sĩ, nhưng có vẻ bứt rứt căng thẳng. Trong khi đó Phó Quý liên tục nhìn sang hai bên cỗ xe, chừng như sát thủ có thể thình lình xông ra từ bất cứ bụi cỏ nào. Hai bên thắt lưng Phó Quý phồng lên, e rằng không chỉ đem một khẩu súng.
Hứa Nhất Thành ngồi trong xe, dựa lưng vào thành ghế, nhắm mắt dưỡng thần. Y đã cởi bỏ bộ đồ tây, thay sang áo lụa kiểu tàu, còn đeo một cặp kính râm tròn. Hai ngón cái y đeo hai chiếc nhẫn ngọc trong veo, tay vân vê hai hạt hạch đào tía, rất ra dáng một tay buôn đồ cổ mới phất.
Bộ đồ và xe ngựa đều do tông thất nhà Thanh tài trợ, để Hứa Nhất Thành cải trang thành một tay lái buôn xuống thôn quê tìm mua cổ vật, dĩ nhiên phải phô trương thanh thế. Đổi lại, Hứa Nhất Thành buộc phải đồng ý cho Hải Lan Châu đi theo.
Hải Lan Châu lúc này đang ngồi cạnh Hứa Nhất Thành, mặc một bộ đồ tân thời trắng tinh, đội mũ đính hoa cánh bướm cực lớn, vành mũ bằng ren che khuất quá nửa mặt, chỉ để lộ đôi môi anh đào xinh xắn, trông rất Tây. Cô tì cánh tay đeo găng mảnh dẻ lên bậu cửa sổ, hờ hững chống cằm nhìn ra ngoài, thỉnh thoảng lại ồ lên kinh ngạc.
Hứa Nhất Thành biết tông thất nhà Thanh nhất định sẽ phái người đi cùng để giám sát, song không ngờ lại là Hải Lan Châu. Thành Bình An vốn không yên ổn, Vương Thiệu Nghĩa tàn độc xảo trá, lỡ có biến, Hải Lan Châu chân yếu tay mềm, chẳng rõ sẽ gặp phải chuyện gì. Dục Phương phải hết lời bảo đảm rằng Hải Lan Châu sẽ tự lo cho mình, Hứa Nhất Thành mới miễn cưỡng đồng ý.
Nhìn Hải Lan Châu ăn mặc như đi chơi, Hứa Nhất Thành chợt thấy tò mò, không hiểu cô nàng này tháo vát đến nhường nào mà được tông thất tin tưởng làm vậy. Có điều y không hỏi ra miệng, mà nhìn lảng đi rồi nhắm mắt dưỡng thần. Hiện giờ y phải tập trung toàn bộ tinh lực để đối phó với Vương Thiệu Nghĩa, không hơi đâu quan tâm những việc khác.
Để ý thấy thay đổi nhỏ này, Hải Lan Châu bèn đổi sang một tư thế tao nhã hơn, còn khẽ ngáp duyên. Không khí trong xe êm ả mà gượng gạo.
Chuyến này đến thành Bình An, ngoài Hải Lan Châu, Hứa Nhất Thành còn định dẫn theo ba người: Phó Quý, Hoàng Khắc Vũ, Lưu Nhất Minh. Nhưng vụ nổ súng thình lình chen ngang khiến Hứa Nhất Thành buộc phải để Lưu Nhất Minh ở lại kinh thành lo việc khác.
Phó Quý hỏi y đến thành Bình An rồi định thế nào, Hứa Nhất Thành chỉ đáp gọn lỏn hai chữ: làm lợi.
Vương Thiệu Nghĩa được gọi là Gia Cát ác, chứng tỏ hắn rất thông minh, mà cách tư duy của người thông minh có thể dự đoán được, chỉ có suy nghĩ của kẻ điên mới khó lường. Vương Thiệu Nghĩa tàn độc tới đâu cũng vẫn hành động xoay quanh lợi ích, chỉ cần để hắn thấy có lợi thì bọn họ sẽ được an toàn.
Còn về phần làm sao để Vương Thiệu Nghĩa thấy có lợi, thì phải trông vào Hứa Nhất Thành.
Xe ngựa chẳng mấy chốc đã tới trước cổng thành Bình An, có hai tên lính mặc quân phục Phụng Thiên đứng gác. Cánh quân của Mã Phúc Điền, Vương Thiệu Nghĩa trên danh nghĩa đang nằm dưới quyền Nhạc Triệu Lân quản lý, nên có nơi đóng quân cố định. Tréo ngoe ở chỗ, lính Phụng Thiên tại đây còn tử tế hơn quân Phụng Thiên chính quy trong thành Bắc Kinh. Nghe nói Hứa Nhất Thành đến thu mua cổ vật, lính gác chỉ kiểm tra qua quýt rồi cho vào luôn. Chỉ hiềm, ánh mắt chúng cứ hau háu nhìn Hải Lan Châu. Phó Quý phải trừng mắt mấy lần, chúng mới chịu thôi.
Thành Bình An vô cùng tấp nập, cửa hàng, quán cơm, hiệu bạc, tiệm tạp hóa cái gì cũng có, thậm chí còn thấy cả một rạp hát, tuy không phồn hoa bằng kinh thành, song những gì cần có đều đầy đủ cả. Hải Lan Châu từ trong xe nhìn ra, bất giác trầm trồ, “Tôi cứ tưởng ổ giặc cướp phải bẩn thỉu hỗn loạn lắm, không ngờ cũng chẳng khác gì thị trấn bình thường.”
“Thỏ không ăn cỏ gần hang, ai chẳng muốn sống tiện nghi thoải mái.” Hứa Nhất Thành bình phẩm ngắn gọn. Chớ thấy cảnh tượng yên bình mà lầm, toán giặc cướp này hung tàn nhất vùng Trực Lệ, những kẻ coi thường chúng đều đã chết cả, hơn nữa còn chết rất thê thảm.
“Đã nguy hiểm như vậy, sao anh còn nhúng vào?” Hải Lan Châu chợt hỏi, đây là lần thứ hai cô hỏi câu này.
Lần này ngồi trong khoang xe chật hẹp, Hứa Nhất Thành chẳng trốn đi đâu được. Y trầm ngâm giây lát rồi đáp khẽ, “Tôi muốn trả thù cho một người bạn, nhưng không chỉ có thế.”
Hải Lan Châu hơi nghiêng đầu tỏ vẻ khó hiểu, đợi y giải thích thêm. Nhưng Hứa Nhất Thành không nói gì nữa. Y không muốn nhiều lời với người trong tông thất, bởi ghét vẻ trịch thượng của họ. Hải Lan Châu cũng cảm nhận được thái độ bài xích của y, liền tủm tỉm cười, “Tôi biết anh vẫn nghi ngại, nhưng tôi không giống bọn họ, tôi chỉ thương cha tôi. Đông lăng bị trộm, ông ấy là người đau đớn nhất, đêm không ngủ ngon giấc. Tôi đi với anh chẳng qua là để trọn chữ hiếu với cha, đích thân giúp ông gỡ mối phiền não này.”
A Hòa Hiên đã luống tuổi, gác lăng từ thời trẻ đến tận bây giờ, vậy mà sự nghiệp cả đời đột nhiên bị phủ định, khiến ông khó tránh khỏi chịu đả kích. Hứa Nhất Thành gật đầu vẻ thấu hiểu, với tay vén mành xe nhìn ra ngoài rồi chợt thở dài, “Đông lăng bị trộm, cha cô đau khổ, tông thất lo lắng, nhưng những kẻ khác thì chưa chắc.”
“Ồ? Tại sao vậy?” Hải Lan Châu thắc mắc.
“Cô không biết bây giờ Trung Quốc hỗn loạn đến độ nào đâu. Khắp nơi điên cuồng đào bới mộ cổ, lấy đồ tùy táng đem bán, rất nhiều tay buôn đồ cổ tự bỏ tiền ra thuê đám trộm cắp quật mồ, còn mình đợi bên trên, chuyển từng rương đồ ra ngoài, thứ gì không chuyển được thì phá hủy. Ai nấy hăng say đào xới đến đỏ cả mắt, ngay đất báu như Đông lăng, chỉ cần có kẻ dám cắn miếng đầu tiên, những tên khác sẽ xúm lại như sói đói, gặm sạch không còn một mảnh.”
Hải Lan Châu trợn tròn mắt, cô mới du học trở về, không biết trong nước lại rối loạn tới mức này.
Hứa Nhất Thành siết chặt tay vịn, giọng có phần kích động, “Thầy Lý Tế tôi mở khoa Khảo cổ điền dã ở Thanh Hoa là muốn thay đổi thực trạng này, đưa nó vào quỹ đạo học thuật chính quy. Buôn bán cổ vật suy cho cùng chỉ vì cái lợi riêng, khảo cổ mới thực là nghĩ cho lợi ích chung. Cô du học ở Anh, hẳn cũng biết thế giới văn minh trân trọng và bảo tồn di sản văn hóa thế nào rồi. Nếu Trung Quốc cứ loạn lạc thế này, e rằng văn vật sẽ bị trộm cắp sạch, lòng người tan tác hết, đến gốc rễ cũng bị đánh cắp mất.”
Hải Lan Châu đột ngột hỏi, “Nói vậy thì, nếu vụ trộm Đông lăng không liên quan tới người bạn của anh, anh vẫn sẽ giúp đỡ điều tra ư?”
“Phải!” Hứa Nhất Thành đáp không mảy may do dự, “Đây không chỉ là vấn đề của một người hay của riêng tông thất, mà là mối nguy với toàn bộ lịch sử Trung Quốc. Tôi chỉ sợ một khi kẽ hở hôi của Đông lăng mở ra, đám trộm mộ sẽ thỏa sức cướp bóc, không sao cứu vãn nổi nữa. Sau Đông lăng sẽ đến Tây lăng, sau Tây lăng còn có Minh lăng; Hà Nam có Tống lăng, Thiểm Tây có Đường lăng, Hán lăng. Nghĩ mà xem, nếu các lăng mộ này đều bị khoắng sạch thì đất nước này còn gì đây? Bất luận thế nào cũng không thể để việc như vậy xảy ra được!” Nói tới đây, giọng y run lên.
Hải Lan Châu sững sờ nhìn Hứa Nhất Thành. Trong ấn tượng của cô, Hứa Nhất Thành luôn mỉm cười bình thản, thực không ngờ y cũng có lúc kích động như vậy. Lịch sử Trung Quốc ư… Hải Lan Châu đăm đăm nhìn gương mặt đau xót sau lớp kính đen, cứ ngỡ Hứa Nhất Thành chỉ là một chuyên gia giám định cao tay, chẳng ngờ y còn ôm lý tưởng lớn như vậy.
Hứa Nhất Thành đeo lại kính cho ngay ngắn, khôi phục dáng vẻ con buôn, chỉ có giọng nói vẫn sang sảng, “Thế nên về công hay tư, tôi cũng phải điều tra đến cùng. Điểm này thì cô Hải Lan Châu cứ yên tâm.”
Hải Lan Châu tháo găng tay ren, chìa bàn tay ra trước mặt Hứa Nhất Thành, nhoẻn cười. “Anh đã đích thân đến thành Bình An, tôi còn gì không yên tâm chứ. Có điều xem như cũng hiểu được suy nghĩ của anh, hiện giờ chúng ta đang đứng trên cùng một chiến tuyến, vậy là đủ rồi.” Cô đột ngột đổi giọng, thái độ thân thiết hẳn, Hứa Nhất Thành cũng chẳng so đo, bèn chìa tay ra, đôi bên hào sảng bắt tay nhau.
Hải Lan Châu thấy tay y ấm sực, tiếc rằng vừa siết chặt đã thả ra ngay, cô không có cơ hội cảm nhận thêm.
Cuối cùng xe ngựa cũng đỗ lại trước quán trọ lớn nhất trong thành. Hứa Nhất Thành vừa xuống xe đã nhập vai theo kế hoạch, vung tiền đặt ngay ba gian phòng đẹp nhất. Thấy y rộng rãi, hiển nhiên chủ quán trọ cũng tươi cười niềm nở, phục vụ chu đáo. Nhận phòng xong xuôi, Hứa Nhất Thành xua tên bồi đi, gọi ba người kia vào phòng rồi trình bày đại khái kế hoạch của mình.
Trước đây qua điều tra, họ đã xác định trong số những đồ bồi táng bị trộm, mới chỉ có khánh đồng thếp vàng và chuỗi tràng hạt hổ phách được tuồn ra thị trường, phần lớn các món còn lại chắc chắn vẫn nằm trong tay đám trộm mộ. Rất nhiều kẻ sau khi quật mộ còn om hàng dăm ba năm, đợi sóng yên biển lặng mới đem ra bán, nhưng hai tên này thì đừng hòng. Dưới tay chúng còn một hai nghìn binh mã, hằng ngày phải mất một khoản tiền lớn để nuôi quân. Với đám quân phiệt, chẳng có gì hấp dẫn hơn bạc trắng cả. Nếu Vương Thiệu Nghĩa tham gia vụ trộm Đông lăng, hẳn giờ chúng đang nôn nóng tẩu tán đống đồ kia để sung vào quân lương.
Nhưng buôn bán cổ vật lại có lề lối riêng của nó. Những tang vật này quá nhạy cảm, nếu khơi khơi mang vào tiệm bán, khoan nói tới chuyện bị ép giá, chưa chừng còn bị trói lại đưa lên quan. Nên Vương Thiệu Nghĩa không thể tự thân đi bán mà phải tìm một tay buôn đồ cổ đáng tin cậy, thay hắn âm thầm thủ tiêu tang vật.
Đây là lý do Hứa Nhất Thành cải trang thành một lái buôn đi thu mua cổ vật. Chỉ cần chiếm được lòng tin của Vương Thiệu Nghĩa, thay hắn thủ tiêu tang vật, sẽ biết đám đồ tùy táng ấy đang ở đâu, vậy là chuyến đi tới thành Bình An này thành công rực rỡ.
Những người khác không có ý kiến gì trước kế hoạch này. Hứa Nhất Thành bảo Hoàng Khắc Vũ đi tìm chủ quán trọ, nhờ đem bày một con cóc vàng bằng đồng.
Lái buôn thu mua đồ cổ chia làm hai loại. Một là tự đi xuống nông thôn, tha thẩn khắp nơi tìm kiếm, gọi là “lần tràng hạt”, ý chỉ phải lần từng hạt từng hạt, rất vất vả, nhưng dễ kiếm được đồ tốt, lại mua được với giá hời; còn một loại khác gọi là “đợi thỏ”, thường bày một con cóc vàng trên đầu đặt chồng tiền xu ở nơi đông đúc nhất, tin tức nhanh nhạy nhất khu vực, ví như quán trọ. Làm thế có nghĩa thông báo với dân bản xứ rằng tôi tới tìm mua hàng, trong nhà có thứ gì quý giá có thể đem đến quán trọ mua bán trao tay luôn, ôm cây đợi thỏ.
Hai loại này khác biệt rất nhỏ. Những vựa đồ cổ như Hà Nam, Thiểm Tây, lái buôn thông thường đều lần tràng hạt, tìm lần lượt từng chỗ, bởi có nhiều hàng tốt. Còn đợi thỏ thông thường là ngang qua những nơi không có nhiều di tích cổ cho lắm, lạ nước lạ cái, lại chưa chắc đã kiếm được hàng tốt, bèn công khai rao để người ta tự tới tận cửa.
Hứa Nhất Thành bày cóc vàng ra đồng nghĩa với giăng một bản thông báo, loan tin tới tất cả dân chúng trong thành Bình An, kể cả Vương Thiệu Nghĩa rằng: tôi đi qua đất báu, tiện thể thu mua cổ vật, ai muốn bán xin cứ liên hệ.
Lát sau Hoàng Khắc Vũ trở về, vẻ mặt là lạ, Hứa Nhất Thành hỏi thế nào rồi, Hoàng Khắc Vũ đáp trên tủ quầy đã bày tận ba con cóc vàng. Cũng có nghĩa là đã có ba tay buôn cổ vật nữa đến thành Bình An, đều định đợi thỏ.
Quanh thành Bình An chẳng có di tích gì, từ xưa đến nay cũng chẳng phải đô thành lớn, rất hiếm lái buôn tìm đến đây. Lần này lại mọc ra tận bốn người, quả là quái lạ.
Hứa Nhất Thành ngả người ra chiếc ghế mây, gõ nhẹ lên đầu gối nói, mấy người kia có lẽ cũng nghe loáng thoáng được chuyện Đông lăng nên chạy đến đây gom hàng, tốt thôi, chỉ cần có người câu được hàng trong tay Vương Thiệu Nghĩa ra là thành công rồi.
