CHƯƠNG 4:

Theo dấu hung thủ

Đông lăng nằm ở một khe núi thuộc châu Tuân Hóa. Nghe nói năm xưa hoàng đế Thuận Trị đến Tuân Hóa đi săn, chợt con chó săn vua thích nhất chạy vụt đi như điên, vua và một toán thị vệ liền thúc ngựa đuổi theo. Chó săn chạy qua triền núi thì ngã lăn ra đất, kiệt sức chết gần đỉnh núi, lúc chết đầu ngẩng cao, quay về phía Nam. Thuận Trị đuổi tới nơi, theo hướng đầu chó bước lên cao nhìn xuống, kinh ngạc thấy một luồng long khí bốc lên, lượn vòng trên không trung, bao bọc lấy non nước mấy chục dặm quanh đó.

Thuận Trị ra lệnh chôn cất con chó rồi tuyên bố, “Núi này vương khí dày đặc, rất hợp đặt lăng tẩm của trẫm.” Dứt lời bèn ném miếng ngọc trong tay ra, miếng ngọc chênh chếch rơi xuống núi. Thị vệ xuống núi tìm, chẳng mấy chốc đã thấy, bèn cắm cờ đánh dấu, đặt là huyệt báu.

Núi nọ là núi Xương Thụy, trung tâm của phong thủy Đông lăng; còn nơi miếng ngọc rơi xuống là Hiếu lăng của Thuận Trị dưới chân núi, nằm chính giữa Đông lăng. Lăng tẩm các hoàng đế, hoàng hậu và phi tần sau này được đặt rải rác xung quanh, lấy Hiếu lăng làm tâm, tạo nên một quần thể lăng mộ nguy nga hùng vĩ.

Thời Càn Long, đại sư phong thủy Lư Kỳ Tường có công chỉ đạo xây dựng vườn cảnh hoàng gia, được hoàng đế sai xây lầu phong thủy chữ Bát, bèn lò dò tới Đông lăng xem xét, vừa vào trong đã run bắn lên, đánh rơi la bàn xuống đất vỡ nát. Học trò hỏi sao lại run tay, Lư Kỳ Tường đáp phong thủy nơi này đã đạt đến tột đỉnh, bốn mặt núi bọc mà thoáng đãng, hai con sông chảy qua mà không tù đọng, đủ cả cát nước, dựa chầu đều đạt, muôn khe vạn mỏm, quả là lăng tẩm đế vương tạo hóa ban cho. Phong thủy đẹp nhường này thoạt nhìn là biết, chẳng cần dùng la bàn đo đạc nữa.

Những truyền thuyết ấy chẳng rõ thật giả, nhưng về phong thủy thì Đông lăng quả thực là đất báu cực phẩm. Tiếc rằng phong thủy tốt đến đâu cũng chẳng giữ mãi được vận khí của Mãn Thanh. Từ sau khi hoàng đế nhà Thanh thoái vị, lính Bát Kỳ, Lục Doanh, bộ Lễ Công, phủ Nội vụ v.v… vẫn canh giữ hoàng lăng chẳng có ai trả lương nên đã tan đàn xẻ nghé quá nửa, chỉ còn một nha môn phụ trách sự vụ Đông lăng ở thị trấn Mã Lan thoi thóp qua ngày dựa vào mấy đồng tiền còm của chính phủ Dân Quốc và tông thất quyên góp.

Giữa trưa hôm nay, trời nắng chang chang, ánh nắng tháng Năm đã hơi hơi độc, cả Đông lăng rộng mênh mông bị ánh nắng như đổ lửa ấy rót xuống như dầu sôi rót vào nồi, hơi nóng từ dưới đất ngùn ngụt bốc lên. Trời nóng như nung, vậy mà có người vẫn đứng trước cổng chào đá ở đầu Nam, thích thú quan sát nơi an nghỉ của hoàng tộc nhà Thanh.

Hứa Nhất Thành mặc quần soóc kaki màu vàng nhạt, áo cộc tay, đầu đội mũ lưỡi trai, trông giống hệt một nhà khảo cổ phương Tây. Y lúc thì nheo mắt giơ thước tam giác lên ngắm về phía Bắc, lúc lại hí hoáy vẽ gì đó lên bảng vẽ đem theo. Trời nắng gắt, chẳng mấy chốc trán đã đầm đìa mồ hôi, nhưng y chẳng buồn lau, chỉ mím môi chăm chú vẽ như một đứa bé mê mải với trò chơi của mình.

Nhìn theo ánh mắt y về phía Bắc là lối vào lăng mộ thênh thang thẳng tắp chạy dài đến phía Nam chân núi Xương Thụy, nối liền với Hiếu lăng. Những lăng mộ, bia đá, đền đài sắp hàng ngay ngắn hai bên lối vào, rộng mênh mông, toát lên vẻ trang nghiêm. Tiếc rằng đá xanh lát lối vào đã bị nạy mất khá nhiều, lồi lõm gồ ghề như nốt rỗ trên mặt Khang Hi. Nền đất đầy bụi bặm lá khô, bốn bề điện đổ tường nghiêng, cây cối quanh lăng cũng chẳng còn là mấy. Cả Đông lăng nguy nga, thoạt trông thì hùng vĩ, nhìn kỹ mới thấy tiêu điều khôn xiết.

Một người sống đứng trước cả tòa lăng mộ chết. Một lớn một nhỏ, một tĩnh một động, tạo nên cảnh tượng kỳ lạ khó tả.

Chẳng bao lâu sau, có một đoàn người ngựa kéo đến. Tới trước cổng chào đá, họ lũ lượt xuống ngựa, dập đầu quỳ bái. Người dẫn đầu hai tai dài như tai Phật, chính là Dục Phương, theo sau là Phú Lão Công và một gã béo trông hết sức sang cả, đi đứng rón rén cứ như dưới đất rải đầy đinh vậy. Sau lưng gã là một cô gái trẻ đẹp, để tóc ngắn, mặc váy đen áo trắng kiểu tân thời, cuối cùng là một ông già gầy đét, râu tóc bạc phơ nhưng hết sức nhanh nhẹn.

Cả đoàn đi qua cổng chào, đứng sau lưng Hứa Nhất Thành. Dục Phương tò mò rướn người lên nhìn, không kìm được hỏi, “Hứa tiên sinh vẽ gì thế? Tả thực không ra tả thực, đặc tả cũng chẳng phải đặc tả.”

Hứa Nhất Thành quay lại sửa vành mũ lưỡi trai rồi toét miệng cười. “Mấy khi được tới Đông lăng, tôi tiện thể phác họa khảo cổ ấy mà.”

“Ồ…” Dục Phương chẳng hiểu khảo cổ là gì, song không muốn lòi cái dốt, bèn phe phẩy quạt cười nói, “May mà giờ là thời Dân Quốc đấy, nếu ở thời Thanh thì dòm dỏ lăng mộ hoàng gia đã bị chém đầu rồi.”

Phú Lão Công hừ mũi, rõ ràng rất bất mãn trước hành vi lạm quyền của Hứa Nhất Thành.

Hứa Nhất Thành bèn đeo bảng vẽ lên lưng, nhét thước tam giác và bút chì vào túi áo. “Yên tâm đi, chuyện này chẳng liên quan gì tới phong thủy cả, không làm hỏng được long mạch phong thủy của các vị đâu.”

Mãn Thanh đã diệt vong mười mấy năm rồi, còn long mạch phong thủy gì nữa, rõ là Hứa Nhất Thành nói mỉa. Phú Lão Công trừng mắt, đang định mắng thì Dục Phương ngăn lại, khẽ lắc đầu. Lão đành hậm hực phẩy tay lùi sang một bên.

Dục Phương nhìn quanh. “Quả nhiên Dược tiên sinh không tới, vậy là Minh Nhãn Mai Hoa không muốn nhúng vào việc này phải không?”

Hứa Nhất Thành bình thản đáp, “Vụ trộm Đông lăng, Nhất Thành sẽ lo liệu.”

Dục Phương chăm chú nhìn y giây lát rồi cười khà, không hỏi thêm nữa, nghiêng mình nhường bước cho mấy người phía sau bước lên, lần lượt giới thiệu.

Kẻ đi đứng rón rén tên Dục Bành. Hứa Nhất Thành nghe tên mới biết hóa ra gã là đại thần canh giữ Đông lăng. Hai mắt gã thâm quầng, chắc hẳn mấy hôm nay đã bị mắng nhiếc thê thảm, ăn ngủ không yên. Dục Bành khom người vái dài, “Chào Hứa tiên sinh, Dục Bành có tội.” Gã vẫn mặc quan phục thời Thanh, có điều hơi cũ. Hứa Nhất Thành ngửi thấy mùi ngòn ngọt, nhìn kỹ mới thấy hai bên tay áo móng ngựa đều có vết cháy sém.

Dục Phương lại trỏ ông lão râu tóc bạc phơ đứng cuối hàng giới thiệu, “Vị này là Tả dực trưởng Đông lăng A Hòa Hiên, người Tương Bạch kỳ, họ Qua Nhĩ Giai.” Đoạn lắc đầu thở dài, “Năm xưa có đến hai nghìn binh mã đóng ở đây, vậy mà giờ trong nha môn bảo vệ lăng chỉ điều động được mấy chục lính trung dũng dưới quyền ông ấy thôi.”

A Hòa Hiên tuy đã già, râu tóc bạc phơ nhưng cực kỳ quắc thước, như một thanh thép vừa tôi. Hứa Nhất Thành để ý thấy ông ta vẫn mặc quân phục Bát Kỳ, đeo đoản đao, bàn tay phải gân guốc luôn đặt hờ trên chuôi đao. Cô gái tân thời theo lời Dục Phương là con gái út của A Hòa Hiên, tên Hải Lan Châu, vừa du học Anh về. Hai cha con họ không nhiều lời, chỉ gật nhẹ đầu với Hứa Nhất Thành coi như chào hỏi.