“Tôi ra ngoài dạo quanh một vòng đã.” Phó Quý nói, rồi chẳng đợi Hứa Nhất Thành phản ứng đã xoay người đi luôn. Hứa Nhất Thành và Phó Quý vốn ăn ý, chẳng cần nhiều lời, chỉ dặn với theo một câu cẩn thận. Phó Quý không hiểu về đồ cổ, chỉ phụ trách bảo vệ an toàn cho mọi người nên phải ra ngoài xem xét địa hình thành Bình An trước.
Hải Lan Châu đứng dậy mở cửa sổ nhìn ra, gian phòng này nằm ở tầng hai, quay mặt ra đường, trông thẳng xuống con phố lớn duy nhất trong thành. Cô cởi mũ ra, mở cúc cổ cho đỡ bức bí. Hoàng Khắc Vũ thấy thế đỏ bừng mặt, quay người toan rời khỏi phòng, song Hứa Nhất Thành lại quát khẽ, “Khắc Vũ, đừng đi lại lung tung, đối diện có người kìa.” Hoàng Khắc Vũ giật mình, nhưng kịp thời phản ứng được ngay. Cậu liếc thấy một bóng người nhoáng qua cửa sổ căn nhà đối diện quán trọ. Có lẽ Hải Lan Châu vừa bước vào phòng đã nhận ra, nên mới cố ý thả lỏng để người khác thấy mà lơ là cảnh giác.
Cô gái này thực không đơn giản chút nào. Hứa Nhất Thành nghĩ bụng rồi vắt tréo chân, giở báo ra thong dong đọc. Hải Lan Châu ngồi ghé vào mép giường, lấy trong túi ra một chiếc bấm móng tay nhỏ, bắt đầu cắt móng. Chỉ có Hoàng Khắc Vũ lúng túng, đứng không được ngồi cũng không xong, nghĩ lại thì thân phận cậu là vệ sĩ, đứng dựa tường là được.
Chẳng mấy chốc, có tên bồi gõ cửa phòng, cung kính thông báo, “Thưa ông Hứa, bên dưới có người tìm ông.”
Ba người đưa mắt nhìn nhau, không ngờ nhanh như vậy đã có kẻ đưa hàng tới. Song nghĩ kỹ lại thì thành Bình An bé bằng bàn tay, hễ có động tĩnh gì, cả thành sẽ biết ngay.
“Khắc Vũ ở lại trông hành lý, còn cô Hải Lan Châu theo tôi.” Hứa Nhất Thành cắt đặt. Hải Lan Châu cười tươi như hoa, “Anh đừng khách sáo gọi cả tên thế, người ta nghi đấy. Cứ gọi tôi là Anne, đây là tên tôi dùng lúc ở Anh.” Hứa Nhất Thành gật đầu tỏ ý đã hiểu.
Nhân lúc đi xuống, Hải Lan Châu tò mò hỏi, “Sao anh lại bảo tôi đi cùng, để Khắc Vũ lại trông phòng?” Cô biết rõ Hứa Nhất Thành vẫn cảnh giác với mình.
Hứa Nhất Thành đáp, “Thời Thanh, ở Quan Đông có tục, thấy ai dắt lạc đà là biết đi bán thuốc. Bởi người Quan Đông chưa bao giờ thấy lạc đà, không biết chúng rất hiền. Thấy người bán thuốc thuần phục được con vật lớn như vậy nghe lời răm rắp, dân chúng ngỡ hắn phải giỏi lắm, thuốc hắn bán chắc chắn có tác dụng.”
Hải Lan Châu ngẩn người, rồi chợt vỡ lẽ Hứa Nhất Thành đang ví mình với lạc đà. Cô cười tít mắt sán đến, “Thế thì tôi làm lạc đà của anh vậy, anh muốn tôi răm rắp thế nào nào?” Lần này đến lượt Hứa Nhất Thành bối rối, vội sải bước đi thật nhanh. Thấy y lúng túng, Hải Lan Châu che miệng cười khúc khích.
Hai người xuống đến nơi, từ xa đã thấy một lão nông dân đứng trước tủ quầy. Lão đội nón lá, da ngăm đen, cặp mắt sụp xuống dưới tầng tầng lớp lớp nếp nhăn, chỉ còn thấy như một đường chỉ, trước cửa còn chềnh ềnh một gánh phân, tuy đã khô nhưng vẫn bốc mùi thối hoăng hoắc.
Thấy tên bồi gọi lại, lão ta vội khom lưng cúi đầu nói, nghe trên phố kháo có khách thương đến thu mua đồ cổ nên đem tới bán. Hứa Nhất Thành đang đóng vai lái buôn đồ cổ, phải tỏ ra lớn lối, bèn vênh mặt lên xẵng giọng hỏi, ông thì có cái gì?
Ông lão chà mạnh tay vào vạt áo rồi lấy ra một cái gối gốm lủng lẳng cạnh quang gánh. Gối này tạo hình đứa bé mũm mĩm nằm ngửa, hai cánh tay mập mạp cầm phiến lá sen. Phiến lá sen hết sức tinh xảo, thấy rõ cả gân lá cuống lá. Có điều sắc gốm khá nhạt, - hẳn là phủ bụi đã lâu, tuy được cọ qua, nhưng không bóng nổi.
Hứa Nhất Thành đón lấy xem xét, ông lão cũng căng thẳng, rướn cổ nhòm. Hải Lan Châu trừng mắt lườm, lão ta mới cười ngượng, lùi lại mấy bước, sợ chạm vào làm bẩn váy cô. Hứa Nhất Thành săm soi một hồi, còn búng ngón tay vào gối mấy cái nghe tiếng trầm đục.
Gối gốm cũng được liệt vào hàng đồ gốm, nhưng không đáng bao nhiêu tiền. Từ thời Tùy Đường mới có, tới thời Tống thì tràn lan khắp nơi, phần lớn bắt nguồn từ lò gốm dân gian, thôi thì đủ hình đủ vẻ, đủ mọi nguồn gốc, hơn nữa khi chôn cất nhất định phải chôn theo, để người chết gối đầu. Thế nên thứ này phần lớn là trộm mộ đào lên, rất hiếm thấy đồ gia truyền.
Hứa Nhất Thành hỏi ông lão lấy được thứ này từ đâu, lão đáp đầu năm nay cuốc đất đào được, từ bấy đến giờ vẫn để ở nhà chèn vại dưa. Có người nói đây là của báu, vừa rồi lại nghe có lái buôn đến thu mua, nên lão cầm tới thử vận may.
Hứa Nhất Thành xem xét một lượt, cũng đã nắm được đại khái.
Gối gốm chia làm hai loại là gối sống để người sống gối và gối xác, cũng gọi là gối thọ hoặc gối âm, để người chết dùng. Hai thứ này khác nhau ở chỗ, gối sống thì đơn giản tiện dụng, bởi người ta dùng để gối thật, còn gối thọ cứng và hoa lệ, bởi người chết không sợ cấn đầu. Đây rõ ràng là gối xác, có lẽ là gốm Định thời Tống. Màu phôi trắng ngả vàng, men loang lổ như lệ nến, ở góc còn thấy lờ mờ hoa văn bàn chải tre. Món đồ này rất khó định giá, nói đáng tiền thì gối gốm chẳng bán được bao nhiêu, nhưng bảo không đáng thì lại là gốm Định thời Tống.
Ông lão chờ mãi sốt ruột, luôn miệng hỏi món này bao nhiêu tiền. Hứa Nhất Thành trầm ngâm giây lát rồi nhíu mày trả lại, đáp rằng thứ này vừa thô vừa nặng, lại chẳng lấy gì làm tinh xảo, chẳng qua kiểu dáng cũng dễ coi, trả ông hai đồng đại dương. Ông lão cò kè trả thêm được không, Hứa Nhất Thành cười nhạt đáp, “Trong khách sạn còn người khác cũng thu mua đấy, ông hỏi thử xem họ trả bao nhiêu?” Đoạn bồi thêm một câu, “Ông đã hỏi người khác thì đừng hối hận nhé.”
Món này trên thị trường ít nhất cũng phải năm trăm đồng đại dương. Nếu là tay buôn cổ vật đích thực thì phải ra sức chê bai dìm giá, để người bán thấy không đáng tiền, mới ăn chênh lệch được nhiều.
“Có người chê thì để tôi xem nào?”
Đang nói thì phía sau quán trọ có người đi ra. Là một tay trung niên dáng hơi đậm, mày rậm, ăn mặc tương tự Hứa Nhất Thành, trước ngực còn đeo đồng hồ quả quýt vàng lủng lẳng. Thì ra tên bồi không chỉ gọi mình Hứa Nhất Thành, mà còn kêu cả một người đợi thỏ khác xuống nữa.
Kẻ kia đi đến, Hứa Nhất Thành gật đầu chào rồi chìa gối ra, “Ông cũng xem qua món này đi?” Hàm ý rằng tôi đã xem rồi, hơn nữa còn trả giá thấp. Nếu không phải thứ quá quý giá thì đối phương thường sẽ thoái thác, bởi chẳng đáng đắc tội với người khác vì món tiền nhỏ ấy.
Nhưng kẻ kia lại giơ tay nhận lấy, săm soi mấy lượt, còn áng chừng trọng lượng rồi hỏi ông lão mấy câu y hệt Hứa Nhất Thành. Ông lão không dám tỏ ra sốt ruột, thực thà có sao đáp nấy. Tay buôn cổ vật nọ nhìn Hứa Nhất Thành rồi nói, “Tôi tăng thêm một đồng đại dương, để lại cho tôi đi.”
Hứa Nhất Thành làm bộ bất mãn phản đối. “Này ông bạn, phải có thứ tự trước sau chứ, tôi đã ra giá rồi, ông tự nhiên lại chen vào, phá lệ thế là sao?”
Ngờ đâu kẻ kia cũng chẳng thiết tha, giơ tay nói luôn, “Được rồi tôi không giành đâu, anh cứ mua đi,” rồi quay người bỏ đi.
Song Hứa Nhất Thành không chịu buông tha, “Vừa rồi tôi đã ra giá hai đồng đại dương, ông vừa chen vào đã tăng thêm một đồng, giờ lại bảo không mua nữa là sao hả? Cố tình chọc tức tôi à?”
Kẻ kia cáu kỉnh gắt, “Sao anh vô lý thế, hỏi mua cũng là phá lệ, không mua cũng phá lệ à?”
Ông lão nơm nớp lại gần, giơ ba ngón tay ra, “Vậy ba đồng đi, được không?” Cặp mắt đùng đục của lão ta sáng hẳn lên vì tiền, rõ cái vẻ khôn vặt.
Hứa Nhất Thành cau có, “Vừa nãy đã nói là hai đồng, chỉ đáng bằng ấy thôi. Có giỏi thì bán cho ông ta đi.”
Ông lão do dự ra mặt, vừa muốn kiếm thêm đồng bạc lại sợ vuột mất cơ hội, tiến thoái lưỡng nan.
Tay lái buôn kia chẳng buồn cãi cọ với họ, bèn nói, “Được rồi, ba đồng tôi mua, ông đưa đây.” Dứt lời lấy trong túi ra ba đồng bạc trắng lấp loáng, ném cho ông lão, trừng mắt nhìn Hứa Nhất Thành rồi vơ cái gối định lên tầng.
Đột nhiên ông lão nói lớn, “Tôi còn thứ này nữa, ông muốn xem không?” Tay lái buôn kia ngoái lại, nhếch môi định chửi lão ta, nhưng vừa há miệng ra đã thấy ông lão cầm trong tay một khẩu súng lục, họng súng đen ngòm chĩa thẳng vào mình.
“Đợi đã, tôi…” Tay lái buôn chưa kịp nói hết câu đã nghe tiếng đoàng, đầu gối phải tóe máu, ngã nhào từ trên cầu thang xuống, la lên thảm thiết.
Lão nông dân hấp háy mắt, cố tách đống nếp nhăn chồng chéo kia ra. Vẻ mặt tham lam của lão tức thì biến mất, thay vào đó là cặp mắt tàn độc lạnh lùng. Lão chậm rãi đi đến, thấy tay lái buôn ôm chân rên rỉ thì lại giơ súng lên, bồi thêm một phát vào vai gã. Lần này bắn ở cự ly gần, hơn nửa bờ vai nát bét, tay lái buôn rú lên, nằm co quắp dưới đất, run lẩy bẩy. Hải Lan Châu cũng ré lên, nấp sau lưng Hứa Nhất Thành.
Lão nông dân cúi xuống thăm dò hơi thở của gã rồi bảo ông chủ quán trọ, “Khiêng nó xuống đi, đừng để chết, không có chuyện dễ thế đâu.” Vừa nói vừa nhếch miệng cười. Thực ra ngay phát súng đầu tiên, lão đã bắn cho người kia tàn phế, phát thứ hai chỉ để nghe tiếng rên la thảm thiết cho sướng tai mà thôi.
Mấy tay bồi xúm lại ba chân bốn cẳng khiêng lái buôn kia đi, máu nhỏ tong tỏng suốt dọc đường. Trừ Hứa Nhất Thành và Hải Lan Châu, những người khác vẫn thản nhiên, cứ như đây là chuyện cơm bữa.
Lão nông dân lăm lăm súng đi đến trước mặt Hứa Nhất Thành, quan sát y từ đầu đến chân, gấu quần còn vương vệt máu bắn ra. Hải Lan Châu cúi gằm mặt, giữ chặt tay Hứa Nhất Thành, vai run lên.
Hứa Nhất Thành giằng tay cô ra mắng, “Đúng là đồ đàn bà ngu ngốc!” Đoạn rút bao thuốc lá Mỹ Nhân trong túi ra, đưa mời lão nông dân một điếu.
Lão cũng chẳng khách sáo, ngậm điếu thuốc rít mấy hơi rồi gật đầu khen, “Xịn đấy.” Lão thong dong hút, Hứa Nhất Thành đứng yên đợi, không nói năng gì.
Hút được nửa điếu lão mới hỏi, “Có biết vì sao tao xử nó mà không xử mày không?”
Hứa Nhất Thành đáp, “Biết chứ, ông ta không xịn.”
Lão nhướng mày, “Nghe hay đấy, sao lại không xịn?”
Hứa Nhất Thành trả lời, “Tôi đang xem hàng của ngài, đã ra giá rồi, ông ta lại đẩy lên, đó là bất nghĩa; đẩy giá lên rồi, tôi nói lý ông ta lại thôi không mua nữa, đó là bất tín; cuối cùng ngài nài thêm, ông ta không thừa cơ ép giá, trái lại còn ném tiền ra rồi đi luôn, đó là bất trí. Người thu mua cổ vật thật chẳng ai làm thế, kẻ này làm gì cũng sai, rõ ràng không phải dân trong nghề, không để tâm vào việc mua bán.”
“Thế mày bảo nó để tâm vào cái gì?”
“Chuyện đó thì tôi không rõ.” Hứa Nhất Thành lại mời điếu khác.
Lão nông dân liếc xéo Hứa Nhất Thành, không nhận thuốc mà tóm lấy cổ tay y. Hứa Nhất Thành tái mặt, song không dám vùng ra. Chỉ nghe lão cười khà nói, “Tay nó toàn vết chai dày cộp, thoạt trông đã biết là lính chuyên cầm súng, tưởng đeo cái đồng hồ quả quýt vào là thành người nho nhã được à? Đâu như tay mày thanh mảnh mềm mại thế này, mới giống người vọc đồ gốm sứ thư họa.”
Hứa Nhất Thành rút tay lại cười cầu tài, “Ngài quá khen rồi.”
Lão nông dân thình lình trợn mắt, giọng đanh lại, “Nhưng thành Bình An chó ăn đá gà ăn sỏi, đám thu mua cổ vật cả năm chẳng thèm bén mảng. Mày tới đây đợi thỏ, có phải cũng không để tâm vào chuyện này không?” Lão cố ý kéo dài giọng, nhìn Hứa Nhất Thành, chỉ cần y nói sai một câu, lão cũng chẳng tiếc gì một viên đạn.
Hứa Nhất Thành cười đáp, “Tôi đến đây dĩ nhiên là vì tiền rồi. Nhưng việc có thành được hay không, không phải do tôi, mà phải xem ngài có tác thành cho không?”
Lão nhướng mày, nhếch miệng cười hỏi, “Tao quê kệch thế này, tác thành cái gì?”
Hứa Nhất Thành nói thẳng, “Đến nước này rồi mà không nhận ra ngài là ai thì tôi nên đập bảng hiệu đi là vừa, ngài bảo có phải không, trung đoàn phó Vương?”
Lão nông dân cười ha hả, ném súng cho chủ quán trọ cạnh đó rồi vỗ vai Hứa Nhất Thành, vẻ tán thưởng, “Thằng này được đấy.” Đây hiển nhiên là Vương Thiệu Nghĩa, hiệu xưng Gia Cát ác. Lão gần như không có bức ảnh nào lọt ra ngoài, Phó Quý ở Sở Cảnh sát cũng chỉ tìm được mấy bản lời khai mâu thuẫn lẫn nhau, tới giờ Hứa Nhất Thành mới biết lão nông dân thấp bé gầy quắt này là Vương Thiệu Nghĩa, thực ngoài sức tưởng tượng.
Vương Thiệu Nghĩa nói, “Đừng trách tao tiếp đãi không được chu đáo, thời gian này quá nhiều gian tế mò tới thành Bình An nghe ngóng tin tức, tao không thể không đề phòng. Tao chẳng tin được ai cả, đành phải tự mình đi kiểm tra.” Đoạn lão nghiến răng hàm ken két, vẻ vẫn chưa hết giận.
Hứa Nhất Thành nhìn cái gối gốm, “Ngài chọn món này thực là vừa khéo, không đắt không rẻ, độ khó vừa phải, thử là biết có phải người trong nghề không.”
“Hê, thế nên đám lái buôn lớ ngớ nhất định là gian tế, dù không phải cũng là hạng không thạo nghề, chết chẳng oan.” Vương Thiệu Nghĩa ngang nhiên nói.
Tên Vương Thiệu Nghĩa này quả là cảnh giác, ngay một tên lái buôn cổ vật đến trọ, lão cũng phải đích thân gánh phân tới thăm dò. May sao Hứa Nhất Thành là người trong nghề, bằng không chỉ cần lơ là một thoáng, sẽ để lộ sơ hở giống tay thám tử chẳng rõ được ai phái đến kia, không biết còn bị giày vò dở sống dở chết thế nào.
Hứa Nhất Thành nghĩ bụng rồi khum tay vái Vương Thiệu Nghĩa, “Lần này tôi tới thành Bình An là vì nghe loáng thoáng trung đoàn phó Vương đang có hàng muốn bán. Tiếc rằng không biết cách nào móc nối tới ngài, đành học theo Khương Thái Công ngồi chờ ở đây.” Vừa rồi tiếp xúc, y đã biết Vương Thiệu Nghĩa xảo trá đa nghi, thay vì để lão nghi ngờ, chi bằng tự khai nhận trước.
Vương Thiệu Nghĩa thản nhiên đáp, “Bọn tao đường đường là lính Phụng Thiên, giữ chức trách bảo vệ dân chúng chứ nào phải dân buôn bán, lấy đâu ra hàng? Mày nghe ở đâu ra đấy?”
Hứa Nhất Thành đáp, “Dục Bành.”
Vương Thiệu Nghĩa cười nửa miệng, “Nó ấy à, lúc nào rảnh tao phải vào kinh tìm nó hàn huyên mới được.”
Hứa Nhất Thành cũng cười theo, “Chưa chắc ngài đã gặp được đâu, tôi nghe nói Dục Bành bị tông thất bắt rồi, giờ chẳng biết ở đâu nữa.” Ngầm ý bảo Vương Thiệu Nghĩa, việc lão trộm Đông lăng đã bị tông thất biết rồi. Nói thế này là âm thầm gây áp lực.
Vương Thiệu Nghĩa “ừm” một tiếng, vẻ không mấy quan tâm, lại hỏi, “Gần đây tình hình Bắc Kinh thế nào?”
Hứa Nhất Thành lắc đầu, vẻ lo lắng, “Loạn lạc lắm, mỗi ngày một phách. Lúc thì nói tướng Trương sắp chuồn rồi, lúc thì bảo quân phía Nam đã đánh đến ngoại ô, lúc lại kêu chuẩn bị đàm phán hòa bình, chẳng ai biết chắc được cả.”
Vương Thiệu Nghĩa vặn, “Loạn lạc như thế mà mày còn bụng dạ đi thu mua đồ cổ à?”
“Thời loạn mua cổ vật, thời bình bán cổ vật, bọn tôi vốn kiếm tiền theo cách ấy mà.” Hứa Nhất Thành cười nói thẳng.
Vương Thiệu Nghĩa ngẩn người, không ngờ kẻ này lại thực dụng đến vậy, rồi phá lên cười. Hứa Nhất Thành thừa cơ lấy danh thiếp cung kính đưa ra, “Bất luận có hàng hay không, tôi cũng rất hân hạnh được gặp trung đoàn phó Vương. Tôi tên Hứa Nhất Thành, xin đợi ở quán trọ này, chờ ngài sai bảo.”
“Thế thì cứ đợi đi.”
Vương Thiệu Nghĩa cầm danh thiếp, chẳng hứa hẹn gì, quay người bỏ đi. Ngang qua Hải Lan Châu, lão dừng chân, nhếch miệng cười bảo, “Cô nhóc vừa rồi hét cũng được đấy, nhưng còn hơi non, phải về rèn diễn xuất thêm đi.”
Hải Lan Châu tái mét mặt, luống cuống lùi lại. Vương Thiệu Nghĩa cười ha hả, giơ ngón tay nhăn nheo quệt vào chiếc cằm nõn nà của cô, “Đã dám đến thành Bình An này, đâu còn sợ tí máu me ấy nữa?” Đoạn đi thẳng ra khỏi quán trọ, quẩy gánh phân lên, lại biến thành lão già quê kệch, đi một bước lắc lư một bước.
Hứa Nhất Thành và Hải Lan Châu quay lại phòng. Vừa bước vào, Hải Lan Châu đã xiêu người đi, suýt nữa ngã bệt xuống đất, may có Hứa Nhất Thành đỡ lấy. Áp lực từ Vương Thiệu Nghĩa quá lớn, cô gần như không chịu nổi. Hứa Nhất Thành nói, “Đã bảo đừng đi mà cô cứ cậy mạnh, giờ rút lui vẫn còn kịp, để tôi bảo Khắc Vũ đưa cô về.”
Hải Lan Châu cắn môi, “Tôi không về đâu! Tôi phải thay cha bắt bọn trộm mộ!”
Hứa Nhất Thành khuyên, “Việc này Dục Phương đã ủy thác cho tôi rồi, cô cần gì phải vẽ vời thêm chuyện.”
Hải Lan Châu lắc đầu, “Không, Vương Thiệu Nghĩa đã biết mặt tôi rồi, giờ tôi đi, nhất định lão sẽ nghi ngờ.”
Nghe cô nói cũng có lý, Hứa Nhất Thành thở dài, không nói thêm nữa. Hải Lan Châu hỏi tiếp theo phải làm gì? Hứa Nhất Thành đáp, “Vương Thiệu Nghĩa đã biết mục đích chúng ta đến đây, tiếp theo chỉ ngồi chờ thôi. Đừng quên trên tủ quầy ngoài cóc vàng của chúng ta ra, còn ba con nữa, chết một con vẫn còn hai.”
Một lúc sau, Phó Quý quay lại. Hứa Nhất Thành hỏi thế nào rồi, Phó Quý đáp, “Vừa ra khỏi cửa đã bị người ta dính lấy, bám theo đi lòng vòng cả buổi.” Xem ra thành Bình An này ngoài lỏng trong chặt, nhìn thì lơi lỏng song họ vừa vào thành đã bị giám sát chặt chẽ.
Bên trong phòng lặng đi, cảm giác lần này khác hẳn ban nãy, như bị nhốt vào lồng vậy. Vương Thiệu Nghĩa có ý gì, chẳng ai biết được, càng không biết thứ gì đang đợi mình, nhổ lông hay cắt tiết làm thịt hoặc còn gì khác.
Hứa Nhất Thành nhận xét, “Lão vẫn đang thăm dò chúng ta, nếu ta manh động bỏ chạy ắt sẽ đâm đầu vào đường chết.”
Hải Lan Châu lườm y, “Vừa rồi còn có người đuổi tôi đi kia đấy, nói như anh thì chẳng phải đó là tự tìm cái chết ư.”
Hứa Nhất Thành không nói lại cô, đành gượng cười giở báo ra đọc tiếp.
Suốt cả buổi chiều, bên ngoài quán trọ không có động tĩnh gì khác, dĩ nhiên cũng chẳng ai tới bán đồ. Tối đến, Hứa Nhất Thành gọi ông chủ mang lên vài món ăn, rồi cùng mấy người kia ăn trệu trạo dăm miếng. Y chẳng lấy gì làm nôn nóng, cầm sách lên thong dong giở đọc. Trái lại Hải Lan Châu có phần bồn chồn, cứ đi đi lại lại trong phòng, Hoàng Khắc Vũ trước sau giữ im lặng, còn Phó Quý tháo súng lục ra, lau hết lần này đến lần khác.
Đến mười giờ tối, thành Bình An cửa đóng then cài, không một ánh đèn, im lìm tối tăm như một tòa thành chết. Người trong phòng vốn định ai về chỗ nấy nghỉ ngơi, chợt nghe tiếng bước chân giẫm lên ván gỗ cót ca cót két, rợn cả người. Chẳng mấy chốc, ánh nến vàng vọt đã đến trước cửa, rồi “kẹt” một tiếng, chủ quán trọ đẩy cửa bước vào, nói bằng giọng vô cảm, “Các vị mang theo hành lý lên đường thôi.”
Câu này nghe hết sức âm u rùng rợn. Hứa Nhất Thành hỏi, “Đây là ý của trung đoàn phó Vương à?”
Ông chủ lạnh lùng đáp, “Anh không đi cũng chẳng sao, tôi sẽ bẩm lại.”
Hứa Nhất Thành đưa mắt cho mấy người kia, cả đám đành lục tục đi theo, nháy mắt đã rời quán trọ, ra phố lớn.
Một hàng năm người nối nhau đi giữa đường phố vắng tanh, chủ quán trọ cầm đèn dẫn đầu, trông như đi gọi hồn. Chẳng mấy chốc, họ bị dẫn vào một nơi tối om. Mượn ánh nến, Hứa Nhất Thành nhận ra đây là miếu Thành Hoàng.
Trong miếu bao trùm bầu không khí rờn rợn, Thành Hoàng lão gia ngự chính giữa, hai bên là Đầu Trâu Mặt Ngựa, Hắc Bạch Vô Thường, thảy đều là tượng đất, mặt mày hung tợn. Phía trên đầu tượng Thành Hoàng còn treo bức hoành phai màu đề bốn chữ “Hạo nhiên chính khí”, hai bên là đôi câu đối “Làm việc gian tà, mặc ngươi thắp hương vô ích; Giữ lòng ngay thẳng, gặp ta không lạy chẳng sao”, nét chữ không tồi, song lúc này đọc được lại thấy trào phúng khôn tả.
Chẳng để họ đợi lâu, Vương Thiệu Nghĩa đã từ sau đại điện đi ra. Lão thay sang quân phục, lưng giắt khẩu súng lục quân dụng Mauser, binh lính vây quanh như hồn ma bóng quế, mặt mày cứng đờ, tay lăm lăm súng trường.
“Tới giờ rồi, theo ta xuống âm tào địa phủ dạo một chuyến đi.” Vương Thiệu Nghĩa nhếch mép cười, trỏ Hứa Nhất Thành và Hải Lan Châu.
Hoàng Khắc Vũ và Phó Quý toan đi theo, song bị đám lính giơ súng trường ngăn lại. Vương Thiệu Nghĩa nói chúng ta đi bàn chuyện mua bán, dẹp súng ống đi. Hai người nhìn nhau, tự biết lão cố ý muốn tách họ ra, nhưng người ta có súng, hễ phản kháng sẽ bỏ xác tại chỗ. Hứa Nhất Thành kéo tay Phó Quý, đưa mắt trấn an. Nếu Vương Thiệu Nghĩa muốn giết họ thì đã giết từ lâu, cần gì đợi đến bây giờ. Phó Quý và Hoàng Khắc Vũ chẳng biết làm sao, đành theo một tên lính ra ngoài.
Đợi họ đi khỏi, Hứa Nhất Thành mới bước lên, đưa thuốc ra mời, “Trung đoàn phó Vương nói xuống âm tào địa phủ nghĩa là sao vậy?”
Vương Thiệu Nghĩa nhận điếu thuốc đáp, “Anh đến tìm ta để mua hàng còn gì? Không xuống dưới làm sao bàn chuyện mua bán được?” Dứt lời chìa tay mời Hứa Nhất Thành đi ra sau miếu.
Hứa Nhất Thành và Hải Lan Châu ra sau miếu Thành Hoàng, thấy có một gian buồng trên lợp ngói dưới xây gạch, tường quét ve đỏ thẫm, rộng chưa đầy ba mét vuông, song ngưỡng cửa cao gần một mét. Thoạt trông thấy căn buồng nọ, Hứa Nhất Thành nhíu mày hỏi Hải Lan Châu, “Cô đã bao giờ vào miếu Thành Hoàng chưa?” Hải Lan Châu lắc đầu, “Tôi từ nhỏ sang Anh du học, chỉ mới nghe nói chứ chưa vào bao giờ?” Hứa Nhất Thành dặn, “Vậy cô nhớ cẩn thận nhé.” Hải Lan Châu ngạc nhiên, bèn hỏi tại sao. Hứa Nhất Thành còn chưa kịp đáp, Vương Thiệu Nghĩa đã giục họ bước vào.
Hai người nhấc cao chân bước qua ngưỡng cửa mới thấy trong buồng trống trơn, chính giữa nền nhà có một cái hố đen ngòm, nom như đường hầm. Bên cạnh có thang gỗ bắc xuống dưới, chẳng biết thông đến tận đâu.
“Mời.” Gương mặt Vương Thiệu Nghĩa thoắt sáng thoắt tối dưới ánh đèn lồng, trông quái dị khôn xiết.
Hứa Nhất Thành bám thang leo xuống, thấy đường hầm rất sâu, nồng nặc mùi ẩm mốc. Xuống đến cuối thang, y thấy Hải Lan Châu cũng đang từ từ tụt xuống. Hình như cô sợ bóng tối, tay cứ run run. Vừa quờ thấy Hứa Nhất Thành, cô liền tóm chặt cánh tay y, giữ khư khư bên mình.
Trước là Hứa Nhất Thành và Hải Lan Châu, sau đến Vương Thiệu Nghĩa và chủ quán trọ, bốn người lần lượt xuống hầm cả. Chợt nghe rầm một tiếng, bên trên đã đóng nắp hầm lại, xung quanh tức thì tối như hũ nút. Hứa Nhất Thành cảm giác trong bóng tối hình như còn những người khác, song chỉ nghe được tiếng thở và bóng dáng thấp thoáng, chẳng rõ có bao nhiêu. Móng tay Hải Lan Châu sắp găm vào thịt y, cô run rẩy hỏi có phải ma không? Hứa Nhất Thành không trả lời thẳng, chỉ dặn cô chuẩn bị tâm lý.
Xạch một tiếng, chủ quán trọ quẹt diêm thắp ngọn đèn lồng bằng giấy trắng, chiếu sáng cả căn hầm. Hải Lan Châu chợt rú lên, suýt nữa bấm vào tay Hứa Nhất Thành ứa máu.
Đèn vừa sáng, cô mới thấy những cái bóng xung quanh đều là ma, con nào con nấy mặt xanh nanh vàng, dữ dằn hung tợn, thôi thì đủ cả ma chết treo lưỡi thè lè, ma ngã chết mặt bê bết máu, ma chết chém ngang lưng tay xách bộ lòng, còn cả ma bị cọp vồ, ma chết đuối v.v… con nào con nấy đều chết thê thảm, đứng đầy bốn mặt tường, người hơi đổ về phía trước, như sắp sửa xồ ra, những đôi mắt trống rỗng không có con ngươi cơ hồ dán cả vào Hải Lan Châu.
Hải Lan Châu mặt vàng như nghệ, run lên bần bật. Hứa Nhất Thành vỗ lưng cô, dịu giọng, “Đừng sợ, tượng đất ấy mà.” Hải Lan Châu định thần nhìn kỹ mới phát hiện tất cả đều là tượng, nhưng được làm hết sức sống động, lớp dầu quét bên ngoài lấp loáng dưới ánh đèn vàng vọt, trông như thật vậy.
Hứa Nhất Thành giải thích, “Cô lớn lên ở nước ngoài nên không biết, phía sau miếu Thành Hoàng đều có một gian hầm gọi là gian Âm ti, bên trong thờ tượng các loài ma quỷ để du khách tham quan, coi như được dạo qua âm tào địa phủ một vòng miễn phí.” Hải Lan Châu đưa mắt nhìn, vẫn chưa hết kinh hoảng, tuy biết rõ những thứ này là giả, song không khí quả thực hết sức rùng rợn.
Vương Thiệu Nghĩa cười nói, “Lần này cô hét mới là thực, giỏi lắm, tiến bộ đấy.”