Hứa Nhất Thành ngửa mặt nhìn trời, “Không còn sớm nữa, chúng ta nhanh lên thôi.” Lần này y đến Đông lăng chỉ để điều tra hiện trường. Lý Tế thầy y từng nói, trăm nghe chẳng bằng một thấy, không thể chỉ dựa vào tài liệu, phải đích thân đến điều tra thực địa, tổng hợp lại rồi suy ngẫm mới có ý nghĩa. Tuy ông nói về việc khảo cổ thực địa, nhưng đạo lý trong thiên hạ vốn liên quan chặt chẽ với nhau, nếu muốn làm rõ vụ trộm Đông lăng, ắt không thể không tới tận nơi tra xét.

Dục Phương không hiểu lắm, nghĩ chỉ cần lần ra được tung tích đám cổ vật bị trộm là đủ. Thấy Hứa Nhất Thành cứ khăng khăng, gã cũng đành chấp nhận, song cuối cùng vẫn không yên tâm, bèn chạy đến đây, nói là đi cùng, thực ra là giám sát.

Cả đoàn băng qua cổng chào đá, men theo lối vào hầm mộ. Mãn Thanh nghiêm cấm không được cưỡi ngựa trong khu lăng mộ, quấy rầy giấc ngủ ngàn thu của hoàng gia bên dưới. Đám người Mãn không dám làm trái, nên tất cả đều đi bộ.

Dục Bành biết Hứa Nhất Thành đến tra xét vụ trộm mộ nên ra sức xun xoe lấy lòng. Gã nói đặc giọng Bắc Kinh, vừa đi vừa giảng giải cho Hứa Nhất Thành về bố cục lăng mộ, giọng giòn giã sang sảng, rất dễ nghe: “Từ đây về phía Bắc là cửa son lớn, lầu bia lớn, tượng chầu, cổng Long Phụng, cầu Thất Khổng, lầu bia nhỏ, cổng Long Ân, điện Long Ân, phương thành minh lâu, đó mới chỉ là Hiếu lăng thôi đấy. Mé Tây là Dụ lăng, lăng thái hậu mới và thái hậu cũ, Định lăng, mé Đông là Hiếu Đông lăng, Cảnh lăng, Huệ lăng, các lăng còn chia ra tám vành chín trại, để tôi đếm cho anh nghe…”

“Lợi hại thật, anh liệt kê món ăn đấy à.” Hứa Nhất Thành tặc lưỡi khen.

Dục Bành cười trừ. “Ôi chao, ở đây mãi ngoài đếm mộ ra còn làm gì được nữa?”

Dục Phương nhíu mày khẽ nạt, “Đừng nói linh tinh! Vào chuyện chính đi!”

Dục Bành run bắn lên, chừng như rất sợ anh trai, vội chỉnh mũ mãng, thuật lại chuyện hôm đó cho Hứa Nhất Thành.

Một ngày trước khi xảy ra chuyện, cũng tức là hai mươi tám tháng Ba, đoàn khảo sát phong tục China tới thăm Đông lăng. Đám học giả Nhật hết sức lịch thiệp lễ phép, còn quyên một món tiền lớn để bảo tồn lăng. Dục Bành dẫn đoàn đi thăm thú Đông lăng mất cả ngày trời, trước lúc về Bắc Kinh, trưởng đoàn Sakai Daisuke còn biếu gã mấy chai rượu Tây để cảm ơn.

Tối hôm ấy, A Hòa Hiên dẫn một tốp lính đi tuần đến Định lăng nằm tít mé Đông của khu lăng tẩm. Chỉ còn Dục Bành và mấy người khác ở trong phòng gác vành của Huệ lăng nằm ngoài rìa Tây. Vành chỉ phòng gác để nhân viên nội phủ coi sóc các lăng ở, chín lăng tổng cộng có tám vành, tuy đã bỏ hoang, nhưng cơ sở vật chất vẫn còn rất tốt, ở khá thoải mái.

Dục Bành coi rượu như mạng, A Hòa Hiên vừa đi khỏi, gã đã khui rượu ra uống tràn, say túy lúy, chẳng mấy chốc thì thiếp đi. Đến canh hai, Dục Bành bỗng dưng tỉnh lại, nghe bên ngoài có tiếng động lạ. Gã mò mẫm xuống giường định ra xem, nào ngờ vừa lê bước, đương cúi đầu nhìn xuống đất, gã bỗng giật bắn mình, túa mồ hôi lạnh. Dưới sàn chẳng biết tự lúc nào đã có thêm một bóng người đổ dài, đầu quay về phía giường.

Dục Bành bàng hoàng ngẩng lên, thấy một người đang đứng bên ngoài doanh trại, trước cửa kính, lưng quay về phía ánh trăng. Dục Bành vội hỏi ai đó, thì nghe xoảng một tiếng, cửa kính vỡ nát, một họng súng Mauser 13 đen ngòm thò vào. Kẻ bên ngoài tự xưng là hậu duệ Nghĩa Hòa Đoàn, năm xưa ông hắn giúp Lão Phật Gia đánh Tây, giờ chỉ định xin ít tiền lương, không muốn hại mạng người, nếu gã không ra khỏi phòng thì đôi bên đều bình an vô sự, bằng không đừng trách họng súng vô tình.

Dục Bành sợ đờ cả người, ngoan ngoãn ngồi trong phòng, nào dám thò đầu ra nữa. Kẻ bên ngoài vẫn cầm súng nhắm thẳng vào cửa sổ. Một lúc lâu sau nghe tiếng nổ, Dục Bành mới hiểu bọn chúng không cướp bóc trên mặt đất mà định đột nhập hầm mộ. Nhưng họng súng đen ngòm vẫn lù lù ở đó, gã nào dám động đậy. Kẻ đứng ngoài cũng chẳng nói gì thêm, chỉ lăm lăm chĩa súng vào trong, hai vai cứng đơ, cổ hơi ngoẹo.

Mãi tới khi A Hòa Hiên đi tuần trở về mới phát hiện một cái xác khô chẳng biết moi ra từ mộ nào dựng đứng bên ngoài, dựa vào cửa sổ, khẩu súng mắc trên cửa kính còn chẳng có cò, không hiểu đám trộm cướp ấy nhặt ở đâu ra. A Hòa Hiên lôi Dục Bành dậy, hớt hải chạy ra ngoài kiểm tra khắp một lượt mới phát hiện mộ Thục Thận hoàng quý phi bị trộm.

Bấy giờ tôi sợ mất mật, may mà chúng chưa đụng vào Huệ lăng. Nếu mộ Đồng Trị gia bị trộm chắc cha tôi lột da tôi mất!” Dục Bành vỗ ngực nói bô bô.

“Kẻ ấy nói giọng ở đâu?” Hứa Nhất Thành hỏi.

“Hình như là quan ngoại, giông giống giọng lính Phụng Thiên.”

“Còn đặc điểm gì không?”

“Cách một lớp kính, lại ngược sáng nên tôi nào có trông rõ. Huống hồ dù có nhìn cũng chỉ thấy cái xác, chứ tôi có thấy bóng dáng người sống nào đâu.”

Hứa Nhất Thành hỏi, “Anh không nghĩ tới việc xông ra à?”

Dục Bành ấp úng viện lý uống say không đứng dậy nổi. Dục Phương giận em trai không nên nết, mắng cho một chập, nói rằng đường đường đại thần canh lăng mà lại sợ một cái xác đến nỗi rụt cổ rúc trong phòng không dám nhúc nhích, đúng là mất mặt.

Hứa Nhất Thành ầm ừ, không hỏi thêm nữa, chỉ cắm cúi vừa đi vừa nghĩ ngợi. Đông lăng rộng thênh thang, lại chỉ được đi bộ, cả đoàn đi hơn nửa tiếng mới đến Huệ lăng nằm ở khe Song Sơn. Trời nóng như thiêu, ai nấy đều đầm đìa mồ hôi. Chỉ có A Hòa Hiên không hề thở dốc, hẳn là đã đi quen.

Huệ lăng nằm ở rìa Đông của Đông lăng, sinh thời Đồng Trị hoàng đế chưa kịp chọn đất đặt lăng, sau khi băng hà hai vị thái hậu mới chọn khe Song Sơn để chôn cất, có điều bấy giờ quốc khố nhà Thanh đã cạn, không làm hoành tráng được, lại xây xướng gấp gáp, đến cả lối vào mộ và tượng đá hai bên cũng không có, trông tuềnh toàng hơn hẳn các lăng mộ khác.

Thục Thận hoàng quý phi là phi tần của Đồng Trị, dĩ nhiên phải chôn cất cạnh Huệ lăng. Phi viên bên Đông, Huệ lăng bên Tây, đối xứng nhau qua một con hào. Một mình Huệ lăng nằm lẻ loi ở mé Đông, tách biệt hẳn các lăng tẩm khác, đám trộm mộ chọn nơi này hẳn cũng đã tính trước cả rồi.

Dục Bành dẫn mọi người tới doanh trại Huệ lăng rồi đi múc nước giếng cho tất cả giải khát. Hải Lan Châu chẳng biết lấy đâu ra mấy chén sứ trắng, mỗi người múc một chén. Nơi này non xanh nước biếc, nước giếng ngon ngọt vô cùng, mát lạnh đã khát, chẳng kém gì nước trên núi Ngọc Tuyền. Uống nước xong, Hứa Nhất Thành đi lòng vòng quanh doanh trại xem xét một lượt, Dục Bành còn chỉ cho y khung cửa kính bị đập vỡ. Hứa Nhất Thành hỏi cái xác khô nọ đâu, Dục Bành đáp đằng nào cũng là xác chết đói vô chủ, đã ném vào khe núi rồi.

“Hời quá, tu mấy đời mới có phúc được ném xác gần hoàng lăng đấy.” Dục Bành lầu bầu.