Nếu là miếu Thành Hoàng ở thị trấn hay thành thị lớn thì gian Âm ti còn la liệt mấy chục tượng ma quỷ để nhắc nhở người đời chớ làm việc ác. Có điều thành Bình An chỉ là một địa phương nhỏ, nên gian Âm ti chỉ có chừng bảy tám pho. Hứa Nhất Thành nhìn quanh, nhận ra ở đây không phải chỉ toàn tượng quỷ. Chính giữa gian Âm ti kê một chiếc bàn vuông, đã có hai người ngồi bên bàn, một gầy một béo, đều mặc áo kiểu Trung Quốc. Họ nhìn sang Hứa Nhất Thành, không nói năng gì, ánh mắt không lấy gì làm thiện chí, song cũng mang vài phần sợ sệt.
Vương Thiệu Nghĩa mời Hứa Nhất Thành ngồi xuống bên bàn, Hải Lan Châu buông tay y ra, đứng bên cạnh, mặt cúi gằm, không dám nhìn xung quanh. Hai người kia cũng chẳng chào hỏi gì, cụp mắt vờ ra vẻ bình thản.
Chủ quán trọ cầm đèn lồng giấy trắng, cung kính đứng phía sau. Vương Thiệu Nghĩa tự kéo ghế nghênh ngang ngồi xuống ngay bên dưới cửa hầm. Lão nhìn quanh rồi trỏ thẳng lên trên, “Quỷ môn đóng lại, coi như chúng ta đã bước xuống âm tào địa phủ, cách biệt âm dương, ở đây trời không biết, đất không hay, càng không liên quan tới nhân gian. Các vị có gì cứ nói trắng ra, đừng giấu giếm úp mở nữa.”
Nghe lão nói, mọi người đều thấy ớn lạnh, bất giác rụt cổ lại, như đang ở âm tào địa phủ thật vậy. Cả căn hầm chỉ có một cửa, còn bị Vương Thiệu Nghĩa chốt chặt. Lão muốn gì thì làm nấy, trời không biết, đất không hay, gọi ai cũng vô ích. Mấy người ngồi đó đều như cá nằm trên thớt, mặc lão xà xẻo.
Chủ quán trọ xách đèn đứng sau lưng Vương Thiệu Nghĩa, không trông rõ nét mặt, chỉ thấy một cái bóng, chẳng khác nào phán quan. Hứa Nhất Thành cười thầm trong bụng, Vương Thiệu Nghĩa cố tình chọn nơi rùng rợn thế này, e rằng còn dụng ý khác. Chỉ riêng bầu không khí âm u này cũng đủ làm người ta nhụt hẳn nhuệ khí rồi.
Hài lòng với phản ứng của họ, Vương Thiệu Nghĩa chìa tay nói, “Ba vị đây đều là thương lái đến thành Bình An mua hàng thật, xin mời làm quen với nhau đi.”
Hai người kia lạnh nhạt khum tay vái chào rồi giới thiệu tên. Người gầy tên Cao Toàn, nói giọng Thiên Tân; kẻ béo tên Biện Phúc Nhân, nói đặc giọng Sơn Tây, cả hai chỉ báo tên họ, tuyệt nhiên không nhắc mình đến từ đâu, người của tiệm nào, có thể thấy vẫn đề cao cảnh giác.
Bấy giờ Hải Lan Châu mới biết trên tủ quầy quán trọ đặt bốn con cóc vàng nghĩa là có bốn tay buôn đồ cổ đến tìm mua hàng. Vương Thiệu Nghĩa đích thân đến kiểm tra, loại một tay thám tử cải trang, còn lại ba người đủ tư cách được mời xuống Âm ti.
Đợi mọi người chào hỏi xong, Vương Thiệu Nghĩa nheo mắt, “Ta phải hỏi trước điều này, làm sao các vị biết được chuyện anh em ta làm ở Đông lăng?”
Hứa Nhất Thành lúc trước đã trả lời rồi, nên thản nhiên nói là nghe từ Dục Bành, còn hai kẻ kia ấp úng mãi không đáp được. Vương Thiệu Nghĩa đập bàn gằn giọng, “Vừa nãy ta đã nói đấy, Quỷ môn đóng lại rồi, không được phép giấu giếm úp mở nữa! Trước mặt bấy nhiêu ác quỷ thế này mà còn dám nói dối sẽ gặp quả báo đấy!” Thấy hai người kia vẫn phân vân, Vương Thiệu Nghĩa cười nhạt, “Chúng ta nói thẳng ra đi. Việc ta quật mộ nhà Ái Tân Giác La là cơ mật, chỉ anh em trong nhà mới biết. Các người đến thành Bình An, nhất định là vì nội bộ chúng ta đã có kẻ để lộ tin này. Ta không trách tội các người, âu cũng vì kiếm tiền cả mà, nhưng kẻ không giữ được bí mật nhất định phải giải thích rõ ràng. Các người cho ta biết tên kẻ tiết lộ thì chúng ta tiếp tục bàn chuyện mua bán, còn không nói ta sẽ xử luôn các người, cứ suy nghĩ đi.”
Cả gian Âm ti tức thì lặng phắc. Hai người kia cúi gằm mặt, căng thẳng đấu tranh tinh thần. Ngồi trong căn hầm tối tăm, lại bị ma quỷ vây quanh, con người ta vốn đã chịu áp lực quá sức, nên Vương Thiệu Nghĩa chỉ nói vài câu đã lay chuyển được phòng tuyến tâm lý của họ.
Hứa Nhất Thành khẽ thở dài, câu này của Vương Thiệu Nghĩa quả là lợi hại, chẳng khác nào phân hóa lợi ích giữa hai người kia với tên nội gián, những kẻ này là thương nhân buôn bán kiếm lời, có bao giờ đếm xỉa đến nghĩa khí, vì lợi ích, chúng chẳng từ việc gì không làm cả.
Quả nhiên, hai người kia mỗi người khai ra một cái tên. Vương Thiệu Nghĩa gật đầu, rỉ tai nói nhỏ với chủ quán trọ mấy câu. Chủ quán trọ đặt đèn xuống, trèo lên trên mở nắp hầm dặn dò vài lời rồi lại trở xuống. Chẳng bao lâu sau, bên ngoài vang lên hai tiếng súng giòn đanh, làm Cao Toàn và Biện Phúc Nhân giật bắn mình. Vương Thiệu Nghĩa nhếch mép cười, “Các vị xem, cứ ăn ngay nói thật có phải thoải mái không? Được rồi, chúng ta vào việc chính đi.”
Chủ quán trọ cầm một cái túi đặt lên bàn rồi lần lượt lấy từng món ra. Thoắt chốc trên bàn đã xếp đầy một đống. Có mũ phượng đính ngọc trai, chăn kinh dệt bằng tơ vàng, tượng Phật ngọc lớn nhỏ, tượng Phật phỉ thúy, các loại pháp khí bằng vàng bạc, đá quý to cỡ quả trứng gà, tổng cộng hơn hai mươi món. Dưới ánh đèn nhập nhoạng, Hứa Nhất Thành chỉ nhìn thoáng qua, thấy hầu hết đều khớp với danh sách đồ bồi táng của Thục Thận hoàng quý phi bị mất. So với những thứ này, chiếc khánh đồng thếp vàng và chuỗi tràng hổ phách chúng chia cho Dục Bành thực chẳng đáng một xu.
Cao Toàn và Biện Phúc Nhân sáng mắt lên, bởi những món này đều là hàng cứng cả. Hàng cứng nghĩa là bản thân chất liệu của thứ đó đã đáng tiền rồi, ví như viên ngọc lục bảo to bằng quả trứng gà, không cần xem niên đại, chỉ riêng viên đá đã có thể bán giá trên trời; trái với nó là hàng mềm, ví như tranh chữ, vốn chẳng đáng một đồng, chẳng qua nhờ dính đến danh nhân nên giá mới vọt lên.
Những món này không phải vàng thì là ngọc, nếu bán ra thị trường ít nhất cũng phải hơn trăm nghìn đồng đại dương. Bằng không đám lái buôn như họ cũng chẳng cất công lặn lội đến tận đây khi mới nghe được phong thanh. Hứa Nhất Thành chợt nghe Hải Lan Châu phía sau thở gấp, bèn đằng hắng thật khẽ, ý bảo cô bình tĩnh lại. Vương Thiệu Nghĩa cười nói, “Đàn bà con gái thấy trang sức vàng bạc đều như thế cả.”
Cả đám cười rộ lên, không khí cũng nhẹ nhõm phần nào. Vương Thiệu Nghĩa nói, “Những thứ này ta phải mạo hiểm lấy từ lăng phi tần của Đồng Trị ra đấy, các vị đừng để uổng công ta.”
Cao Toàn cười nịnh nọt, “Trung đoàn phó Vương khéo lo, nhà Thanh đã mất bao lâu nay, ai dám đến rầy rà ngài chứ?” Biện Phúc Nhân vội tiếp lời, “Đúng thế, Đông lăng cũng đã bỏ hoang, chi bằng lấy đồ trong đó ra tạo phúc cho người sống còn hơn để đám người chết khư khư giữ làm của riêng.” Vương Thiệu Nghĩa gật đầu liên hồi, rồi đột nhiên hất hàm, nhìn chòng chọc Hứa Nhất Thành, “Sao anh không nói câu nào tâng bốc ta?” Hứa Nhất Thành đáp, “Đào mồ quật mả ắt tổn hại âm đức. Tôi đến thành Bình An để kiếm tiền, không dám tranh tài miệng lưỡi.”
Hai kẻ kia cau mày châm chọc, “Anh cũng xuống Âm ti rồi, còn vờ cao đạo nỗi gì?” Đoạn quay ra ton hót Vương Thiệu Nghĩa, “Kẻ này vô lễ, trơ tráo nói láo, ắt có lòng khác!” Cả hai đều tính toán rằng, đống đồ này phải chia làm ba, nếu bớt được một đối thủ cạnh tranh thì mình ắt có thêm đôi phần.
Song Vương Thiệu Nghĩa chỉ hờ hững đáp, “Anh Thành nói phải lắm, chúng ta đã quật mộ người ta thì cũng không nên huênh hoang khoác lác. Thực ra ta cũng không vì bản thân mà vì nuôi sống hơn hai ngàn quân đấy thôi. Người phải ăn cơm ngựa phải gặm cỏ, lo toan cho họ no đủ cũng chẳng dễ dàng gì…” Dứt lời lão vươn tay đẩy đống châu báu ra giữa bàn, “Ta muốn thủ tiêu tang vật, các người muốn kiếm tiền. Có điều việc buôn bán chỉ có thể do hai người thực hiện, hôm nay các vị lại kéo đến những ba, làm ta hơi khó nghĩ.”
Cả ba đều nín thở, tự biết Vương Thiệu Nghĩa đang đi vào vấn đề chính. Lão nói, “Ta nghĩ đi nghĩ lại, chẳng biết làm sao mới phải, đành hỏi ý trung đoàn trưởng Mã Phúc Điền. Trung đoàn trưởng Mã dù sao cũng là người từng trải, lại hiểu biết. Ông ấy hỏi ta những thứ này liệu bán được bao nhiêu tiền? Ta nói ít nhất cũng phải hơn trăm nghìn đồng bạc. Ông ấy lại hỏi tiền lương của quân ta một tháng bao nhiêu? Ta đáp hơn năm mươi nghìn. Ông ấy nói dù chú bán hết cũng chỉ được ba tháng tiền lương, làm sao đủ? Phải nhìn xa ra chứ? Ta nghĩ cũng phải, mộ phi tần có đào mấy ngôi lên cũng chỉ đủ chi tiêu một hai năm, thấm tháp vào đâu! Muốn đào phải đánh một quả thật lớn!”
Nói tới đây Vương Thiệu Nghĩa gạt đống châu báu trên bàn ra, “Chút của cải này chỉ là thêm nếm thôi. Hôm nay mời các vị đến đây, là muốn bàn một vụ mua bán lớn hơn. Nói đến phú quý nhất Đông lăng thì phải là mộ Lão Phật Gia. Các vị có hứng thú không? Chúng ta ăn trên chiếu của Từ Hi thái hậu đi!”
Lời vừa thốt ra, tất cả đều bàng hoàng. Gương mặt đầy nếp nhăn của Vương Thiệu Nghĩa dưới ánh nến trông còn dữ dằn hung tợn hơn cả đám tượng ma quỷ xung quanh.
Người Bắc Kinh có tuổi vẫn còn nhớ cảnh tượng đám tang Từ Hi năm ấy, quả thực xa hoa tột độ, e là trước nay chưa từng có. Còn những kẻ chuyên buôn bán cổ vật như họ, dĩ nhiên cũng đã đọc Bút ký hiên Ái Nguyệt do chú cháu Lý Liên Anh viết, thừa biết đồ bồi táng trong mộ Từ Hi nhiều vô kể, đứng đầu trong số các lăng mộ, nếu quật toàn bộ lên thì sẽ là một món tiền kinh thiên động địa.
Vương Thiệu Nghĩa dám tính chuyện quật mộ Từ Hi, đủ thấy dã tâm và liều lĩnh đến độ nào. Mộ Thục Thận hoàng quý phi đời nào sánh nổi với mộ Từ Hi. Tuy bấy giờ dân chúng đua nhau đào mồ quật mả nhưng ngang nhiên bàn việc lớn nhường này, ai chẳng chột dạ.
Thấy họ đờ ra vì sợ, Vương Thiệu Nghĩa cười khà, “Trộm mộ cũng như chơi gái, lần đầu bao giờ chẳng căng thẳng rụt rè, nhưng có lần thứ nhất sẽ có lần thứ hai, dần dần là quen thôi.”
Nghe lão đùa mà chẳng ai cười nổi. Bất luận là Hứa Nhất Thành hay hai người Cao Toàn, Biện Phúc Nhân đều nhanh nhạy nhận ra, vừa rồi Vương Thiệu Nghĩa nói rằng “ăn trên chiếu của Từ Hi thái hậu”.
Từ thời Dân Quốc mới có tục ăn trên chiếu. Sau khi thành lập nước Trung Hoa Dân Quốc, các nơi loạn lạc không thôi, mồ mả liên tục bị đào bới, không ai ngăn nổi. Bắt đầu có những tay buôn đồ cổ bỏ tiền ra thuê bọn trộm cướp chuyên đào mồ lấy đồ tùy táng. Về sau đám trộm mộ cảm thấy thế thì thiệt cho mình quá, bèn làm ngược lại, trước tiên ngắm sẵn một ngôi mộ, rồi mời vài tay lái buôn tới, quật lên bán ngay tại chỗ, ai ra giá cao thì được. Vì cả đám người vây quanh mộ chầu hẫu đợi như quây quanh chiếu rượu nên gọi là “ăn trên chiếu”.
Trước tiên lái buôn cổ vật phải bỏ ít tiền cho bọn trộm mộ, coi như đặt cọc. Cầm tiền đặt cọc rồi chúng mới bắt đầu quật mả. Bất luận đào được gì trong mộ thì tiền cọc cũng sẽ không trả lại. Vương Thiệu Nghĩa nói “ăn trên chiếu của Từ Hi thái hậu”, hẳn là định thu tiền cọc của họ trước rồi mới khai quật.
Cao Toàn đập bàn trước tiên, “Được! Trung đoàn phó Vương đã có hùng tâm tráng chí, tôi xin xả thân bồi quân tử.”
Biện Phúc Nhân chẳng chịu lép, hùa theo ngay, “Trong mộ Từ Hi đều là máu mỡ của dân cả. Trung đoàn phó Vương thay nhân dân đứng ra lấy lại có gì mà không được.”
Vương Thiệu Nghĩa lại đưa mắt nhìn sang Hứa Nhất Thành hỏi, “Anh thấy sao? Sợ rồi à?”
Hứa Nhất Thành điềm tĩnh đáp, “Chắc các vị cũng biết mộ Từ Hi lớn đến thế nào. Đó đâu phải phần mộ tầm thường mà nói đào là đào được. Cái khác không nói, nhưng cửa mộ nằm ở đâu? Có ai biết không? Nếu không biết lối vào hầm mộ thì có huy động mấy trăm người đào bới cũng phải mất vài ngày. Dầu chính phủ Bắc Kinh chỉ là bù nhìn, nhưng làm rầm rộ như vậy ắt sẽ đến tai họ. Trung đoàn phó Vương đã nói muốn quật mộ Từ Hi, thì cũng nên cho chúng tôi biết ngài định quật thế nào đã? Tiền quý thật đấy, nhưng phải giữ mạng mới tiêu được.”
Vương Thiệu Nghĩa cười ha hả, “Anh hỏi đúng chỗ quan trọng rồi đấy. Để ta nói cho các vị yên tâm. Năm xưa mộ Từ Hi khi xây cất đến bước cuối cùng có để lại tám mươi mốt thợ đá bít kín lối vào mộ. Vốn dĩ những người này đều đã bị diệt khẩu, nhưng có một người họ Khương, trong lúc đang thi công bị đá lớn rơi trúng, bất tỉnh nhân sự. Thái giám giám sát ngỡ y đã chết, sợ làm bẩn địa cung bèn cho người lôi ra ngoài ném vào khe núi. Nhưng về sau y dần tỉnh lại, trốn về làng mai danh ẩn tính, sống đến tận bây giờ.”
Ba người không ngờ còn có chuyện như vậy, nếu là thật thì việc định vị mộ không thành vấn đề. Cao Toàn mừng rỡ hỏi, “Lẽ nào, lẽ nào trung đoàn phó Vương đã tìm được tay thợ đá đó rồi ư?”
Vương Thiệu Nghĩa đáp, “Chưa, nhưng đã có manh mối rồi, chẳng bao lâu nữa sẽ tìm được thôi.” Ngừng một lát, lão chợt nhìn quanh, “Các vị xem, chuyện cơ mật như vậy mà ta cũng tiết lộ cho các vị, đủ thấy tấm lòng thành rồi chứ? Giờ đến lượt các vị, thể hiện chút thành ý đi thôi.”
Ba người nhìn nhau, thầm nghĩ đây là vòi tiền còn gì. Song Vương Thiệu Nghĩa lại vênh mặt lên, “Lần này ăn trên chiếu, chúng ta thay đổi hình thức đi, các vị khỏi cần ăn, thay ta tẩu tán hàng là được.”
Lệ án trên chiếu thông thường là lái buôn đặt tiền cọc, trộm mộ đào đồ lên giao cho lái buôn là xong, tiền cọc là để đề phòng lỡ như dưới mộ không có gì thì đám trộm mộ cũng khỏi công cốc. Ý Vương Thiệu Nghĩa là trong mộ Từ Hi nhất định có báu vật, không cần đoán mò nên những gì lão đào được đều là của lão, nhưng sẽ chỉ định một người thay lão đem hàng đi bán, đổi lấy tiền mặt.
Tuy báu vật trong mộ Từ Hi quý giá nhưng không thể chào bán công khai, phải móc nối tìm những tay sưu tầm nặc danh mới được. Thị trường cổ vật rất phức tạp và nhiều lắt léo, tìm người như thế nào, loan tin ra sao, thu tiền cách gì, làm sao bảo đảm không lộ ra ngoài? Vương Thiệu Nghĩa giết người như ngóe nhưng trong việc mua bán lại là tay mơ, bắt buộc phải tìm một kẻ thạo nghề thay lão.
Nghĩ mà xem, trong mộ Từ Hi nhiều báu vật như thế, chỉ cần đứng ra làm trung gian xuất hàng cũng đủ kiếm bộn, quả là một vụ làm ăn béo bở.
Vương Thiệu Nghĩa lại nói, “Trộm mộ Từ Hi sẽ gây ảnh hưởng lớn, nên càng ít người biết chuyện càng tốt. Trong ba người các vị, ta chỉ có thể chọn một vị để giúp xuất hàng thôi.”
Những kẻ ngồi đây đều thuộc hạng lõi đời, ngẫm kỹ câu này, chẳng ai không biến sắc. Vừa rồi Vương Thiệu Nghĩa đã thản nhiên tiết lộ kế hoạch trộm mộ, ngay cả chuyện về thợ đá họ Khương cũng chẳng ngại nói ra, giờ lại bảo chỉ chọn một người hợp tác. Vậy hai người còn lại thì sao? Biết bấy nhiêu bí mật, đời nào Vương Thiệu Nghĩa chịu thả cho họ về?
Cuối cùng họ cũng hiểu câu nói “Việc trộm mộ Từ Hi, càng ít người biết càng tốt” mang sát khí nặng nhường nào. Giữ một giết hai. Đây đã không còn là kiếm tiền nữa, mà là tìm đường sống. Thắng thì phú quý bày ra ngay trước mắt; còn thua sẽ bỏ mạng ở thành Bình An. Vương Thiệu Nghĩa cũng chẳng nề gánh thêm vài món nợ máu.
Gian Âm ti quả nhiên là Âm ti. Người sống bước xuống Âm ti, sao còn có thể sống sót trở ra nữa chứ?
Khóe môi Cao Toàn bắt đầu giần giật, Biện Phúc Nhân mặt mày vô cảm nhưng trán đã đầm đìa mồ hôi. Hải Lan Châu đứng sau lưng Hứa Nhất Thành, không trông rõ được nét mặt y. Cô chợt thấy tò mò, không hiểu kẻ lúc nào cũng tủm tỉm cười ung dung như y lúc này sẽ có biểu cảm thế nào? Tiếc rằng không khí trong hầm quá ngột ngạt, chẳng ai dám nhúc nhích. Tay chủ quán trọ phía sau Vương Thiệu Nghĩa chẳng biết đã lăm lăm cây súng tự bao giờ, trong không gian chật hẹp này, đừng kẻ nào hòng chồm lên đả thương người khác được. Chỉ cần có người manh động, hắn sẽ nổ súng ngay.
Vương Thiệu Nghĩa không giục giã, chỉ khoanh tay ngả người ra ghế, cho ba người kia tha hồ tiêu hóa thông tin. Không lâu sau, Cao Toàn nói bằng giọng khàn khàn, “Xin theo ý trung đoàn phó Vương.” Biện Phúc Nhân và Hứa Nhất Thành không hẹn mà cùng gật đầu, tỏ ý không phản đối.
Có chí làm quan có gan làm giàu, thua thì mất đầu, thắng sẽ được giàu sang vô hạn. Chỉ có chướng ngại vật duy nhất là hai kẻ còn lại trên bàn. Cao Toàn và Biện Phúc Nhân đã có gan đến thành Bình An, chứng tỏ cũng chẳng phải hạng thiện lành gì, ánh mắt nhìn nhau đều trở nên sắc lẹm. Kể từ lúc này, họ đã trở thành kẻ thù sống mái, chỉ nhăm nhăm dồn người kia vào chỗ chết. Bầu không khí trong gian Âm ti đã đổi sang hung tàn sát phạt.
Hải Lan Châu rùng mình, âm thầm nhích lên nửa bước, giơ tay ra chạm nhẹ vào áo Hứa Nhất Thành. Hứa Nhất Thành vẫn ngồi im bất động, đầu ngón tay cô chạm vào vai y. Hải Lan Châu cảm tưởng như mình vừa chạm phải một tấm bia đá, cứng rắn trơ lì. Bấy giờ cô mới biết cơ thịt trên người Hứa Nhất Thành đã cứng lại.
Biện Phúc Nhân hỏi, “Ngài định chọn thế nào đây?”
Vương Thiệu Nghĩa đẩy đống châu báu trên bàn, “Quy củ rất đơn giản, trong đống này có cả đồ thật lẫn đồ giả. Các vị mỗi người lần lượt chọn một món, đến khi nào hết thì thôi. Ai lấy được nhiều đồ thật hơn là thắng.”
Ăn trên chiếu là đọ tiền rừng bạc bể; thay người xuất hàng cần có mắt nhìn và khiếu ăn nói, Vương Thiệu Nghĩa đưa ra thử thách này để kiểm tra mắt nhìn của cả đám. Gian Âm ti tranh tối tranh sáng, chỉ có một ngọn đèn lồng trong tay chủ quán trọ, muốn giám định cũng khó. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, nếu không khó thì sao thử được tài?
Hải Lan Châu mừng thầm. Phú Lão Công đã liệt kê ra một danh sách những đồ tùy táng bị đánh cắp trong mộ Thục Thận hoàng quý phi, Hứa Nhất Thành cũng đã xem qua. Thử thách lần này đối với y có thể coi là chẳng khó khăn gì. Nhưng ngẫm kỹ lại, cô mới thấy không ổn. Lúc Vương Thiệu Nghĩa tuyên bố luật chơi, chỉ nói là có cả đồ thật lẫn đồ giả, không nói đồ thật đều lấy từ mộ Thục Thận hoàng quý phi. Lão cố ý gài bẫy khiến người ta không dò đoán được, nếu chủ quan cho rằng mình đã nắm rõ danh sách, không còn gì phải lo, chưa chừng lại bị hố.
Nghĩ tới đó, cô bất giác buột miệng “a” lên một tiếng. Mấy người kia mắt đỏ ngầu, trợn trừng nhìn sang, khiến cô giật bắn mình. Vương Thiệu Nghĩa cũng nhìn cô đầy ẩn ý, “Này, ván cược này quan trọng lắm đấy, cô đừng gây ra tiếng động nữa, bằng không ta không bảo đảm cho cô đâu nhé.”
Hứa Nhất Thành chợt lên tiếng hỏi, “Trung đoàn phó Vương, giám định có được dùng dụng cụ không?” Vương Thiệu Nghĩa ngẩn người giây lát rồi đáp, “Tùy các vị, miễn là không rời khỏi Âm ti.” Hứa Nhất Thành liền nói vậy thì được, đoạn tháo chiếc thắt lưng to bản ra, đó chính là bộ Kim Đáy Bể quý giá của Minh Nhãn Mai Hoa, y vẫn luôn đem theo người.
Bộ Kim Đáy Bể này do một người thợ có tiếng rèn cho Minh Nhãn Mai Hoa từ thời Càn Long, khí chất bất phàm. Hứa Nhất Thành vừa lấy ra, những kẻ trong phòng, kể cả Vương Thiệu Nghĩa và tay chủ quán trọ, đều ồ lên. Có điều Cao Toàn và Biện Phúc Nhân cũng chẳng chịu lép, lục tục lấy dụng cụ trong người ra ném xoạch xuống bàn gỗ như để thị uy. Mọi người đều có chuẩn bị cả, chẳng ai tay không bắt giặc hết.
Vương Thiệu Nghĩa cười ha hả nói, “Phen này thú vị rồi đây.” Lão lấy ra một con súc sắc để ba người gieo. Hứa Nhất Thành gieo được ba điểm, Cao Toàn bốn điểm, Biện Phúc Nhân sáu điểm, ai điểm cao hơn thì chọn trước.
Đống đồ trên bàn phải đến hơn hai mươi món, có mũ phượng, chăn kinh, Phật ngọc, Quan Âm ngọc, các loại pháp khí vàng bạc và mấy viên đá quý lớn. Lấy món nào trước món nào sau cũng phải cân nhắc rất nhiều.
Biện Phúc Nhân chọn đầu tiên, không hề do dự giơ tay bưng luôn chiếc mũ phượng nổi bật nhất. Trên mũ là bảy con phượng hoàng bằng tơ vàng, con thì dang cánh bay lượn, con đậu trên cành cao, con vươn cổ hót vang, mỗi con một vẻ song vẫn hài hòa thành một chỉnh thể, vô cùng tinh xảo. Bên dưới còn đính hàng chục hạt châu to bằng hạt gạo, khảm lông bói cá và tráng men, trông cực kỳ rực rỡ. Dù ở giữa không gian tối tăm chật hẹp như gian Âm ti, vẫn chói ngời lóa mắt.
Thứ này tiếng lóng gọi là hàng mở cửa, giá trị của mũ phượng quá nửa phụ thuộc vào tay nghề chế tác nên thoạt trông biết ngay thật giả. Biện Phúc Nhân chọn món này quả là ăn chắc.
Sau đó đến lượt Cao Toàn. Không như Biện Phúc Nhân, Cao Toàn hết sức thận trọng, không chọn bừa. Y nhìn chằm chằm đống báu vật hồi lâu, thậm chí cầm cả kính lúp ghé lại gần săm soi. Hai người còn lại lặng thinh quan sát, mặc cho y cân nhắc.
Luật chơi Vương Thiệu Nghĩa định ra thú vị ở chỗ, dù nhìn kỹ tới đâu thì mỗi lần cũng chỉ được chọn một món, dẫu có nhìn ra hàng thật, cũng chưa chắc đã giành được. Trái lại nếu săm soi quá kỹ, người bên cạnh trông thái độ y sẽ đoán được manh mối, chẳng khác nào cốc mò cò xơi, đổi lại y cũng có thể đóng kịch để lừa kẻ khác. Tóm lại là lừa dối lẫn nhau, nửa hư nửa thực.
Cao Toàn xem xét rề rà chừng mười phút, Vương Thiệu Nghĩa sốt ruột phải lên tiếng giục, y mới chọn một tấm chăn kinh. Chăn kinh còn gọi là chăn kinh Đà La Ni, bên trên dệt kinh văn chữ Phạn bằng chỉ vàng, đều là những mật chú chân ngôn hoặc danh hiệu công đức của chư Phật Bồ Tát, đắp trên thi thể có thể trừ tội thêm phúc, giúp người đó được tới Tây Phương Cực Lạc. Đây là thứ phải do hoàng đế ban cho mới được sử dụng. Thục Thận hoàng quý phi vốn không có tư cách, may nhờ Từ Hi sủng ái mới vinh hạnh được một vuông che mặt.
Cao Toàn chọn món này cũng bởi rất ít người làm giả chăn kinh. Thứ này vốn được dệt từ lông linh dương Tây Tạng pha lẫn chỉ vàng, vuốt nhẹ là biết, không dễ làm giả. Trong số những báu vật này, chỉ có mũ phượng và chăn kinh thuộc loại hàng mở cửa, khỏi lo dính đồ giả thì đã lần lượt được lấy đi, người chọn thứ ba nhất định sẽ bồn chồn, mà một khi bồn chồn ắt sẽ rối loạn. Vừa nãy Cao Toàn cố tình quan sát thật lâu là để gây áp lực tâm lý cho Hứa Nhất Thành.
Hai lần lựa chọn này, thoạt trông thì bình thường, thực ra lại có ẩn ý. Xem ra Cao Toàn và Biện Phúc Nhân đã ngầm thỏa thuận với nhau, bắt tay trừ bỏ Hứa Nhất Thành trước, rồi mới cạnh tranh sau. Ngay Hải Lan Châu cũng cảm giác được sau khi hai người này chọn đồ, không khí trong gian Âm ti bỗng ngột ngạt hẳn. Nhất thời ngay cả mấy pho tượng ma quỷ nọ dường như cũng bị át mất vài phần hung tợn.
Vương Thiệu Nghĩa nhắc, “Anh Thành, đến lượt anh rồi kìa.”
Hứa Nhất Thành rùn vai, rút lấy một chiếc búa sắt nhỏ nhắn từ bộ Kim Đáy Bể. Đầu búa chỉ chừng hai tấc, khá tinh xảo. Những người khác cứ ngỡ y định chọn món đồ vàng bạc gì đó nên lấy búa ra kiểm tra chất liệu. Ngờ đâu Hứa Nhất Thành cầm búa lên, thẳng tay đập luôn xuống viên đông châu trên bàn.
Rốp một tiếng, đông châu vỡ thành mấy chục mảnh cùng một đống bột vụn. Cả căn hầm lặng đi, ai nấy trố mắt kinh hoàng.
Đông châu là trân châu sản sinh ở vùng Hắc Long Giang Đông Bắc, vì to tròn nên hoàng thất rất ưa thích. Đông châu thực nếu bị đập vỡ sẽ nát vụn. Có kẻ dùng keo xương cá trộn với nam châu làm thành đông châu giả, thứ này khi bị đập nát, keo xương cá sẽ vỡ thành từng mảnh chứ không thể nát vụn như cám được.
Cách giám định này giới cổ ngoạn gọi là “giám định chết”. Ý nói khi có kết quả thì đồ cũng chẳng còn, chỉ khi gặp tình huống cực đoan mới làm như vậy.
Nhưng chẳng ai ngờ Hứa Nhất Thành lại đưa ra lựa chọn này.
Viên đông châu này quả nhiên là giả.
Vấn đề ở chỗ đây là đánh cược mạng sống, đọ xem ai lấy được nhiều đồ thật hơn. Hứa Nhất Thành không tranh thủ nhặt lấy một món đồ thật, lại vung búa đập vỡ một món hàng giả, làm bớt đi một món để chia, há chẳng phải là làm lợi cho kẻ khác ư? Rốt cuộc y đang nghĩ gì? Còn muốn thắng nữa hay không?
Hay nói cách khác, y còn muốn sống nữa không?
Hứa Nhất Thành làm vậy, đừng nói Hải Lan Châu và đám Cao Toàn, Biện Phúc Nhân, ngay Vương Thiệu Nghĩa cũng kinh ngạc, tay phải bất giác xoa xoa cằm, quan sát tên lập dị này, chẳng hiểu y có ý gì.
Hứa Nhất Thành vẫn điềm nhiên như không, ngồi ngay ngắn trên ghế, tủm tỉm cười bí hiểm, không hề giải thích. Cao Toàn và Biện Phúc Nhân tuy không hiểu nhưng Hứa Nhất Thành tự mình làm chuyện dại dột, họ cũng chẳng có trách nhiệm nhắc nhở.