Hứa Nhất Thành đứng trước cổng doanh trại, khoanh tay quan sát. Từ đây có thể nhìn bao quát cả Huệ lăng, thấy rõ phương thành minh lâu. Y chợt cau mày ngoái lại hỏi, “Doanh trại này nhìn hơi đặc biệt, nhưng tôi không nói rõ được là đặc biệt ở đâu nữa.”

Dục Bành cười đáp, “Anh nhìn ra rồi à? Doanh trại này dựng lên để canh lăng, nên không theo hướng Nam Bắc như nhà cửa bình thường, mà trổ cửa ở phía Tây, trông thẳng ra Huệ lăng, chúng tôi gọi là nhà trông lăng.”

Hứa Nhất Thành cảm khái, “Những chi tiết này không tới tận nơi xem xét thì sao biết được.” Nói rồi liền lấy bảng vẽ ra phác họa lại.

Phú Lão Công liếc xéo, lầu bầu, “Ai biết sau này hắn có dựa vào mấy hình vẽ đó mà trộm mộ không.”

Hải Lan Châu đỡ tay lão, tươi cười giải thích, “Ông cả nghĩ quá, phác họa là một cách tập vẽ của người Tây, nếu dựa vào đó để trộm mộ thì thà mang máy ảnh theo chụp còn hơn.” Giọng cô nàng trong trẻo ngọt ngào, rất dễ nghe, nên Phú Lão Công không nói gì nữa.

Mọi người nghỉ ngơi chốc lát rồi rời phòng gác, đến phi viên Huệ lăng.

Phi viên vốn có người ở trông coi, nhưng giờ đã bỏ hoang, lò lửa và hạc đồng đều bị thó mất, điện thờ hương tàn khói lạnh, ngay cây cối cũng bị dân chúng quanh đó chặt trộm hết, chim chóc chẳng còn chỗ đậu, cả khu lăng mộ lặng phắc như tờ, chỉ còn dãy nhà ngói lưu ly xanh nhạt. Bước vào cửa hầm mộ là thấy ngay bảo đỉnh của Thục Thận hoàng quý phi, bốn bề xây tường gạch đỏ bao quanh. Bảo đỉnh nói theo kiểu dân dã là một nấm mồ lớn, bên trên trồng cây, xung quanh xây tường bao, dưới là hầm mộ đặt quan tài.

Đập ngay vào mắt là một lỗ thủng toang hoác bên dưới bảo đỉnh. Viền lỗ cháy sém, thoạt trông đã biết là phá bằng thuốc nổ. Sau khi bị trộm, tông thất đã phái người dọn dẹp, nhập liệm lại thi thể, nhưng muốn lấp lỗ hổng to nhường này cần nhiều nhân lực vật lực nên giờ vẫn chưa hoàn thành, mới chỉ bắc tạm giàn giáo bằng tre lên trên. Nhìn từ cửa hầm mộ, bảo đỉnh trông như đầu người, lỗ thủng là miệng, cây trồng hai bên vươn cành dài tua tủa, hơi giống một phụ nữ búi tóc kiểu người Mãn đang há miệng kêu gào trong cõi tăm tối, vươn cánh tay xương xẩu toan bò ra khỏi lòng đất, cực kỳ quái dị.

Bên ngoài nắng như đổ lửa, nhưng nhìn lỗ thủng kia, tất cả đều ớn lạnh. Xem ra việc bà vợ ông chủ Vương thấy ma cũng chưa chắc đã là thần hồn nát thần tính.

Phú Lão Công vừa bước vào phi viên đã xúc động, giờ thấy thảm cảnh này không kìm được khóc òa lên. Hải Lan Châu vội bước đến đỡ lấy lão. A Hòa Hiên siết chặt chuôi đao, áy náy ra mặt.

Có điều Hứa Nhất Thành chẳng hề để ý đến tâm trạng những kẻ thuộc tông thất. Y chắp tay sau lưng đi vòng quanh lăng tẩm mấy vòng, hoặc cúi xuống nhặt đá vụn xem xét, hoặc lên cao nhìn ra xa. Quan sát một hồi, Hứa Nhất Thành chợt “ồ” lên rồi dừng bước. Dục Phương hỏi có việc gì, y đáp bố cục ở đây hơi lạ.

Dục Phương bèn hắng giọng ra hiệu cho Dục Bành giải thích. Động đến sở trường của mình, Dục Bành hào hứng hẳn, vội hỏi anh thấy lạ chỗ nào.

Hứa Nhất Thành giơ tay chỉ, “Từ cửa vào là thấy ngay một bảo đỉnh chính diện, phía sau còn ba cái nữa, sắp thành hàng dọc. Sao lại theo bố cục trước một sau ba thế này? Ở đây đều là phi tần, đâu có hoàng hậu, lẽ ra phải để đối xứng trái phải chứ?”

Dục Bành cười, “Anh không biết đấy thôi, Đồng Trị gia tổng cộng có một hoàng hậu bốn hoàng quý phi, phi viên này được xây cho bốn vị ấy. Bấy giờ Đại Thanh mới chỉ chôn một Thục Thận hoàng quý phi họ Phú Sát ở đây, bảy năm trước Cung Tức hoàng quý phi cũng mới nhập táng, hai vị còn lại giờ vẫn khỏe mạnh. Lão Phật Gia xưa nay quý nhất họ Phú Sát, đối đãi thân thiết hơn hẳn những người khác. Sau khi nương nương qua đời, Lão Phật Gia đã hạ chỉ, sửa lại bố cục phi viên, để họ Phú Sát nằm trên cùng, ba vị kia ở phía sau, thực sủng ái vô vàn.” Nói tới đây, gã ngừng lại, trỏ lỗ thủng nói, “Anh cứ vào xem khắc thấy, chỉ có Thục Thận hoàng quý phi được dùng cổng vòm đá, ba vị kia chỉ là cổng gạch. Tóm lại cái gì cũng được ưu ái hơn.”

“Đoàn khảo sát phong tục China có vào đây không?” Hứa Nhất Thành thình lình hỏi. Dục Bành nói không, chỗ này quá hẻo lánh, họ chỉ tham quan Dụ lăng và Định lăng bên Tây, hơn nữa cũng không lại gần lăng tẩm, chỉ đứng xa nhìn, chụp mấy tấm ảnh thôi.

Nghe Dục Bành giới thiệu xong, Hứa Nhất Thành chui qua lỗ thủng, vừa vào trong đã thấy hơi lạnh phả mặt. Y đi mấy bước rồi không vào sâu hơn được nữa. Thực ra bên trong rất hẹp, sau khi nhập liệm lần hai đã được quét dọn sạch sẽ, lối dẫn vào địa cung bị xây bít lại, không thể tiến thêm. Không gian hơi âm u, ngoài ra không có gì khác lạ.

Hứa Nhất Thành quan sát một lượt rồi lại chui ra, vừa thò nửa người khỏi mộ, chợt nghe tiếng rắc rất khẽ, tim y bỗng thót lên cảnh giác. Chưa kịp nhìn quanh, đã nghe Hải Lan Châu phía ngoài hét, “Cẩn thận đấy!” Hứa Nhất Thành ngẩng lên, thấy giàn giáo trên đầu chẳng hiểu sao bỗng đổ sụp, mấy chục thanh tre sắc nhọn đang lao xuống chực đâm vào y.

Mắt A Hòa Hiên sáng rực lên, rút soạt đao ném phập vào vách đất ngay trên đầu Hứa Nhất Thành. Nhờ thân đao chắn giúp mấy thanh tre nhọn, Hứa Nhất Thành kịp thời rụt lại vào trong. Ngay sau đó, đống tre rào rào đổ sập xuống, mười mấy thanh cắm đúng chỗ Hứa Nhất Thành vừa đứng. Nếu chậm nửa giây, e rằng y đã bị đâm xuyên người rồi.

Bảo đỉnh mù mịt bụi đất, Dục Phương và Dục Bành hớt hải chạy tới vạch đám tre nứa ngổn ngang, kéo Hứa Nhất Thành ra. Dục Phương lo lắng hỏi y có bị thương ở đâu không, Hứa Nhất Thành rút khăn tay ra lau mặt đáp rằng không sao, chỉ xước xát mu bàn tay chút thôi.

Dục Bành đứng cạnh tức tối nhìn lên nóc bảo đỉnh càu nhàu, “Nương nương giận thì đi mà trừng trị bọn trộm, sao lại trút giận lên người mình?”

Dục Phương trừng mắt nhìn em trai, mắng, “Chú giám sát không nên thân còn viện cớ nỗi gì?”

Hải Lan Châu có mang theo thuốc chữa thương, bèn lăng xăng chạy đến cầm tay Hứa Nhất Thành lên bôi thuốc. Hứa Nhất Thành vội cảm ơn cô đã cứu mạng. Hải Lan Châu đáp, “Anh quá lời rồi, chút thuốc này đâu thể coi là ơn cứu mạng được.”

Hứa Nhất Thành giải thích, “Vừa rồi nếu cô không kêu lên cảnh báo, e rằng tôi đã bỏ mạng rồi.”

Hải Lan Châu tủm tỉm, bôi thuốc xong còn cầm tay y đưa lên miệng thổi mấy cái rồi nhoẻn cười đáp, “Anh giúp đỡ tông thất chúng tôi, tôi không cứu anh chẳng lẽ còn định hại anh sao?”

Nhìn cô cười tươi tắn, Hứa Nhất Thành chợt nhíu mày.

Dục Phương hỏi y có tra xét được gì không. Hứa Nhất Thành nhìn lên bảo đỉnh thở dài đáp, “Chuyện xảy ra đã lâu, không còn manh mối nào nữa, xem ra vẫn phải bắt tay tìm hiểu từ chiếc khánh đồng thôi. Việc ở đây xong rồi, mọi người nên quay về cho sớm.”

“Được, trở về ta sẽ bày tiệc rượu để Hứa tiên sinh xua tan kinh sợ.” Dục Phương vỗ tay cười nói. Xem ra Hứa Nhất Thành đã bị sự cố bất ngờ này bào mòn nhuệ khí, chỉ chong chóng cuốn gói ra về, đám tông thất nhìn nhau, không hẹn mà cùng thở phào nhẹ nhõm. Tay này từ khi bước vào hoàng lăng đã chẳng kính sợ, song cũng không có ý coi thường, chỉ sáng mắt lên nhìn ngó khắp nơi, như thể Đông lăng là đối tượng nghiên cứu thú vị của y vậy. Tâm thái này họ chưa từng gặp bao giờ, nên khó tránh khỏi thấp thỏm vô cớ.

Mọi người lục tục rời khỏi phi viên, Hứa Nhất Thành đi cuối cùng. Bước ra khỏi cổng, y bỗng dưng ngoái lại nhìn lỗ hổng đen ngòm như hồn ma quý phi đang gào thét, tủm tỉm cười đầy ẩn ý.


Sở Cảnh sát Kinh thành nằm trên đường Hộ Bộ gần đây khá nhàn rỗi, tuy các đơn vị vẫn vận hành như thường, nhưng chỉ được chăng hay chớ, nếu có người đến trình báo, họ cũng chẳng buồn ghi chép lại mà hỏi han qua loa mấy câu rồi xua đi. Từ trên xuống dưới cứ như bị bắt mất hồn, chỉ biết túm năm tụm ba xì xào bàn chuyện thời sự.

Ngô Úc Văn ngồi trong phòng làm việc, cầm tờ Tin thế giới mới ra, chén trà xanh đã nguội mà hắn vẫn chưa nhấp hớp nào. Phần phụ bản đăng tin trưởng phòng Ngô của phòng điều tra Sở Cảnh sát Kinh thành đã triệu tập các thương nhân trong kinh để bán đấu giá cổ vật lấy tiền làm từ thiện, số tiền quyên góp được gửi đến các cơ sở từ thiện như trung tâm bảo hộ phụ nữ, nhà tế bần, trại trẻ mồ côi v.v…, kêu gọi các nhân vật có tiếng tăm thương cho dân chúng khổ sở vì chiến tranh mà tăng cường làm việc thiện. Song hắn lại chú ý đến mẩu tin ngắn không có gì nổi bật bên dưới hơn: “Ba kỹ sư người Bỉ của cục đường sắt Bắc Kinh - Phụng Thiên tới Sơn Hải quan kiểm tra tu sửa đường ray, phía Nhật bày tỏ thái độ phản đối vì bị xâm phạm chủ quyền, chính phủ chưa đưa ra bình luận gì.”

Hắn hiểu mẩu tin này được đăng tải để dọn đường cho Trương Tác Lâm rời kinh thành. Mấy hôm nay thời cuộc hết sức hỗn loạn, Sở Cảnh sát vốn phải gửi báo cáo trị an lên trên hằng ngày, bởi đây là việc hết sức quan trọng, vậy mà giờ cũng chẳng ai giục giã. Phủ Tổng thống khoanh tay không quản, có lẽ còn bận đóng hành lý. Giờ Sở Cảnh sát chỉ vận hành theo quán tính, không rõ bao giờ tan đàn xẻ nghé. Tới khi ấy, chẳng ai biết được trong kinh còn náo loạn chừng nào nữa.

Đang miên man nghĩ ngợi thì cấp dưới của hắn vào báo có anh Hứa xin gặp. Ngô Úc Văn nghe nói vội sai mời vào rồi gập báo lại, ngồi thẳng người lên. Hứa Nhất Thành mặc âu phục dận giày da bước vào, tủm tỉm cười chào hắn.

Bữa trước Ngô Úc Văn tha cho Minh Nhãn Mai Hoa, một trong những nguyên nhân quan trọng là vì Hứa Nhất Thành nói có người bạn ở phía Nam có thể giới thiệu hắn với quân Bắc phạt. Thế nên đôi bên vừa ngồi vào chỗ, hắn đã sốt sắng hỏi tình hình phía Nam thế nào. Hứa Nhất Thành rút danh thiếp trong túi áo ra đặt lên bàn, Ngô Úc Văn cầm lên xem, không khỏi nhíu mày, cảm thấy cái tên này rất lạ, chưa nghe bao giờ, họ Đới tên Lạp tự là Vũ Nông, chức vụ cũng chẳng lấy gì làm lớn, chỉ là thượng úy tham mưu liên lạc trực thuộc Bộ Tư lệnh quân cách mạng đảng Quốc dân.

“Chuyện gì đây, chú Nhất Thành?” Ngô Úc Văn âm trầm hỏi. Hắn dù sao cũng là trưởng phòng, giờ lại đi cầu cạnh một thượng úy thì mất mặt quá.

Hứa Nhất Thành vắt tréo chân, thong dong lắc ngón tay, “Trưởng phòng cứ xem kỹ lại đi.”

Ngô Úc Văn cũng là tay lão luyện quan trường, bèn đọc kỹ lại, quả nhiên nhận ra ngay. Tay thượng úy tham mưu liên lạc này tuy chức vụ nhỏ, nhưng lại là người của Bộ Tư lệnh. Thường đi theo Tưởng Trung Chính, ắt là thân tín. Gần quan được ban lộc, bắt quen với kẻ này còn hơn làm thân với sư đoàn trưởng hay lữ đoàn trưởng.

Hứa Nhất Thành giải thích, “Đầu năm nay ông Tưởng đã ra lệnh thành lập một tổ chuyên liên lạc với các tỉnh phía Bắc, do người bạn này của tôi phụ trách. Ông liên lạc với anh ta là tiện nhất.”

Ngô Úc Văn kinh ngạc, hóa ra cơ quan này mới được thành lập không lâu. Như hiểu được mối lo của hắn,

Hứa Nhất Thành lại tiếp, “Cơ quan mới mới dễ làm việc lớn. Anh ta đang muốn lập công, ông lại muốn gia nhập, chẳng dễ bàn bạc ư.” Đoạn y gõ nhẹ lên tấm danh thiếp, “Tôi không nói quá lời đâu, tay Đới Vũ Nông này ngày sau ắt sẽ làm nên việc lớn, không nhân lúc anh ta chưa đủ lông đủ cánh mà bắt thân, tới lúc người ta có quyền thế mới lôi kéo quan hệ thì không kịp mất.”

Ngô Úc Văn lập tức tươi nét mặt, vui vẻ nhận lấy danh thiếp. Đôi bên đãi bôi thêm vài câu, Hứa Nhất Thành lơ đãng nhướng mày, “Chuyến này Nhất Thành tới đây, thực ra còn một việc muốn nhờ trưởng phòng.”

Ngô Úc Văn hiểu y sắp ra điều kiện, liền vỗ ngực, “Chú yên tâm, nếu làm được, anh đây nhất định dốc hết sức giúp chú.”

Hứa Nhất Thành liền hỏi hôm ấy trong số cổ vật bán ra có một chiếc khánh đồng, chẳng biết trưởng phòng Ngô có nhớ mình mua được từ đâu không?

Ngô Úc Văn ngẩn ra, đoạn cười hỏi, “Nhà ông chủ Vương lại bị ma phá à?” Hắn là trưởng phòng điều tra, tai mắt trong kinh đầy rẫy, đâu thể bỏ sót chuyện này.

Hứa Nhất Thành không dám nhắc tới Đông lăng, bởi Ngô Úc Văn cũng là kẻ lòng tham không đáy, nếu biết còn con đường kiếm tiền ấy, nhất định sẽ không chịu bỏ qua. Y bèn tát nước theo mưa, bịa đại ra một lý do, “Đã giúp phải giúp cho trót, tôi đang tìm hiểu xem chiếc khánh ấy nguồn gốc thế nào để bốc thuốc đúng bệnh, giúp ông ta đuổi tà.”

Ngô Úc Văn khoanh tay trầm ngâm. Hắn không biết gì về cổ vật, những thứ sưu tầm được đều vơ vét từ nhà phạm nhân, có bao nhiêu lấy bấy nhiêu, hàng hóa qua tay rất nhiều, chính hắn cũng không nhớ rõ được.

Hứa Nhất Thành chăm chú nhìn hắn, tay gõ nhẹ xuống bàn, tâm trí cũng suy nghĩ rất lung. Mộ Thục Thận hoàng quý phi bị trộm vào hai mươi chín tháng Ba, tới tháng Năm thì khánh đồng rơi vào tay Ngô Úc Văn, thời gian chưa dài, nên nếu muốn tìm hiểu xuất xứ thì bắt tay từ chỗ Ngô Úc Văn là nhanh nhất.

Ngô Úc Văn nghĩ mãi không ra, bèn đập bàn gọi, “Trường Phát, vào đây!”

Một cậu chàng mặt ngựa ngô ngố hối hả chạy vào đáp, “Chú tìm cháu ạ?”

Ngô Úc Văn hỏi, “Hồi trước chúng ta có một cái khánh đồng, mày có nhớ lấy ở đâu không?”

Trường Phát gãi đầu gãi tai, nghĩ ngợi hồi lâu rồi vỗ tay đánh đét, “Nhớ ra rồi, chẳng phải là Bùi hàn lâm đem đến chuộc con trai ư?”

Bấy giờ Hứa Nhất Thành mới hay, giữa tháng trước có tay buôn người Nhật đến trình báo rằng bị mất một lượng lớn thuốc phiện sống, Sở Cảnh sát tra ra thủ phạm là một gã họ Bùi, bắt được cả người lẫn tang vật, bèn gô cổ giải về. Cha hắn là hàn lâm dưới thời nhà Thanh đã đóng tiền phạt như quy định, còn phải biếu Ngô Úc Văn mấy món cổ vật mới bảo lãnh được con ra. Một trong số đó là khánh đồng nọ.