Đến vòng thứ hai, Biện Phúc Nhân bày ra một bộ dụng cụ giám định ngọc ba món, bao gồm gậy, lưỡi cắt và gương. Biện Phúc Nhân gọi chủ quán trọ đưa đèn lồng đến rồi cầm mảnh gương lên, gọi là gương, thực chất là một miếng kính trong suốt được mài cực mỏng, xung quanh viền đồng. Mượn ánh đèn lồng, giơ gương này lên soi đồ ngọc có thể lọc ra được màu thật của ngọc. Ví như ngọc lục bảo, nếu là hàng thật dùng gương soi sẽ thấy màu đỏ, trái lại chỉ thấy màu xanh. Soi qua sẽ thấy ngay thật giả, mảnh gương này là một của báu hiếm có.
Nhờ báu vật này, Biện Phúc Nhân nhanh chóng chọn được một pho Quan Âm phỉ thúy đã lên nước, đặt xuống trước mặt mình, vẻ đắc ý.
Cao Toàn cười nhạt, khinh khỉnh ra mặt. Y xòe rộng năm ngón tay, cố tình nhặt chiếc chày Kim Cương một mũi pha vàng dài sáu ngón tay trước mặt Hứa Nhất Thành, đặt xuống trước mặt mình.
Cao Toàn lấy thứ này chứng tỏ không phải dạng vừa, bởi chày Kim Cương là báu vật của Mật Tông, hình thức, kích cỡ, trọng lượng và cách dùng đều được quy định nghiêm ngặt. Gia trì thần thông thì dùng chày Kim Cương ba mũi; tu Kim Cương bộ pháp thì dùng chày năm mũi; tu Đại Uy Đức Minh Vương pháp thì dùng loại chín mũi. Chỉ hành đạo tụng niệm, tu Liên Hoa bộ pháp mới dùng chày một mũi. Thục Thận hoàng quý phi theo Phật, nhưng là phụ nữ để tóc tu hành, lại tin rằng mình là hoa Phân Đà Lợi tức sen trắng đầu thai, nên khi chôn cất dĩ nhiên cũng phải chôn chày Kim Cương một mũi. Cao Toàn chọn như thế không chỉ là am tường lễ nghi Phật môn mà còn hiểu rõ những chuyện trong cung cấm, lựa chọn này có thể nói nhằm ra oai.
Quả nhiên Biện Phúc Nhân xẹp xuống như quả bóng xì hơi. Gã vội quay sang Hứa Nhất Thành, thấy y nhắm nghiền mắt, không buồn nhìn. Mãi tới khi Vương Thiệu Nghĩa lên tiếng giục, Hứa Nhất Thành mới mở mắt ra. Cao Toàn và Biện Phúc Nhân đều nín thở xem y rốt cuộc còn làm ra chuyện kinh người gì.
Không để họ thất vọng, Hứa Nhất Thành lại vung búa lên, đập vỡ một viên trân châu nữa. Khỏi cần hỏi, vẫn là đồ giả.
Qua năm vòng, Cao Toàn và Biện Phúc Nhân mỗi người chọn được năm món, còn Hứa Nhất Thành mỗi lần ra tay lại hủy đi một món đồ giả. Hai người kia dần chột dạ nghĩ thầm, tên họ Hứa này giỏi đến mức ấy sao? Dưới ánh đèn lồng tù mù như vậy, y chẳng cần nhìn, liên tục đập năm phát, phá hủy năm món hàng giả. Phải tinh tường đến độ nào?
Khó hiểu hơn là, nếu Hứa Nhất Thành nghiêm túc chọn hàng thì phần thắng đã chẳng nghiêng về hai người bọn họ. Vì sao y lại từ bỏ ưu thế để làm một việc vô nghĩa như vậy?
Phải biết rằng ván này không phải cược tiền, cược đồ mà là cược mạng.
Hải Lan Châu căng thẳng đến nghẹt thở. Tính mạng bản thân và gia đình cô cùng an nguy của Đông lăng hoàn toàn phụ thuộc vào Hứa Nhất Thành. Cứ thế này, y sẽ kéo theo cả những người khác rơi xuống vực thẳm. Nỗi lo dồn ứ trong ngực Hải Lan Châu, không sao trút ra được, không gian dưới hầm nhỏ hẹp lại càng khiến cô thêm phần bức bối. Cuối cùng cô không nhịn nổi nữa, đẩy nhẹ lưng Hứa Nhất Thành cao giọng hỏi, “Anh làm cái quái gì thế?”
Đáng ngạc nhiên là lần này Vương Thiệu Nghĩa không mắng cô làm ồn, Cao Toàn và Biện Phúc Nhân cũng chẳng kháng nghị. Bởi đám người trong gian Âm ti đều muốn biết Hứa Nhất Thành rốt cuộc định làm gì. Trước câu hỏi của cô, Hứa Nhất Thành chậm rãi ngoảnh lại mỉm cười tươi tắn, hệt như lúc đứng trước cổng Đông lăng vẽ ký họa hai hôm trước vậy. Hải Lan Châu nín thở, bỗng dưng không biết nên hỏi tiếp thế nào.
“Yên tâm đi, cứ giao cả cho tôi.” Hứa Nhất Thành bình tĩnh buông ra tám chữ rồi lại quay đi. Hải Lan Châu thở hắt ra, tuy vẫn không biết y tính toán thế nào, song nghe y nói vậy nỗi lo trong lòng cũng giảm bớt phần nào, không gặng hỏi nữa.
“Anh chọn nhanh lên.” Biện Phúc Nhân giục giã, còn cố ý nhân mạnh chữ “chọn”, nghe giọng Sơn Tây đầy châm chọc. Trên bàn vốn có mười tám món, Cao Toàn và Biện Phúc Nhân mỗi người năm món, Hứa Nhất Thành đập bốn, còn bốn. Dù y vơ lấy tất cả số còn lại, cũng không có cửa thắng.
Hứa Nhất Thành ôn hòa nhìn Biện Phúc Nhân, khiến gã cứng họng, không sao nói nốt mấy lời cay nghiệt.
Hứa Nhất Thành cũng chẳng để tâm đến ánh mắt những người xung quanh, nhặt ngay chiếc chén Âu vàng bền vững chạm hoa cỏ quấn lấy nhau. Chiếc chén vàng này được làm theo dạng đỉnh, rất tinh xảo, ba chân là ba vòi voi choãi ra đỡ lấy thân chén, hai tai là hai con quỳ long thẳng đứng. Hứa Nhất Thành mân mê nó trong tay một lúc rồi lại mở Kim Đáy Bể ra. Mọi ánh mắt đều đổ dồn vào tay trái Hứa Nhất Thành, muốn xem lần này y sẽ rút ra dụng cụ gì. Chỉ thấy ngón tay y múa lên như làm xiếc, thoắt chốc một món dụng cụ đã rơi vào tay, cứ như tự động nhảy ra vậy.
Đó là một dụng cụ gần giống răng người, đầu dẹt mũi nhọn, vừa giống răng vừa giống chày. Hứa Nhất Thành dùng đầu chày gõ lên thân chén nghe tiếng, rồi quay đầu nhọn rạch lên chén, xoa ngón tay qua, thấy bề mặt chén gần như không để lại dấu vết.
Cao Toàn và Biện Phúc Nhân đồng loạt ồ lên. Đồ vật bằng vàng có một đặc điểm là hàng thật dễ biến dạng nhưng không dễ gãy vỡ, còn hàng giả dễ gãy vỡ nhưng không dễ biến dạng. Chén vàng này gõ vào nghe tiếng trầm đục, rạch vào lại không thành vết, rõ không phải vàng ròng. Đây là vật thiên tử chuyên dùng trong lễ khai bút đầu xuân hằng năm, “Âu vàng bền vững” ngụ ý vương triều Đại Thanh kéo dài mãi mãi. Đồ tế lễ quan trọng nhường ấy sao có thể là vàng pha được? Huống hồ vật quan trọng như vậy lại xuất hiện trong mộ một hoàng quý phi, quả là vô lý.
Lần này Hứa Nhất Thành lại nhặt một món hàng giả, nhưng như thế thì sao chứ?
Bắt đầu vòng thứ sáu, trên bàn chỉ còn ba thứ. Cao Toàn và Biện Phúc Nhân mỗi người chọn một món, đặt trước mặt mình, chỉ để lại một món cho Hứa Nhất Thành.
Trong mắt bọn họ, Hứa Nhất Thành đã không còn nguy hiểm nữa. Mỗi người ẵm được sáu món, coi như ngang tài ngang sức. Đưa mắt nhìn nhau, ánh mắt cả hai đều sắc lạnh. Rồi họ lại nhìn lảng đi, đợi Hứa Nhất Thành đưa ra lựa chọn và cũng là phán quyết cuối cùng.
Dưới cái nhìn lom lom của mọi người, lần này Hứa Nhất Thành không dùng Kim Đáy Bể mà tự vươn tay ra, nhặt món cuối cùng đặt xuống trước mặt mình. Đó là một thứ tương đối đặc biệt, một búp bê bằng bạc to cỡ chiếc cốc cao, thuôn thuôn như củ lạc, con búp bê Tây được vẽ tóc vàng, môi mỉm cười, thân hình và tay chân choán hết bề mặt, nhìn rất tròn trặn mũm mĩm.
Cách ăn mặc của búp bê khác hẳn người Trung Quốc, xung quanh còn khảm mấy lớp đá quý. Hình dáng lạ lùng, song chất liệu khá quý giá.
Đây hẳn là đồ nước ngoài tiến cống, Cao Toàn và Biện Phúc Nhân không chọn nó bởi không nắm rõ thật giả, để chắc ăn, chi bằng chừa lại cho Hứa Nhất Thành.
Đã đến nước này, dù có là thật cũng ích gì đâu?
Vương Thiệu Nghĩa cười gằn, nhìn Hứa Nhất Thành, “Anh cũng tinh đấy, lọc ra được hết những đồ giả ta trộn lẫn vào. Có điều ta đã nói rồi, ai nhiều đồ thật hơn là thắng.”
Hứa Nhất Thành tủm tỉm cười, giơ ngón trỏ lên, “Các vị đợi đã.”
Vương Thiệu Nghĩa nói, “Luật chơi ta đặt ra, đừng hòng kẻ nào thay đổi. Anh mau tỉnh lại đi.” Nói tới đó, lão chợt khựng lại, bởi nhác thấy Hải Lan Châu sáng mắt lên mừng rỡ. Vương Thiệu Nghĩa vốn xảo quyệt, cảm thấy việc này rất lạ, nhưng lạ ở đâu thì nghĩ mãi không ra.
Hứa Nhất Thành nhẹ nhàng nắm lấy đầu búp bê nhổ lên. Cao Toàn và Biện Phúc Nhân trợn tròn mắt, hóa ra bên trong con búp bê này còn một con giống y hệt, chỉ tội nhỏ hơn.
Rồi như làm ảo thuật, Hứa Nhất Thành lần lượt nhổ năm lần, bên trong búp bê này lại có một búp bê khác, tổng cộng sáu con, bày thành một dãy, đẹp đẽ tinh xảo. Hứa Nhất Thành cười giải thích, “Các vị không biết cũng phải. Thứ này không phải hàng Trung Quốc, mà là bộ búp bê Matryoshka của Nga, cứ lớp ngoài bọc lấy lớp trong. Món đồ này được người Nga phát minh ra vào năm Quang Tự thứ hai mươi sáu, về sau được Sa hoàng chọn làm tặng phẩm ngoại giao, cho đúc bằng vàng bạc, sai công sứ đưa mấy bộ đến Trung Quốc, chia cho người trong cung thưởng lãm. Năm Quang Tự thứ ba mươi Thục Thận hoàng quý phi qua đời, bộ búp bê này cũng được chôn theo.”
Nếu mỗi con búp bê tính là một món thì ở đây vừa khéo có sáu món, ngang bằng hai người kia.
Cao Toàn tức giận đứng phắt dậy, “Rõ ràng anh tách một món thành sáu, không tính!” Hứa Nhất Thành thản nhiên đáp, “Vậy bốn tấm bình phong tính là mấy món? Một bộ đồ trà sứ Nhữ là mấy món?” Cao Toàn cứng họng.
Trong giới cổ vật, “một bộ” và “một món” là hai khái niệm khác hẳn nhau. Ví như bình phong, nếu tách rời từng tấm để bán gọi là “món” còn gộp lại gọi là “bộ”. Bán theo bộ được giá hơn theo món nhiều. Bộ búp bê Nga này hợp lại là một bộ, tách ra lại thành sáu con riêng rẽ, chẳng có gì không ổn cả.
“Nhưng chính anh đã nói… thứ này đến năm Quang Tự thứ hai mươi sáu mới ra đời, sao có thể coi là cổ vật được?” Nói đến cuối câu, Cao Toàn nín bặt, tự thấy mình đuối lý.
Hải Lan Châu suýt bật cười thành tiếng, đám lái buôn cổ vật Trung Quốc chỉ chăm chăm nghiên cứu tài liệu cổ, đâu biết những món đồ chơi đời mới của phương Tây. Bộ búp bê này thếp vàng khảm bạc, lại lấy từ mộ hoàng quý phi ra, hoàn toàn có thể coi là cổ vật. Hứa Nhất Thành lách luật thật giỏi.
Cao Toàn định chỉ trích tiếp thì Biện Phúc Nhân lạnh lùng ngăn lại, “Anh Toàn ngồi xuống, từ từ ngẫm nghĩ đi.” Cao Toàn nhíu mày, toan cãi lại, song sực nghĩ ra gì đó, ánh mắt lạc hẳn đi.
Đúng vậy, Hứa Nhất Thành đã lách luật, biến một món thành sáu. Vậy kết quả là gì?
Kết quả là mỗi người đều có sáu món hàng thật, hòa nhau.
Nếu Hứa Nhất Thành muốn thắng họ, chỉ cần mỗi lượt chọn ra một món đồ thật, cuối cùng chọn con búp bê kia là có thể dễ dàng đứng đầu. Nhưng y không làm vậy, mà lượt nào cũng đập vỡ một món đồ giả. Bấy giờ Cao Toàn mới nhận ra trận hòa này không phải ngẫu nhiên mà do Hứa Nhất Thành cố ý dàn xếp. Cao Toàn vội nhìn sang Biện Phúc Nhân, thấy đối phương khẽ gật đầu, ý bảo y nghĩ không sai.
Từ đầu ván, nhất cử nhất động của Hứa Nhất Thành đều nằm trong tính toán, tính xem phải phá hủy bao nhiêu món đồ giả, trong tay mỗi người phải có bao nhiêu món đồ thật, mới có thể đi đến kết quả hòa chung cuộc. Nói cách khác, ngay từ đầu Hứa Nhất Thành đã biết rõ món nào thật món nào giả, hơn nữa cũng nắm chắc hai người bọn họ sẽ không chọn bộ búp bê quan trọng kia.
Thắng không khó, hòa mới khó. Để hòa được ván này phải giỏi tính toán và điềm tĩnh đến chừng nào?
Cao Toàn ngồi phịch xuống ghế, thất thần.
Tại sao? Sao y phải mất công làm vậy?
Kết quả này hoàn toàn vượt ra ngoài tưởng tượng của Vương Thiệu Nghĩa. Lão miết ngón tay, nét mặt âm trầm khó đoán, lớp lớp nếp nhăn đổ bóng đen dưới ánh đèn. Đúng lúc này Hứa Nhất Thành chắp tay nói, “Trung đoàn phó Vương, đồ vật trong mộ Từ Hi rất nhiều, một người khó mà ôm trọn. Nếu đã hòa, hẳn là ý trời, chi bằng chia hàng cho cả ba đi. Nhất Thành tuy không tin Phật song cũng biết con người có đức hiếu sinh, cần gì lấy mạng người vô ích.”
Nghe vậy, Cao Toàn và Biện Phúc Nhân không hẹn mà cùng rướn về phía trước, trợn tròn mắt, suýt bật kêu thành tiếng.
Hóa ra Hứa Nhất Thành làm vậy để cứu họ - hai kẻ chỉ chăm chăm dồn y vào chỗ chết.
Cả hai không phải kẻ ngu ngốc, vừa nghĩ đã hiểu ra ngay. Ván này Vương Thiệu Nghĩa bày ra, chỉ cần phân thắng bại sẽ có ngay hai người chết. Hứa Nhất Thành dốc hết tâm sức, bất chấp hiểm nguy mới cầm hòa được. Một khi đã hòa, cả ba không ai phải chết, cũng dễ ăn nói với Vương Thiệu Nghĩa. Nghĩ tới đó, biểu cảm của Cao Toàn và Biện Phúc Nhân trở nên vô cùng phức tạp, bái phục, hàm ơn, áy náy, thậm chí còn đôi chút không cam lòng.