“Viên hàn lâm nọ có phải tên Bùi Đào không?” Hứa Nhất Thành hỏi. Trường Phát lôi sổ bảo lãnh ra, xem chữ ký bên dưới, quả nhiên thấy hai chữ Bùi Đào như rồng bay phượng múa. Đôi mày Hứa Nhất Thành đang cau lại liền giãn ra, y cười, “Hóa ra là ông ta.”

Viên hàn lâm Bùi Đào này khá có tiếng trong giới cổ ngoạn kinh thành. Không phải vì phong lưu tao nhã, mà bởi ông ta hết sức si mê cổ vật, sục sạo khắp nơi để sưu tầm. Tiếc rằng không có mắt nhìn nên những thứ thu thập được hầu như đều là hàng giả, rất nhiều kẻ lừa gạt thường lừa bán cho ông ta. Trong nhà Bùi Đào có tiền cửu cức của Phục Hi, đỉnh đồng xanh của Đại Vũ, bản rập bài văn tế cháu của Nhan Lỗ Công, mâm hoa quỳ của Đường Thái Tông, thường tự thưởng thức một mình rồi cảm thán người đời đều là lũ ngu ngốc không có mắt nhìn hàng. Việc này từ lâu đã trở thành câu chuyện cười của giới chơi cổ vật trong lúc trà dư tửu hậu.

Kẻ trộm Đông lăng bán khánh đồng cho Bùi Đào quả là diệu kế. Khánh đồng là vật bồi táng ở Đông lăng, nếu đem ra chợ bán chưa biết chừng lại bị phát hiện. Song Bùi Đào đã nổi tiếng toàn mua phải hàng giả, nên nếu tìm thấy khánh đồng ở chỗ ông ta, cũng chẳng ai coi là đồ thật.

“Lúc ông ta biếu khánh đồng, có nói là đồ thời nào không?” Hứa Nhất Thành hỏi.

Câu này quả đã làm khó Trường Phát, gã vốn không biết chữ, vò đầu bứt tai một lúc lâu mới đáp hình như nói là thời Chu gì đó. Hứa Nhất Thành ngớ ra, thời Hán Phật giáo mới truyền đến Trung Quốc, thời Chu thì Phật Tổ còn chưa ra đời nữa kia. Bùi Đào có hồ đồ đến đâu cũng không thể mua một pháp khí nhà Phật thời Chu chứ?

“Chu nào cơ?” Hứa Nhất Thành gặng.

“Chú hỏi khó thế, nghe đâu là Võ Chu Vẽ Chu gì đó.” Trường Phát vặn vẹo cổ tay lầu bầu.

Nghe gã nói vậy, Hứa Nhất Thành sực hiểu ra. Võ Chu, chính là chỉ thời Võ Tắc Thiên xưng đế, bà không dùng quốc hiệu Đại Đường mà đổi thành Đại Chu. Võ Tắc Thiên xưa nay nổi tiếng tin Phật, có lẽ kẻ bán đã nói rằng đây là chiếc khánh từng được Võ Tắc Thiên gõ, làm Bùi Đào tin sái cổ.

Hiềm nỗi trình độ giám định của Bùi Đào không đâu vào đâu nhưng tính khí lại rất ngoan cố. Ông ta luôn tự tin vào nhãn quang của mình, tự coi mình là cao thủ nhận biết hàng giả, ai bảo những món đồ ông ta sưu tầm là giả, nhất định là vì ghen ghét. Dân chơi cổ ngoạn trong kinh, kể cả người của Minh Nhãn Mai Hoa đều bị ông ta mắng cho khắp lượt. Câu cửa miệng của ông ta là, “Các người giỏi thế sao không đi làm hàn lâm đi?”

Muốn moi được thông tin từ miệng ông lão cố chấp như vậy, quả không phải dễ.

Hứa Nhất Thành nghĩ ngợi một hồi, cũng tìm ra cách. Y thản nhiên tán gẫu thêm vài câu với Ngô Úc Văn rồi đứng dậy cáo từ. Vừa bước xuống khỏi bậc thềm Sở Cảnh sát, đương ngó quanh tìm xe kéo, y chợt nghe có người gọi tên mình từ quán trà đối diện. Hứa Nhất Thành ngẩng lên, thấy Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ đang ngồi trong quán trà ven đường, vẫy tay rối rít. Thực không ngờ hai tên nhóc này lại đợi ở đây, Hứa Nhất Thành thoáng ngẩn ra rồi đi sang.

Quán trà này tên Thiên Hối Hiên, là nơi hồi xưa đám nha dịch trong nha môn đề đốc hay tụ tập. Về sau nha môn đề đốc đổi thành Sở Cảnh sát, nơi này lại càng thêm tấp nập, người kiện tụng, chạy chọt hay dò la tin tức đều đến đây uống chén trà, tiện thể quan sát động tĩnh bên kia đường. Tới Thiên Hối Hiên uống trà, theo ngôn ngữ dân Bắc Kinh gốc, ý nói dính vào việc kiện cáo.

Gần đây chiến sự rối ren, người tới đây uống trà cũng vãn. Hứa Nhất Thành bước vào quán, ngồi xuống đối diện Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ. Hoàng Khắc Vũ gọi người lấy thêm chén rồi rót trà cho y.

Hứa Nhất Thành cũng chẳng làm khách, uống một hơi cạn sạch. Ấm trà của hai cậu chẳng biết đã thêm mấy lượt nước, uống nhạt thếch, xem ra cả hai ngồi đây đợi đã lâu.

Hứa Nhất Thành đặt chén xuống, đan hai tay vào nhau, tủm tỉm cười hỏi, “Hai đứa nghe nói rồi à?” Cả hai gật đầu, tức tối ra mặt.

Chẳng ai biết Thẩm Mặc đã nói gì với hai người Hứa Nhất Thành, Dược Thận Hành ở Tố Đỉnh Các, song từ một loạt hành động của Dược Thận Hành, Lưu Nhất Minh dễ dàng đoán được kết quả.

“Đã biết Minh Nhãn Mai Hoa không chịu nhúng tay vào, hai đứa còn đến tìm chú làm gì?”

“Họ lại định làm rùa rụt đầu, đổ hết trách nhiệm lên chú. Nhưng bọn cháu không chấp nhận được.” Hoàng Khắc Vũ bất bình đáp. Lưu Nhất Minh cũng nghiêm trang gật đầu.

Hứa Nhất Thành giơ một ngón tay lên, nghiêm mặt nói, “Cháu sai rồi. Cụ Thẩm hay anh Hành không đẩy việc điều tra vụ trộm Đông lăng cho chú, mà là chú tự nhận lấy. Có những việc dù người ngoài thấy ngu ngốc, nhưng thế nào cũng phải có người thực hiện. Còn nhớ Đàm Tự Đồng năm xưa nói gì không, ‘Xưa nay chưa từng nghe kẻ nào cải cách thành công mà không đổ máu, nếu có thì phải bắt đầu từ Tự Đồng’.”

Nghe nhắc tới Đàm Tự Đồng, Hoàng Khắc Vũ đã bừng bừng nhiệt huyết. Bạn thân nhất của Đàm Tự Đồng là Đại đao Vương Ngũ, thần tượng của tất cả thanh niên học võ trong kinh. Cậu liền vỗ ngực buột miệng, “Người tập võ coi trọng hiệp nghĩa, giữa đường thấy chuyện bất bằng chẳng tha. Nếu chú muốn làm Đàm Tự Đồng thì bọn cháu xin làm Đại đao Vương Ngũ.”

Lưu Nhất Minh vội huých Hoàng Khắc Vũ, “Nói vớ vẩn gì đấy, phỉ phui cái mồm.” Hoàng Khắc Vũ lè lưỡi. Lưu Nhất Minh quay sang bảo Hứa Nhất Thành, “Chú một thân một mình lo chuyện này thì khó quá, có thêm vài trợ thủ vẫn hơn. Về phần Minh Nhãn Mai Hoa, chú không phải lo, bọn cháu tham gia dưới danh nghĩa cá nhân, họ cấm sao được.”

Hứa Nhất Thành lắc đầu, “Vụ việc Đông lăng rất nguy hiểm, chưa chừng còn liên quan đến tính mạng. Hai đứa là hạt giống của Minh Nhãn Mai Hoa, không thể nhúng vào được.”

Không nói còn đỡ, vừa nói ra cả hai đã nhao nhao quy kết y xem thường người khác, Hoàng Khắc Vũ gân cổ lên đòi ký khế ước sinh tử, nếu có bề gì thì tự chịu trách nhiệm.

Đôi co một hồi, Hứa Nhất Thành cũng nhức cả đầu với hai cậu choai choai đầy nhiệt huyết, đành ngán ngẩm day thái dương, “Hai đứa muốn giúp thật hả?” Cả hai đồng thanh vâng dạ. Hứa Nhất Thành đề nghị, “Thế này đi, chúng ta làm theo quy định cũ của Minh Nhãn Mai Hoa. Chú ra đề quý, nếu hai đứa giải được chú sẽ đồng ý cho cả hai tham gia, bằng không thì phải ngoan ngoãn về nhà.”

Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ nhìn nhau. Minh Nhãn Mai Hoa thường dùng đề quý để huấn luyện lớp trẻ mới nhập môn, bề trên sẽ đưa ra một món đồ, có thể là đồ cổ, cũng có thể là đồ mới, không cho gợi ý, yêu cầu giải thích xem thứ này đặc sắc ở đâu, có điểm nào đáng giá hoặc ẩn chứa bí mật gì, mỗi món là một đề. Đề quý không phải để phân biệt thật giả, chủ yếu chỉ nhằm rèn khả năng quan sát và mức độ am hiểu đồ vật, đây là kỹ năng giám định cơ bản.

Cả hai đều là thanh niên ưu tú trong Minh Nhãn Mai Hoa, từ bé đã giải không biết bao nhiêu đề quý. Nghe Hứa Nhất Thành nói muốn ra đề, hai người vô cùng hào hứng. Hoàng Khắc Vũ đập bàn, “Chú không được nuốt lời đâu đấy!”

Hứa Nhất Thành cười đáp, “Cháu nhìn người chú là biết rồi đấy, chú không nuốt lời cho béo đâu.” Nghĩ một lát, y lại nói, “Hôm nay chú ra ngoài không mang gì theo, đành mượn đồ của quán trà ra đề vậy.” Đoạn y nhìn quanh, cuối cùng ánh mắt dừng lại sau quầy, giơ tay trỏ, “Lấy nó đi.”

Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ nhất loạt ngước lên, nhìn theo tay Hứa Nhất Thành, thấy sau tủ quầy quán trà bày một khám thờ, bên trong đặt tấm thẻ gỗ bọc giấy đỏ, mặt ngoài dán năm chữ cắt bằng giấy nhăn nhũ vàng: Thiên Địa Quân Thân Sư.

“Cái này… có gì mà nói?” Hoàng Khắc Vũ ngẩn ra.

Thiên, địa, quân, thân, sư là năm đối tượng phải lễ bái theo Nho học, tượng trưng cho cương thường đạo lý. Năm chữ này đã có từ xưa, tới thời Ung Chính đặt ra thứ tự, từ ấy lại càng nhiều nơi thờ phụng. Bất luận là nhà riêng, trường tư, từ đường, phòng đọc sách, cửa hàng, nha môn hay quán trà, đều có chỗ đặt bài vị năm chữ. Thầy đồ nào cũng có thể thao thao bất tuyệt giảng giải ý nghĩa năm chữ này suốt cả ngày.

Đề bài này đơn giản quá thì phải?

Hứa Nhất Thành vạch ngón tay vào không khí, “Đề bài chú ra không phải về tấm bài vị, mà là chữ trên đó kìa.” Cả hai nghe vậy lại nhìn sang, hòng tìm ra manh mối. Hứa Nhất Thành đứng dậy, móc một đồng tiền ra trả tiền trà, “Chú phải đi chuẩn bị mấy thứ, hai đứa cứ từ từ nghĩ đi. Nửa ngày nữa chúng ta lại gặp nhau ở đây.” Nói rồi y đi thẳng.

Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ quên cả chào từ biệt, chăm chú quan sát năm chữ trên bài vị. Mấy chữ này viết theo thể Quán Các nhưng hơi xấu, hai chữ Thiên, Địa bè ra, không đồng đều với ba chữ còn lại. Bộ khẩu bên dưới chữ Quân có phần gò bó, hai chữ Thân còn thiếu mấy nét, tổng thể nhìn vô cùng ẩu tả. Nhưng đây là đề quý, không liên quan gì tới thật giả, họ không cần tìm sơ hở, mà phải tìm ra đạo lý.

Cả hai trưởng thành trong gia tộc lớn, đã nhìn thấy năm chữ này không biết bao nhiêu lần, thực chẳng rõ bên trong còn bí ẩn gì nữa.

“Ông nhìn ra chưa?” Hoàng Khắc Vũ hỏi.

Lưu Nhất Minh lắc đầu, vẫn nhìn không rời mắt. Hoàng Khắc Vũ cầm ấm trà lên, tự rót một chén trà nhạt thếch, nhưng chỉ cầm trong tay chứ không uống.

Một lúc lâu sau, Lưu Nhất Minh tháo kính ra, dụi mắt rồi hỏi Hoàng Khắc Vũ, “Ông có nhớ tờ giấy dán trong từ đường Minh Nhãn Mai Hoa viết thế nào không?”

“Về xem là biết ngay chứ gì?” Hoàng Khắc Vũ đặt mạnh chén xuống.

Hai cậu vội rời quán, chạy thẳng về từ đường Minh Nhãn Mai Hoa. Đáng ngạc nhiên là bài vị gỗ dán giấy đỏ thờ trong từ đường Minh Nhãn Mai Hoa tuy thư pháp hơn đứt tấm ở Thiên Hối Hiên, nhưng cách viết lại giống y hệt. Hai chữ “Thiên” “Địa” bè ra, chữ “Quân” cứng nhắc, “Thân” và “Sư” thiếu nét, ngay cả nét thiếu cũng giống nhau, như bàn trước vậy. Cả hai kinh ngạc, lại chạy tới những chỗ khác xem, thậm chí còn đến cả Quốc Tử Giám, phát hiện bài vị năm chữ trong kinh thành hầu như đều được viết như vậy, cũng có những tấm viết khác, song phần lớn là mới lập.

Có những thứ nhìn nhiều quen mắt nên không nhận ra. Từ nhỏ cả hai đã thấy bài vị năm chữ nọ quá nhiều nên chưa từng để ý, lần này được nhắc nhở mới phát hiện, bên trong nó ẩn giấu những chi tiết không ngờ. Hai cậu ngồi thu lu trước cửa Tập Hiền của Quốc Tử Giám, vẻ mặt rầu rĩ. Nếu vì không giải được đề quý này mà không được đi theo chú Thành, cả hai sẽ hối hận suốt đời mất.

Hoàng Khắc Vũ ngập ngừng lên tiếng, “Hay bọn mình đi hỏi người khác thử xem?” Dứt lời lại vội vàng lắc đầu, “Không được, thế là gian lận.”

Nghe vậy, ánh mắt sau cặp kính của Lưu Nhất Minh chợt sáng lên, cậu vỗ mạnh vào tấm bia đá bên cạnh, buột miệng hỏi, “Ông bảo tại sao chú Thành lại ra đề quý cho bọn mình?”

Hoàng Khắc Vũ ngạc nhiên, không hiểu sao Lưu Nhất Minh hỏi vậy. Lưu Nhất Minh cũng chẳng định đợi cậu đáp mà lẩm bẩm một mình, “Nếu chú ấy không muốn bọn mình dính vào thì cứ ra đề bài giám định thật giả cực khó là xong, sao lại ra đề quý? Đề quý không phải để phân biệt thật giả, mà chủ yếu nhằm truyền thụ đạo lý…” Nói tới đó, cậu đứng phắt dậy, “Tôi hiểu rồi! Không phải chú ấy muốn từ chối chúng ta, mà muốn mượn đề bài giúp bọn mình hiểu ra ý nghĩa ẩn sau năm chữ này!”

“Thế chẳng phải lại quay về vấn đề cũ hay sao, bọn mình đâu có biết ý nghĩa đó là gì?” Hoàng Khắc Vũ tiu nghỉu.

“Lần đầu tiên người lớn ra đề quý, ông giải quyết thế nào?”

Hoàng Khắc Vũ nhớ lại, “Cha tôi lấy một cái ghế răn bảo tôi ngồi lên, tôi không giải được đề, lại sợ ăn đòn, đành chạy đi hỏi khắp nơi, cuối cùng hỏi đến anh Hai Thẩm. Nhà họ thuộc Thanh môn, chuyên về đồ gỗ. Tôi phụ anh ấy làm nghề mộc ba hôm, anh ấy mới giảng cho rằng ghế răn dùng để rèn dáng ngồi cho đám trẻ con, tượng trưng cho bậc quân tử ngồi ngay ngắn.”

Lưu Nhất Minh vỗ trán, “Đúng vậy! Chính là thế đấy! Đề quý không phải để làm khó ông, mà là buộc ông chủ động tìm tòi, hỏi han! Nếu tự tìm hiểu, ta sẽ nhớ lâu hơn được truyền dạy. Chú Thành ra đề là để bọn mình tìm hiểu đạo lý bên trong, chẳng phải ý bảo đi hỏi người khác sao?” Vừa vỡ lẽ, Lưu Nhất Minh vội rảo bước đi ngay, Hoàng Khắc Vũ cũng lật đật theo sau.

Nửa ngày sau, Hứa Nhất Thành quay lại Thiên Hối Hiên, thấy Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ đã hớn hở ngồi đó. Y vừa ngồi xuống liền hỏi ngay, “Hai đứa đã hiểu được năm chữ ấy chưa?”

Lưu Nhất Minh cao giọng đáp, “Hai chữ Thiên, Địa được viết to hơn, ý chỉ trời cao đất rộng; bộ khẩu khẩu bên dưới chữ Quân được đóng kín, hàm ý quân vương không được nói bừa; bộ mục trong chữ Thân thiếu nét ngang ở cuối, ngụ ý không nhắm mắt bênh người thân; chữ không có nét phẩy bên trái, ý rằng không được gạt thầy sang một bên.”

Hứa Nhất Thành vỗ tay tán thưởng, “Hoàn toàn chính xác. Ai bảo cho hai đứa biết thế?”

Cả hai đỏ mặt, Lưu Nhất Minh đáp, “Bọn cháu hỏi mấy người, cuối cùng được một học giả già đi dạo gần Quốc Tử Giám giảng cho đấy ạ.”

Hứa Nhất Thành thở dài, “Năm chữ này vốn để làm rõ những đạo lý luân thường ấy. Tiếc rằng hiện nay thói đời suy đồi, nhiều kẻ chỉ biết ngày ngày lễ bái Thiên Địa Quân Thân Sư mà đâu hay ý tứ bên trong, đúng là tham bát bỏ mâm.” Đoạn y nhìn sang hai cậu thiếu niên, giơ một ngón tay lên, “Thực ra bên trong mỗi đồ vật đều ẩn chứa một đạo lý. Nhìn thấu đạo lý hàm chứa trong nó còn có ý nghĩa hơn là định giá.”

Lưu Nhất Minh nhanh nhạy đón ý nói ngay, “Đây là chỗ khác nhau giữa khảo cổ và giám định đúng không chú? Ý chú muốn bảo bọn cháu việc điều tra vụ trộm Đông lăng phải xuất phát từ tấm lòng, chứ không phải vì giá trị của những cổ vật trong đó.”

Nghe cậu nói, gương mặt chữ điền của Hứa Nhất Thành tươi hẳn lên, vẻ rất hài lòng.

Hoàng Khắc Vũ nào để ý tới những lắt léo ấy, sốt sắng hỏi, “Nói vậy là chú bằng lòng để bọn cháu giúp rồi ư?”