Hải Lan Châu biết Hứa Nhất Thành đã nắm rõ những món nào có trong danh sách đồ tùy táng, thừa sức giành phần thắng. Nhưng cô không ngờ y lại lựa chọn thế này. Đưa mắt nhìn Hứa Nhất Thành, cô thấy y chăm chú nhìn Vương Thiệu Nghĩa, vẻ bình thản còn thấp thoáng vài phần thương xót.
Hứa Nhất Thành lại khum tay hỏi, “Trung đoàn phó Vương, chúng ta dừng ở đây, hàng thì chia ba, ngài thấy sao?”
Nếu y thốt ra lời này ngay từ đầu thì đừng nói Vương Thiệu Nghĩa mà ngay hai người kia cũng không chịu, cho rằng Hứa Nhất Thành núng thế. Giờ y dựa vào trí tuệ cầm hòa làm tất cả rúng động, đề ra yêu cầu này, lại thành đức độ.
Vương Thiệu Nghĩa không vội đáp mà nhấc tay phải đặt trên bàn lên, quẹt ngón trỏ dưới mũi rồi vặn lại, “Phú quý động nhân tâm. Sao anh không ăn một mình mà lại đem món lợi lớn chia cho người khác. Huống hồ hai người kia vừa rồi còn định ép chết anh?”
Hứa Nhất Thành nghiêm trang đáp, “Âm ti trong miếu Thành Hoàng nhằm nhắc nhở người đời đừng làm việc ác kẻo sau khi chết sẽ bị đày xuống địa ngục, chịu giày vò thê thảm. Tôi không muốn vì món lợi lớn mà làm hại mạng người, tổn âm đức để phải xuống dạo một vòng âm tào địa phủ thật đâu.” Dứt lời y đưa mắt nhìn một lượt những pho tượng ma quỷ xung quanh.
Hải Lan Châu thở hắt ra, đẩy vai y trách móc, “Anh cũng giỏi lừa người quá đấy…” Hứa Nhất Thành thản nhiên đáp, “Gặp thời thế thế thời phải thế, tôi lừa để cứu người đấy thôi.”
Vương Thiệu Nghĩa chợt phá lên cười, “Nói hay lắm! Anh chàng này có thủ đoạn, có trách nhiệm, lại có quyết đoán, ta ưng đấy.” Nghe lão nói thế, không khí trong gian Âm ti nhẹ nhõm hẳn. Cao Toàn và Biện Phúc Nhân lập tức đứng dậy khum tay tạ lỗi với Hứa Nhất Thành. Hai người vừa dạo qua Quỷ môn quan, giờ mới như trút được gánh nặng, luôn miệng nhường phần lợi lớn cho Hứa Nhất Thành, mình chỉ xin phần nhỏ.
Ba người đang chuyện trò rôm rả chợt Vương Thiệu Nghĩa xoay cổ tay, chẳng biết lôi đâu ra một cây súng ngắn. Đoàng đoàng hai tiếng, cả gian Âm ti chấn động, bụi đất rơi rào rào, Hứa Nhất Thành lạng người chắn trước mặt Hải Lan Châu theo phản xạ, cả hai thấy mắt tối sầm, tai ong lên. Đến khi lấy lại được cảm giác, Hứa Nhất Thành ngẩng đầu nhìn lên, ánh mắt bỗng đờ ra.
Cao Toàn và Biện Phúc Nhân nằm dưới đất, ngực loang đỏ máu, rõ ràng đã tắt thở. Máu tươi tung tóe, bắn đầy lên đống tượng quỷ và đèn lồng giấy. Hứa Nhất Thành tái xanh mặt, “Sao ngài lại nuốt lời?”
Vương Thiệu Nghĩa thổi họng súng, điềm nhiên đáp, “Ông mày đã nhận lời gì đâu, đây là địa bàn của tao, phải theo quy củ của tao. Mày thắng thì hai tên kia phải chết.” Hứa Nhất Thành đổ người về phía trước, vai run bắn lên, phẫn nộ tột độ. Vương Thiệu Nghĩa lại giơ súng nhằm thẳng vào đầu y, “Liệu hồn, đừng tự cho là mình thông minh mà ra luật thay tao nữa, nghe chưa?”
Hứa Nhất Thành nhìn chằm chằm Vương Thiệu Nghĩa, không né tránh, cũng chẳng cầu xin. Hải Lan Châu trông mà mồ hôi ướt đẫm lòng bàn tay, dường như đã qua một lúc lâu, lại dường như mới chỉ mấy phút, Hứa Nhất Thành nhắm nghiền mắt lại, lần đầu tiên để lộ vẻ mệt mỏi. Hải Lan Châu đứng bên cạnh thấy tình cảnh này cũng không khỏi xót xa. Dù Hứa Nhất Thành mưu trí bằng trời, tính toán trăm đường thì cũng bó tay trước tên thổ phỉ bất cần đạo lý này.
Căng thẳng một hồi, thình lình Vương Thiệu Nghĩa thu súng lại cười nói, “Cứng đầu quá nhỉ. Giờ tao còn phải nhờ mày xuất hàng, tạm tha cho mày đấy.” Có thể thấy Vương Thiệu Nghĩa khá tán thưởng Hứa Nhất Thành. Nào ngờ Hứa Nhất Thành lạnh lùng hỏi, “Ngài không sợ tôi quay về kinh thành báo cảnh sát sao?” Vương Thiệu Nghĩa hờ hững giơ chân đá vào hai cái xác, “Hai tên này là đầu danh trạng mày nộp, còn báo cảnh sát nỗi gì?”
Năm xưa Lâm Xung lên Lương Sơn, Vương Luân sai y xuống núi giết bừa ai đó, gọi là đầu danh trạng, mang lấy tội giết người như thế mới có thể nhập bọn. Giờ Cao Toàn và Biện Phúc Nhân là đầu danh trạng Vương Thiệu Nghĩa nộp thay Hứa Nhất Thành. Chiêu này hết sức tàn độc, bởi một khi ván cược dưới Âm ti lan truyền ra, sẽ chẳng ai tin Hứa Nhất Thành từng cứu người, chỉ cho rằng hai người kia cược thua mà chết, tính sổ hết cho y. Cái danh Gia Cát ác của Vương Thiệu Nghĩa quả không ngoa.
Hứa Nhất Thành còn chưa kịp đáp, Vương Thiệu Nghĩa đã trỏ Hải Lan Châu, “Còn nữa, con bé này bất luận có quan hệ thế nào với mày, cũng phải ở lại thành Bình An chơi mấy bữa. Khi nào xong việc hẵng về chẳng muộn.”
Hứa Nhất Thành và Hải Lan Châu tái mặt. Hóa ra Vương Thiệu Nghĩa không chỉ nạp đầu danh trạng, mà còn muốn giữ con tin. Hứa Nhất Thành xẵng giọng, “Không được. Lúc trước ngài đâu có nói thế.”
Vương Thiệu Nghĩa nhếch mép, “ừ tao không nói thế. Nếu mày cứ thắng quách đi thì đâu rầy rà thế này. Ai bảo mày tự cho mình thông minh, khăng khăng đòi chia ba? Hàng của tao đến lượt mày quyết định à? Không giữ con tin biết đâu mày lại giở trò thì sao?” Nói xong chẳng đợi Hứa Nhất Thành đáp lời, lão nhanh nhẹn giắt súng vào thắt lưng, quay lại bảo tay chủ quán trọ, “Mở cửa, thu xác.”
Chủ quán trọ cầm một cây sào dài chọc vào cửa hầm. Lập tức bên trên có người mở cửa ra, không khí trong lành ùa vào, át bớt mùi máu tanh. Vương Thiệu Nghĩa lên trước, sau đó mấy tên trai tráng trèo xuống, nhanh nhẹn khiêng hai cái xác lên, chúng vừa đi khỏi, bên trong liền lặng phắc như tờ, chỉ còn hai người bọn Hứa Nhất Thành. Dù sao nơi này cũng chẳng có lối ra nào khác nên chúng chẳng buồn giục giã.
Hứa Nhất Thành đứng bất động như tượng. Hải Lan Châu vươn tay ra, chạm vào nắm tay y siết mạnh, lo lắng hỏi, “Anh không sao chứ?” Một lúc lâu sau Hứa Nhất Thành mới thở dài mệt mỏi, “Tự cho mình thông minh, tôi đúng là kẻ không biết tự lượng sức. Chẳng những hại chết hai người vô tội, còn liên lụy cô rơi vào hang hùm miệng cọp.”
Hải Lan Châu khuyên nhủ, “Gặp phải đám thổ phỉ bất chấp đạo lý như thế, biết làm sao được, anh đã cố hết sức rồi mà. Tôi cũng là người trưởng thành, phải dốc sức vì tông thất, làm con tin thì làm con tin thôi.”
“Nguy hiểm lắm. Bọn Vương Thiệu Nghĩa không như thổ phỉ bình thường đâu.”
“Nên anh phải mau về báo với tông thất rồi quay lại cứu tôi.” Hải Lan Châu nhoẻn cười, “Đừng coi thường, tôi học được nhiều thứ ở Anh lắm. Bằng không anh Dục Phương cũng chẳng yên tâm cho tôi đi đâu.” Đột nhiên cô nảy ý đùa dai, muốn xem Hứa Nhất Thành lo lắng cho mình như thế nào, bèn nói, “Cùng lắm thì lấy quách lão già đó làm áp trại phu nhân chứ gì.”
Hứa Nhất Thành đanh mặt, “Không được nói bậy!”
Cả hai đang nói chuyện thì nghe phía trên nắp hầm lạch cạch, rồi chủ quán trọ lại xách đèn lồng tụt xuống, “Nơi này không tiện ở lâu, mời hai vị lên cho.”
Hứa Nhất Thành và Hải Lan Châu đang định trèo lên, chợt chủ quán trọ lại nói, “Hượm đã.” Hứa Nhất Thành dừng bước, cau mặt, “Ông vừa bảo bọn tôi lên, giờ lại bảo bọn tôi hượm đã là ý gì?” Chủ quán trọ đặt đèn lồng xuống, chăm chú nhìn y, “Anh là người của Minh Nhãn Mai Hoa ư?”
Hứa Nhất Thành lần này không dùng tên giả, bởi y cũng không mấy tiếng tăm trong giới cổ vật. Chẳng ngờ lại bị một tay chủ quán trọ ở thành Bình An vạch trần thân phận.
Phen này gay go to, lỡ có chuyện gì đám thổ phỉ này lại tới báo thù Minh Nhãn Mai Hoa thì loạn mất.
Thấy y lộ vẻ hoảng loạn, chủ quán trọ giơ tay trỏ băng vải đen giắt Kim Đáy Bể mà Hứa Nhất Thành quấn quanh thắt lưng, “Đây gọi là Kim Đáy Bể phải không?” Hứa Nhất Thành gật đầu đáp phải. Chủ quán trọ thở gấp, vươn tay ra định chạm vào. Hứa Nhất Thành ngỡ ông ta đòi hối lộ, bèn ra điều kiện, “Ông muốn thì cứ lấy đi, nhưng phải làm cho tôi một việc.”
Chủ quán trọ cười khà, “Tôi đâu có chơi đồ cổ, lấy thứ này làm gì? Chẳng qua nó vốn có liên quan tới tổ tiên tôi, phận con cháu này chỉ nghe nói chứ chưa từng thấy tận mắt, lần này may có dịp nên muốn xem thôi.”
Hứa Nhất Thành nhíu mày hỏi, “Liên quan thế nào vậy?”
Chủ quán trọ trỏ vào hình mây tứ hợp như ý đóng ở viền lớp da trâu, “Hồi nãy tôi không dám chắc, nhưng thấy hoa văn mây tứ hợp như ý có thêm một vầng mặt trời liền nhận ra ngay. Đây gọi là hoa văn vén mây, cũng là ký hiệu của gia tộc tôi. Xem ra bộ Kim Đáy Bể này do chính tay tổ tiên tôi rèn đây mà.”
Hứa Nhất Thành bàng hoàng. Bộ Kim Đáy Bể này là tác phẩm của một người thợ khéo họ Âu Dương vào thời Càn Long. Bấy giờ ông ta gặp rắc rối, nhờ Minh Nhãn Mai Hoa dốc sức giúp đỡ mới thoát được. Để trả ơn, ông ta đã chế ra một bộ dụng cụ giám định dựa trên phương pháp giám định của Minh Nhãn Mai Hoa đem dâng tặng, được cả Minh Nhãn Mai Hoa coi như báu vật. Không ngờ trong ổ giặc cướp ở thành Bình An này, y lại gặp được con cháu người ấy.
Chủ quán trọ gọi được hẳn tên con dấu trên da trâu, xem ra chuyện này là thật.
“Ông họ Âu Dương à?”
“Phải. Khi nãy anh vừa rút ra, tôi đã nhận ra rồi. Cụ tổ nhà tôi trăng trối rằng nếu thấy ai có vật này thì là con cháu của ân nhân. Dù là kẻ thù cũng phải nể tình ba phần.”
“Vậy ông…” Hứa Nhất Thành chợt nảy ra một ý.
Giọng chủ quán trọ đầy trào phúng, “Ân tình mấy đời trước, đến nay cũng chẳng còn gì. Huống hồ dù tôi có muốn cứu hai người, trung đoàn phó Vương cũng chẳng cho nào. Nể bộ Kim Đáy Bể này, tôi sẽ chăm sóc tiểu thư đây giúp anh, không để kẻ khác quấy rầy. Tôi chỉ làm được có vậy thôi.”
“Vậy cảm ơn ông…” Hứa Nhất Thành biết như vậy đã là may mắn lắm rồi. Bằng không cô nàng Hải Lan Châu trói gà không chặt ở giữa đám thổ phỉ như hổ sói này quả thực quá sức nguy hiểm.
“Mau lên đi, bằng không trung đoàn phó Vương sẽ nghi đấy.” Chủ quán trọ giục.
Ba người leo lên mặt đất. Hải Lan Châu hít lấy hít để mấy ngụm không khí, lồng ngực phập phồng, làm đám phỉ xung quanh xì xầm bàn tán. Chủ quán trọ dẫn họ rời khỏi miếu Thành Hoàng, đi ra phố. Chẳng bao lâu sau Hứa Nhất Thành thấy có mấy tên lính giải hai người từ cửa huyện nha đi ra. Khỏi cần hỏi, dĩ nhiên là Hoàng Khắc Vũ và Phó Quý.
Mọi người gặp nhau đều có rất nhiều chuyện muốn nói, nhưng ngại tay chủ quán trọ ở đó nên chỉ đưa mắt trao đổi qua loa.
Chủ quán trọ nói, “Xe ngựa của anh ở cổng thành, đi lúc nào cũng được. Còn cô Hải Lan Châu phải theo chúng tôi về.”
Hải Lan Châu nhìn Hứa Nhất Thành rồi đột ngột dang tay ôm lấy cổ y như người phương Tây, tì cằm lên vai y, nước mắt lã chã dặn dò, “Anh nhất định phải đến đón em đấy, đừng bỏ lại em ở đây một mình.”
Hứa Nhất Thành cứng cả người, theo phản xạ định đẩy cô ra. Hải Lan Châu khẽ nói, “Đóng kịch phải đóng cho giống chúng mới khỏi nghi chứ.” Liếc đám thổ phỉ xung quanh, Hứa Nhất Thành biết Hải Lan Châu nói không sai. Vương Thiệu Nghĩa yên tâm để y trở về Bắc Kinh, không chỉ vì hai mạng người đầu danh trạng kia mà còn bởi giữ được con tin Hải Lan Châu. Hải Lan Châu càng quyến luyến thì món phỉnh cược này càng có giá, cô sẽ càng được an toàn.
Nghĩ thế, Hứa Nhất Thành ngượng nghịu vỗ lưng cô, cuối cùng Hải Lan Châu cũng đẩy y ra, lau nước mắt rồi hất tóc bảo chủ quán trọ, “Dẫn đường đi, tôi phải ở phòng tốt mới được, chỗ xập xệ quá tôi không chịu nổi đâu.”
Chủ quán trọ lạnh lùng đáp, “Trung đoàn phó Vương đã dặn rồi, chúng tôi sẽ tiếp đãi cô tử tế.”
Hải Lan Châu được tay chủ quán trọ dẫn đi, còn những người khác bị đưa ra khỏi thành, xe ngựa đỗ ngay trước cổng thành, bên trên lủng lẳng một ngọn đèn lồng giấy lấm tấm máu, rõ ràng là ngọn đèn tay chủ quán trọ cầm trong gian Âm ti khi nãy. Đây là lời cảnh cáo của Vương Thiệu Nghĩa.