Hứa Nhất Thành tỏ vẻ bất lực, “Giờ nếu chú không đồng ý, hai đứa có chịu thôi không.”

Cả hai mừng rỡ reo lên, làm khách khứa trong quán đều đổ dồn mắt nhìn sang.

“Tiếp theo ta làm gì đây ạ?” Lưu Nhất Minh xoa xoa tay, mắt sáng rực.

Hứa Nhất Thành thuật lại vắn tắt tiến độ điều tra rồi bắt đầu phân công, “Khắc Vũ, lát nữa theo chú đến nhà Bùi Đào.” Hoàng Khắc Vũ ưỡn ngực, tự hào ra mặt. Hứa Nhất Thành lại nhìn sang Lưu Nhất Minh, “Còn Nhất Minh thì về Minh Nhãn Mai Hoa đi.”

Lưu Nhất Minh sững ra, nhưng ngay sau đó liền nhoẻn miệng cười, hào hứng như đã đoán được ý y. Hứa Nhất Thành phì cười, “Đúng là chẳng chuyện gì qua được mắt cháu.” Y rút trong túi áo ra tờ giấy viết thư kẻ ô đỏ viền mây, bên trên chi chít những chữ, “Chú bảo cháu quay về, không phải là không tin cháu, mà muốn nhờ cháu âm thầm điều tra một chuyện.”

“Đây là gì ạ?”

“Là danh mục đồ bồi táng của Thục Thận hoàng quý phi và đặc điểm từng món, Phú Lão Công chính tay viết đấy. Cháu quay về tìm cách điều tra xem trên thị trường gần đây có thứ nào trong danh sách này không.”

Thẩm Mặc đã tỏ rõ thái độ Minh Nhãn Mai Hoa sẽ không can dự vào chuyện này. Hứa Nhất Thành bảo Lưu Nhất Minh quay về, dĩ nhiên là muốn âm thầm lợi dụng quan hệ của Minh Nhãn Mai Hoa để phối hợp trong ngoài. Nghĩ tới việc mình sẽ trở thành gián điệp được Hứa Nhất Thành cài cắm vào Minh Nhãn Mai Hoa, Lưu Nhất Minh lại mừng thầm. Đi theo chú Thành điều tra chẳng bằng tự mình giúp chú một việc lớn, đây mới là điều cậu muốn làm.

“Nhưng chẳng phải ta đã biết khánh đồng xuất xứ từ đâu rồi ư? Sao còn phải điều tra những món khác?” Lưu Nhất Minh hỏi.

“Cháu đọc kỹ mà xem.” Hứa Nhất Thành nói.

Lưu Nhất Minh mở giấy ra, thấy tổng cộng có hai tờ, rõ ràng là hai bản danh sách thì không khỏi ngạc nhiên. Hứa Nhất Thành hạ giọng giải thích mấy câu, Lưu Nhất Minh mới ồ lên, cẩn thận gập xấp giấy làm tư nhét vào túi áo, lấy lại vẻ trầm tĩnh kín đáo.

“Việc không thể chậm trễ, mau bắt tay vào làm ngay đi, hy vọng chú cháu mình sẽ thành công.”

Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ nghe vậy vội khum tay định vái, song lại thấy Hứa Nhất Thành nheo mắt cười, chìa tay phải ra. Hai cậu nhìn nhau rồi cũng chìa tay ra, ba bàn tay siết chặt lại. Cả hai đều thấy cách làm này thực mới mẻ, thân thiết hơn hẳn khum tay.

Bắt tay thể hiện quyết tâm xong, Lưu Nhất Minh cầm danh sách vui vẻ quay về, để lại một mình Hoàng Khắc Vũ, tuy lưng vẫn ưỡn thẳng tắp, nhưng ánh mắt cứ đảo quanh, vẻ hơi bứt rứt. Xưa nay Lưu Nhất Minh luôn là người đưa ra ý kiến, Hoàng Khắc Vũ chỉ làm theo. Giờ hai người tách ra, Hoàng Khắc Vũ một mình đối diện với thần tượng, khó tránh khỏi căng thẳng.

Hứa Nhất Thành chăm chú quan sát cậu giây lát rồi đột ngột vươn tay phải đẩy cậu một cái. Hoàng Khắc Vũ thường ngày đã quen phá chiêu, vô thức cong tay trái, thân hình nhẹ nhàng né sang bên, vừa chiết chiêu vừa trả đòn. Đôi bên giao thủ ba bốn chiêu thì Hứa Nhất Thành thu tay lại, “Khá đấy. Nhà họ Hoàng xưa nay vẫn văn võ song toàn mà. Cháu luyện Hình Ý quyền được bao nhiêu năm rồi?”

“Mười một năm ạ!” Hoàng Khắc Vũ đáp.

“Ồ? Đồng Tử công à? Giỏi quá. Thầy cháu là ai?”

“Thầy Tống Thế Dung ở Đại Hưng. Nhưng Minh Nhãn Mai Hoa không coi tập võ là việc chính, nên cháu chỉ nhận thầy chứ không vào sư môn.” Nói đến chuyện học võ, Hoàng Khắc Vũ hào hứng hẳn, “Chú cũng biết võ ạ?”

“Chú chỉ biết vài chiêu thôi, tập cho khỏe người ấy mà.” Hứa Nhất Thành xua tay rồi nhìn xa xăm, “Tiếp theo đây chẳng biết sẽ gặp kẻ địch lợi hại nhường nào, chú không thể phân tâm được, đành nhờ cháu cả đấy.”

Hoàng Khắc Vũ ưỡn ngực nói to, “Chú yên tâm! Có cháu ở đây, kẻ khác đừng hòng động đến một sợi tóc của chú.” Dứt lời cậu lập tức nhìn quanh đầy cảnh giác.

Thấy thế Hứa Nhất Thành cười nói, “Cháu không cần căng thẳng quá, chúng ta đã bắt đầu điều tra đâu.” Hoàng Khắc Vũ ngượng nghịu gãi đầu cười.

Hai người rời quán trà, Hứa Nhất Thành hỏi Hoàng Khắc Vũ đã nghe tên Bùi Đào bao giờ chưa, cậu thật thà đáp, “Có lần cha cháu nhắc tới, nói rằng lão ta vừa ngu ngốc vừa cứng đầu, còn cứng đầu hơn cả sư tử đá trên cầu Lư Câu nữa. Chú cháu mình tính thế nào đây?”

Hứa Nhất Thành phủi vạt áo. “Chú nghĩ được mấy cách rồi, giờ có cháu ở đây, ta cứ thử làm thế này xem sao.”

Hoàng Khắc Vũ thấy áo y phồng lên, như có nhét đồ bên trong, có lẽ là thứ Hứa Nhất Thành chuẩn bị suốt nửa ngày nay.

Đột nhiên, Hứa Nhất Thành hỏi, “Này, cháu đã bao giờ diễn kịch nói chưa?”

“Là cái gì ạ? Cháu chưa diễn bao giờ.” Hoàng Khắc Vũ thộn mặt.

Hứa Nhất Thành cười khì, vỗ thật mạnh vào vai cậu. “Thế thì lần này cháu thử xem.” Dứt lời y sải bước đi trước, Hoàng Khắc Vũ lật đật theo sau, vẫn chưa hiểu đầu cua tai nheo gì.


Nhà hàn lâm Bùi Đào ở cổng Đông Trực, khá gần đường cái, tuy không giàu có song cửa rả cũng rất rộng rãi sáng sủa, hai bên còn dán đôi câu đối viết theo thể Quán Các, “Chư hầu bốn bể về chầu thiên tử, kinh sách Phật Đạo theo lời thánh nhân”. Trên treo tấm hoành phi “Ngọc đường thanh bí”. Ngọc đường là cách gọi văn hoa chỉ viện hàn lâm, thanh bí là biệt hiệu của hàn lâm, đủ thấy ông lão này rất tự hào về chức hàn lâm triều Thanh của mình, chỉ sợ người ta không biết.

Gốc dương trước cổng lúc nào cũng có mấy cỗ xe kéo chực sẵn, đám phu xe đều biết thường ngày hay có người đến nhà Bùi Đào bán cổ vật, lúc đi khỏi nhất định đem theo vàng ròng bạc trắng, tâm trạng phấn khởi, đi xe cũng thưởng thêm mấy đồng.

Lúc này, một phu xe đang ngả lưng trên thùng xe, lấy khăn bông che mặt ngủ gật, chợt bị đồng nghiệp đánh thức. Hắn còn đương dụi mắt đã nghe đồng nghiệp giục, mau mau ra xem, hàn lâm Bùi Đào lại có khách đến bán đồ rồi… Ái chà! Lần này là một cậu choai choai, mới lạ đây. Đám phu xe nhìn kỹ, thấy một thiếu niên mặc áo lụa, ôm tay nải ngó vào cổng nhà họ Bùi.

Thiếu niên nọ trông rất khỏe khoắn, cứ lòng vòng trước cổng, mấy lượt định bỏ đi nhưng tần ngần đi được mấy bước lại vòng về, dùng dằng lưỡng lự mãi, đầu cúi gằm như sợ người ta nhìn thấy. Toán phu xe trông mà sốt cả ruột, bắt đầu huýt sáo chọc ghẹo, làm cậu chàng giật bắn mình, đỏ bừng mặt, bấy giờ mới hạ quyết tâm đi đến đập cửa.

Chẳng bao lâu sau, cô hầu béo nhà họ Bùi ra mở cổng, thấy một thiếu niên ôm tay nải, biết ngay lại đến bán đồ cho ông chủ nên chẳng hề tỏ vẻ ngạc nhiên. Cô ta hỏi họ tên, song cậu chàng đỏ bừng mặt không chịu nói, chỉ nhắc đi nhắc lại rằng muốn gặp cụ hàn lâm để bán đồ. Cô ả chẳng biết làm sao, đành quay vào báo với chủ, Bùi Đào nghe nói mừng rỡ, vội sai mời ngay vào. Nhưng cậu chàng vẫn không chịu, viện cớ rằng vườn rộng sân sâu vào rồi khéo không ra được nữa. Bùi Đào dở khóc dở cười, có điều việc mua bán cổ vật không câu nệ thân phận, tính tình kẻ bán càng kỳ quái, chưa chừng vật rao bán lại càng quý giá, nên đành tự ra xem.