Xe ngựa đi đêm cực kỳ nguy hiểm, ngựa kéo không thấy đường, bất cứ lúc nào cũng có thể lật xe. Nhưng Hứa Nhất Thành không muốn đợi thêm một giây nào nữa, vừa lên xe đã yêu cầu quay về Bắc Kinh càng nhanh càng tốt. Phó Quý và Hoàng Khắc Vũ thấy mặt y tái xanh thì chẳng dám hỏi gì thêm, cũng lục tục lên theo.
Xe ngựa lọc cọc nhằm hướng thành Bắc Kinh, ngồi trên xe, Hứa Nhất Thành mới thuật lại mọi chuyện dưới gian Âm ti, làm Hoàng Khắc Vũ và Phó Quý sững sờ. Tên Vương Thiệu Nghĩa này đi một bước tính ba bước, thủ đoạn lại tàn độc, thực không hổ là Gia Cát ác.
Phó Quý nhận xét, “Cậu cũng tử tế quá, giữ được mạng dưới tay lão đã tốt lắm rồi, còn định cứu người nữa?”
Hứa Nhất Thành buồn rầu, “Hai mạng người… cứ thế bị chôn vùi. Ai biết được trước đây Vương Thiệu Nghĩa và người Nhật còn hại bao nhiêu mạng người nữa?”
Hoàng Khắc Vũ ngập ngừng giây lát rồi nói, “Cháu thấy… lần này chú nhầm rồi.”
Hứa Nhất Thành chậm rãi quay sang, ánh mắt ngạc nhiên. Hoàng Khắc Vũ rút trong ngực áo ra một vật, là một mảnh bia vỡ, Hứa Nhất Thành trông thấy thì ngỡ ngàng ra mặt.
Hoàng Khắc Vũ giải thích, “Sau khi chú và chị Lan Châu được đưa ra sau miếu Thành Hoàng, chú Phó Quý và cháu bị giải tới huyện nha ngay sát vách miếu, giam vào nhà lao. Cháu tức điên người, hỏi tên lính canh sao lại coi bọn cháu là phạm nhân giam vào ngục được, có biết bọn cháu là người của Hứa Nhất Thành không. Tên lính nói đó là luật ở thành Bình An, sợ bọn cháu nói bừa làm bậy, khi nào trung đoàn phó Vương nói chuyện xong sẽ thả bọn cháu ra. Còn bảo rằng không chỉ có mình bọn cháu bị giam ở đó đâu.”
“Còn có người khác ư?”
“Vâng, còn mấy người nữa, đều mặc áo ngắn, khoanh tay đứng trong nhà lao, mặt mày sa sầm.” Hoàng Khắc Vũ trả lời.
Phó Quý bổ sung, “Có lẽ là vệ sĩ do hai tay buôn muốn xuất hàng cho Vương Thiệu Nghĩa kia dẫn tới.”
“Vậy chắc giờ họ cũng không giữ được mạng đâu. Vương Thiệu Nghĩa cố ý tách người ra, nếu mua bán không thành sẽ giết luôn.” Hứa Nhất Thành than thở.
“Thực ra trong nhà lao còn mấy người nữa, phần lớn là những phú hào bị đám thổ phỉ này bắt từ các ngôi làng lân cận để đòi tiền chuộc. Có điều, trong số đó có một người liên quan tới chúng ta.” Hoàng Khắc Vũ không buồn úp mở mà thực thà kể ngay, “Đó là một người trung niên gầy gò, vận đồ thám hiểm, đeo kính dày cộp. Vừa nghe bọn cháu nhắc tên chú, ông ta bật dậy hỏi ngay có phải bọn cháu quen Hứa Nhất Thành không. Người này nói giọng lạ lắm, chẳng biết từ vùng nào.”
“Kido Yuzo à?” Hứa Nhất Thành nhướng mày, lờ mờ nhận thấy điều bất ổn.
Hoàng Khắc Vũ gật đầu, “Phải, ông ta tự xưng là Kido Yuzo, bạn của chú. Ngài Kido nói ông ta theo Đoàn khảo sát phong tục China tới Bắc Kinh, tình cờ gặp chú một lần mà như quen biết từ lâu, tiếc rằng mãi chưa có thời gian tới Thanh Hoa thăm chú. Mấy hôm trước đoàn khảo sát tổ chức một chuyến khảo sát điền dã gần Bắc Kinh, ông ta cũng tham gia, nào ngờ lại chạm trán thổ phỉ ở gần Tuân Hóa. Nòng cốt của đoàn khảo sát kịp thời chạy thoát, chỉ có ông ta xui xẻo bị thổ phỉ bắt về nhốt tại đây. Vừa nghe bọn cháu nhắc tới tên chú, ông ta mới lê đến hỏi thăm.”
Hứa Nhất Thành tái mặt.
Không phải y lo cho Kido Yuzo, mà là nhận ra mình đã mắc một sai lầm lớn.
Y vẫn cho rằng cái chết của Trần Duy Lễ có liên quan mật thiết tới mục đích Đoàn khảo sát phong tục China tới Trung Quốc. Đoàn khảo sát phong tục China nhòm ngó Đông lăng, thuê đám trộm mộ quật mồ Thục Thận hoàng quý phi, nên chỉ cần điều tra ra lai lịch bọn trộm thì sẽ dễ dàng lần ra mối liên hệ với người Nhật. Cũng chính vì vậy y mới tới thành Bình An.
Song Kido Yuzo lại xuất hiện trong nhà lao huyện nha thành Bình An, làm lung lay giả thuyết này.
Kẻ trộm Đông lăng là bọn thổ phỉ Mã Phúc Điền, Vương Thiệu Nghĩa. Mà bọn chúng lại đánh úp Đoàn khảo sát phong tục China, bắt Kido Yuzo. Có nghĩa là đám trộm mộ này không hợp tác gì với Đoàn khảo sát phong tục China cả, suy luận của y đã sai ngay từ đầu.
Như vậy chứng cứ khiến Hứa Nhất Thành cho rằng người Nhật nhòm ngó Đông lăng chỉ có chữ “lăng” và năm dấu tay nhuốm máu in trên nửa mảnh giấy, quá khiên cưỡng.
Nói cách khác, lần này tới thành Bình An phải trả giá rất đắt nhưng chưa chắc đã nên cơm cháo gì. Nghĩ tới đó, kẻ bình tĩnh như Hứa Nhất Thành cũng vã mồ hôi lạnh. Nhưng y nhanh chóng điều chỉnh lại tâm trạng, “Dù không liên quan tới cái chết của Duy Lễ thì giờ chúng ta cũng đành đâm lao theo lao thôi. Ta không thể không cứu Hải Lan Châu hay mặc chúng đào xới Đông lăng được.”
Nhìn vẻ mặt Hứa Nhất Thành thoắt sáng thoắt tối, Hoàng Khắc Vũ sợ y nghĩ ngợi quá nhiều, bèn chuyển chủ đề hỏi, chú quen ngài Kido thật ư?
Hứa Nhất Thành gật đầu yếu ớt, “Gặp có một lần, nhưng đó là tên mọt sách, không có mưu đồ gì đâu, lần này anh ta tới Trung Quốc chỉ đơn giản là muốn làm công tác học thuật. À phải, Kido Yuzo còn nói gì nữa không? Mảnh bia vỡ trong tay cháu là sao vậy?”
Hoàng Khắc Vũ kể tiếp, “Cháu bảo ông ấy rằng chú đang ở trong thành Bình An bàn chuyện làm ăn, bàn xong sẽ tranh thủ dẫn cả ông ấy đi. Song ông ấy từ chối, nói, ‘Sau lưng tôi là đế quốc Đại Nhật Bản, bọn thổ phỉ này không dám làm hại tôi đâu. Nhưng tôi có thứ này, nhờ cậu trao lại cho anh Hứa, phiền anh ấy chuyển cho trưởng đoàn Sakai.’ Nói rồi ông ấy đi đến góc phòng giam, vạch chiếc chiếu cỏ mục lấy nó ra. Cháu vừa xem đã nhận ra là một mảnh bia vỡ, bên trên khắc mấy chữ, nhìn nét chữ hình như là thời Bắc Ngụy. Nó đã vỡ nát thế này chẳng còn đáng tiền nữa, dù là thổ phỉ hay đám người trong lao cũng chẳng buồn tranh giành. Vậy mà lúc trao cho cháu, ngài Kido Yuzo tiếc đứt ruột. Ông ấy nói trong cuộc khảo cổ điền dã lần này, họ phát hiện được một ngôi mộ cổ thời Bắc Ngụy đã bị đào bới một nửa, còn đang xem xét thì gặp phải phỉ. Chúng chỉ nhăm nhăm quật mồ lấy đồ tùy táng, không hề quan tâm tới việc ghi lại danh sách các đồ vật đào được và phân lớp thổ nhưỡng gì cả. Tấm bia đá này vốn được bảo tồn hoàn hảo, kết quả lại bị chúng bê ra đập cửa mộ, làm cho vỡ vụn. Ông ấy cố hết sức mới giành được một mảnh vỡ. Đây là bia cổ thời Bắc Ngụy, nếu kịp rập lại văn bia, chưa chừng có thể giải quyết rất nhiều nghi vấn trong lịch sử trung cổ, sao lại đập vỡ cơ chứ, quả là đáng tiếc…”
Bản thân Hoàng Khắc Vũ cũng là kẻ trân quý cổ vật nên rất hiểu cảm nhận của Kido Yuzo. Đám thổ phỉ đó chẳng hiểu gì hết, trong mắt chúng chỉ vàng bạc châu báu mới có giá trị, còn những thứ khác chúng đập được là đập, phá được là phá, rất nhiều cổ vật quý giá đã bị hủy hoại như thế.
“Ngài Kido bảo cháu giữ lấy mảnh bia vỡ, còn dặn đi dặn lại rằng thứ này nhất định phải được đưa về Nhật nên bắt buộc phải đem được nó ra, còn về phần ông ấy thì mọi người không cần lo. Sau đó ông ấy còn thao thao nói những gì cháu nghe chẳng hiểu. À phải, thái độ của ông ấy lúc nói những lời này rất giống chú mỗi khi nhắc tới khảo cổ ấy.”
Hoàng Khắc Vũ biết trong số dân chơi đồ cổ, có những kẻ si mê đến cuồng dại như si đá, si quạt hoặc si gương v.v… Kido Yuzo có thể coi là si khảo cổ, chỉ chăm chăm lo giữ gìn tấm bia vỡ, bất chấp cả tính mạng, đủ thấy ông ta thực sự say mê những thứ này. Người như thế trong Minh Nhãn Mai Hoa ngày nay cũng chẳng còn nhiều nữa. Hoàng Khắc Vũ từ nhỏ lớn lên trong giới cổ vật, tai nghe mắt thấy chỉ toàn là lợi ích và lục đục nội bộ. Bởi vậy khi gặp một kẻ sĩ như Kido Yuzo, cậu không khỏi rúng động.
Hứa Nhất Thành lặng thinh suy nghĩ.
“À phải, ông ấy còn nói mấy câu, cháu cũng chẳng hiểu có đúng không. Cháu bảo ông ấy rằng tấm bia cổ này là của người Trung Quốc, phải để lại đây. Song ông ấy trợn mắt nhìn cháu, hỏi cháu định bảo tồn nó ở đâu. Nhất thời cháu không trả lời được, giờ thế cục rối ren, người còn chẳng giữ được mạng, nói gì đến một tấm bia đá. Ông ấy bèn bảo cháu ở Nhật Bản có viện bảo tàng hàng đầu, những thứ này đặt ở đó sẽ được bảo tồn hoàn hảo. Điểm này người Trung Quốc chúng ta không thể làm được. Nếu cháu thực lòng trân quý văn vật thì nên tìm cho chúng một nơi gửi thân yên ổn chứ không nên để định kiến giữa các quốc gia và tự tôn dân tộc ảnh hưởng.”
Hứa Nhất Thành nhìn cậu, “Cháu thấy có lý không?”
Hoàng Khắc Vũ ngập ngừng, “Cháu thấy hơi lấn cấn, nhưng không nói lại được. Ngài Kido Yuzo nói văn vật tồn tại cả mấy nghìn năm, so ra thì sự tồn vong của một quốc gia chỉ có mấy chục đến mấy trăm năm, không thể bì được. Thay vì tranh chấp nó thuộc về quốc gia nào, chi bằng cân nhắc xem để ai bảo tồn thì tốt hơn, giúp nó trường tồn hơn…”
Nghe vậy, Hứa Nhất Thành nhíu mày, “Anh ta nói vậy à?” Hoàng Khắc Vũ gật đầu. Hứa Nhất Thành nhìn ra ngoài xe, song giọng nói chợt nghiêm trang hẳn, “Cháu nghe chuyện sáu ngựa Chiêu lăng chưa?”
Hoàng Khắc Vũ ngẩn người, “Chiêu lăng của Đường Thái Tông ư?”
“Sinh thời Đường Thái Tông có sáu thớt ngựa cưỡi, lần lượt là Quyền Mao Qua, Thập Phạt Xích, Bạch Đề Ô, Đặc Lặc Phiếu, Thanh Chuy, Táp Lộ Tử. Ông ta muốn khi chết đi vẫn có chúng làm bạn, bèn lệnh cho Diêm Lập Bản vẽ lại, Diêm Lập Đức điêu khắc, làm thành sáu tấm phù điêu trong Chiêu lăng. Đây đều là báu vật vô giá. Nhưng năm Dân Quốc thứ bảy, một tay buôn cổ vật tên Lư Cần Trai đã nạy Quyền Mao Qua và Táp Lộ Tử ra, bán cho người Mỹ với giá trên trời một trăm năm mươi nghìn đô la Mỹ. Để tiện vận chuyển, chúng đã đập vỡ phù điêu đưa lên tàu thủy bán sang Mỹ.”
Hoàng Khắc Vũ buột miệng “á” lên. Phù điêu quý ở chỗ hoàn chỉnh, vậy mà những kẻ này để tiện vận chuyển lại đập vỡ ra, quả là tàn nhẫn.
“Bốn bức còn lại vào năm Dân Quốc thứ mười một cũng bị Lư Cần Trai đánh cắp, may sao trên đường đưa ra khỏi Tây An thì bị chặn lại, coi như giữ được.” Hứa Nhất Thành nói, “Cháu nghĩ mà xem, lòng yêu văn vật không giới hạn quốc gia, nhưng nhà khảo cổ lại có tổ quốc. Người Mỹ bỏ ra món tiền khổng lồ như vậy để mua phù điêu thời Đường, quả thực là bởi say mê văn hóa Trung Hoa chúng ta, nhưng cháu nhìn kết cục của chúng xem. Nếu vì tiền thì bất luận bán tới quốc gia nào cũng là tai họa. Người Nhật mê thích văn hóa Trung Hoa, phải nói đứng đầu thế giới, vì say mê nên mới muốn đoạt lấy. Si mê đồ vật đến nỗi hại cả mạng người, Minh Nhãn Mai Hoa cũng chẳng hiếm thấy, huống hồ Nhật Bản? Cháu phải chú ý điểm này.”
Hoàng Khắc Vũ đỏ bừng mặt, ngượng nghịu vâng dạ. Hứa Nhất Thành nhắm mắt lại, tiếp tục trầm tư.
Đêm hôm ấy cũng may trời có mắt, xe ngựa chạy như điên mà không vấp váp lần nào. Xe đến cổng Tây Trực thành Bắc Kinh cũng là thời điểm trời tối nhất trước bình minh. Có điều tới đây xe không thể không giảm tốc, Phó Quý thò đầu ra, thấy mới sớm tinh mơ mà con đường ra ngoài thành đã đông nghịt người. Thôi thì đủ cả nào dân chúng lủng lẳng bọc to gói nhỏ, nào binh lính đầu quấn băng trắng, nào lái buôn xách rương mây, còn không ít viên chức chính phủ đeo kính đội mũ phớt. Tất cả túa ra ngoài thành theo cổng Tây Trực như chạy loạn. Giữa đêm tối, tiếng kêu khóc cãi vã nhốn nháo cả lên, thỉnh thoảng còn nghe tiếng súng bắn tỉa lạch tạch.
Xe ngựa chật vật mãi mới chen được đến cổng thành, đột nhiên một bóng đen liêu xiêu chạy đến, níu chặt cương ngựa la lớn, “Mọi người về rồi à!”
Cả ba định thần nhìn kỹ, hóa ra là Dược Lai. Giữa lúc tối tăm hỗn loạn này nó nhận ra được cỗ xe của họ, quả là giỏi.
“Sao cháu lại đến đây? Nhất Minh đâu?” Hứa Nhất Thành hỏi.
Dược Lai nức nở, “Cháu đợi mọi người. Nhất Minh anh ấy… bị người Nhật bắt mất rồi.”