Thấy Bùi Đào, cậu trai nọ chẳng hề chắp tay chào mà hỏi đốp luôn: “Tôi có món này, ông muốn mua không?” Trong giới cổ vật thường không gọi mua bán, chỉ nói là thu nhượng, tên oắt này vừa mở miệng đã hỏi có mua không, rõ là tay gà mờ. Bùi Đào vuốt bộ râu muối tiêu, cả cười đáp, “Cậu bán cái gì, phải để tôi xem đã chứ.”

Cậu chàng bèn mở tay nải ra, bên trong có một chiếc mõ gỗ. Mõ này mình tròn ruột rỗng, hai bên khum khum khắc thành hình đôi rồng chụm đầu, bụng chạm hổ nằm, tay nghề khá tinh xảo. Thấy chiếc mõ được chạm khắc tỉ mỉ, Bùi Đào cũng thinh thích, bèn cầm lên mân mê. Mõ làm bằng gỗ trắc, nhưng vỏ ngoài lại xám xịt thâm xỉn, như nhuốm màu năm tháng phôi pha, nhìn thật kỹ mới thấy độ bóng.

Bùi Đào nghe người ta nói gốm xem men, gỗ xem sơn. Nhưng nước sơn của đồ gỗ cũ thường xỉn màu loang lổ, chỉ đồ mới mới sáng bóng. Lão tự cho mình là cao thủ giám định, bèn miết tay lên bề mặt mõ, thấy ram ráp, đây là do những vết nứt cực nhỏ trên mặt sơn bị năm tháng bào mòn, nếu là đồ giả thì vết nứt sẽ không đều và nhỏ thế này, mà vỡ thành từng mảng lớn. Bùi Đào kết luận ngay rằng mõ này ắt có niên đại khá xa.

Lão đặt mõ xuống, hỏi, “Cậu lấy thứ này từ đâu?”

Cậu trai nọ lại đỏ mặt đáp, “Ông mua thì mua, cần gì căn vặn kỹ thế.”

Bùi Đào vuốt râu chân thành khuyên, “May cho nhà cậu hôm nay gặp được ta đấy, tiện đây ta cũng dạy cho cậu vài quy củ làm người, muốn bán đồ cho ai phải nói rõ lai lịch, bằng không lỡ đây là của trộm cướp, chẳng phải ta cũng bị dính líu ư? Khổng Tử còn không chịu uống nước suối Đạo nữa là…”

Vừa nghe nhắc đến suối Đạo, cậu chàng tái mặt giật lấy cái mõ kêu, “Tôi không bán nữa,” rồi quay người định đi. Bùi Đào thấy vậy vội giữ lại, nói rằng chỉ lấy ví dụ chứ không cố ý nói cậu. Đôi bên còn đang giằng co thì một người đàn ông từ bên kia đường chạy lại. Người này dáng dong dỏng cao, mặt vàng như nghệ, đeo kính đen gọng tròn, tay lăm lăm ba toong. Nhác thấy y, cậu trai trẻ giật thót mình cuống cuồng cuốn tay nải lại, khom người định chạy, song đã bị người kia thộp cổ áo mắng té tát, “Thằng mất nết này lại thó đồ nhà đem bán phỏng!” Đoạn giật lấy tay nải, vung ba toong lên đập túi bụi làm cậu chàng nọ nhảy tưng tưng như phải lửa.

Đám phu xe xúm xít đứng xem cười rộ lên.

Người đàn ông mặt vàng đánh cho cậu trai một trận rồi khum tay tạ lỗi với Bùi Đào, “Thằng ranh này dám đem báu vật gia truyền đi bán lấy tiền mua thuốc phiện, bôi tro trát trấu vào mặt tổ tông, làm trò cười cho ngài rồi.” Bùi Đào nghe vậy thì không khỏi bùi ngùi đồng cảm. Con trai lão cũng nghiện thuốc phiện, tháng trước còn đánh cắp thuốc phiện sống, suýt nữa bị hạ ngục, giờ lại gặp ngay một tên phá gia chi tử.

Người kia cuốn tay nải, quay người định bỏ đi. Bùi Đào vội níu lại hỏi, “Vừa rồi anh nói mõ này là báu vật gia truyền nhà anh ư?”

Mõ gỗ tuy có vẻ là đồ cổ, song lại bằng gỗ, nên Bùi Đào thấy không đáng bao nhiêu tiền. Giờ lại nghe nói là báu vật gia truyền, hẳn còn có lai lịch đi kèm. Bùi Đào xưa nay vẫn vỗ ngực tự xưng là cao thủ giám định, đã cứu lấy vô số báu vật từ trong dân gian, đời nào chịu bỏ qua cơ hội này.

Người kia ngập ngừng giây lát rồi đáp phải, đúng là của gia truyền nhà chúng tôi. Bùi Đào lại hỏi, “Ta trước đây là hàn lâm dưới thời nhà Thanh, đã thấy rất nhiều cổ vật. Vừa rồi cũng xem qua mõ gỗ này, tiếc rằng ta mắt kém không nhìn ra được, mong anh bỏ quá cho, chẳng hay nó có điểm gì đặc biệt?”

Kẻ nọ nghe vậy thì ngừng tay, mở lại tay nải, trỏ cái mõ rồi nói, “Ông đức cao vọng trọng, xin chớ nói bừa. Mõ gỗ này là vật năm xưa Đường Minh Hoàng từng dùng khi tụng kinh niệm Phật đó.”

“Đường Minh Hoàng ư?”

“Đúng thế, ở ngay trong minh đường Đường Minh Hoàng xây cho Dương quý phi đó, kịch chẳng vẫn viết thế sao?”

Bùi Đào cười khà, trỏ người kia bảo, “Đúng là trò cười. Minh đường vốn do Võ Tắc Thiên xây dựng, sau có thiên đường, giữa có tượng Phật lớn, về sau bị thiêu trụi trong một trận hỏa hoạn, liên quan gì tới Lý Long Cơ và Dương Ngọc Hoàn? Dốt lắm!”

Người nọ bàng hoàng ra mặt, “Ông nói thật không?”

“Ta là hàn lâm, chẳng lẽ lại đi lừa anh?”

“Nhưng tổ tiên bao đời nhà tôi lại nói khác. Ông xem dưới đáy mõ còn chạm hoa văn đây này.” Y hối hả lật mõ lên, bấy giờ Bùi Đào mới để ý thấy dưới đế mõ có mấy hoa văn trông quen quen, nhưng không nhớ từng thấy ở đâu. Kẻ kia giải thích, “Hoa văn này trong tiếng Phạn gọi là hoa Phân Đà Lợi, tức hoa sen trắng, chẳng phải Dương quý phi ở trong hồ sen ư?”

Bùi Đào vừa tức vừa buồn cười, “Sử cũ vật xưa bị đám người chỉ biết võ vẽ nửa vời như anh làm loạn cả rồi. Cái gì mà hồ sen, đó là hồ Hoa Thanh! Chỉ có Võ Tắc Thiên mới gắn liền với hoa sen thôi! Bà ta tự xưng là Di Lặc đầu thai, luôn có hoa sen bên cạnh. Pháp khí chạm hình hoa sen này là vật trong minh đường để bà ta sử dụng mới phải!”

“Hả? Ý ngài nói, đây là vật của Võ Tắc Thiên?”

Bùi Đào gật đầu, thầm đắc ý vì mình tinh mắt giỏi xem hàng, lại làm rõ được một vụ lầm lẫn. Mặt Vàng ôm cái mõ lầm bầm, “Thảo nào tổ tiên nhà tôi cứ đinh ninh dặn phải giữ kỹ cái mõ này, hóa ra không phải đồ Dương quý phi ngâm dưới hồ Hoa Thanh, mà là Võ Tắc Thiên dùng trong minh đường. Ai dà, ông chủ Bùi có biết chiếc khánh đồng cũng có hình hoa sen thế này không?”

Bùi Đào chẳng thèm chấp chuyện y gọi lầm, bởi lão vừa nghe đã giật thót trong lòng, nhíu mày hỏi, “Anh bảo sao cơ?”

“Tổ tiên nhà tôi truyền lại rằng trong minh đường ngoài cái mõ gỗ này còn một chiếc khánh đồng nữa, cũng chạm hình hoa sen. Dặn con cháu phải để ý tìm kiếm, nếu có đủ đôi thì quả là công đức vô ngần…”

Bùi Đào nghe như sét đánh ngang tai: Sao mà trùng hợp thế? Tháng trước để chuộc thằng con mất nết về, lão vừa phải biếu Ngô Diêm Vương một chiếc khánh đồng thời Võ Chu, hình như cũng có hoa văn hoa sen. Lão vội cầm lấy chiếc mõ xem đi xem lại hình hoa sen trên đó, càng xem càng thấy giống, càng xem càng nóng ruột.

Đệ tử nhà Phật khi tụng kinh lễ bái thường dùng cả khánh đồng lẫn mõ gỗ để điều tiết nhịp tụng nên hai thứ này luôn đi đôi với nhau. Phép chơi đồ cổ trọng việc đủ bộ, một bộ đồ trà đầy đủ sẽ có giá gấp mấy lần bộ thiếu chén; một cặp bình phong cũng có giá hơn hai chiếc bình phong rời nhiều. Bùi Đào thầm tính toán, nếu có đủ cả mõ gỗ và khánh đồng từng được dùng trong minh đường Tắc Thiên thì quý biết ngần nào!

Ngô Diêm Vương không am hiểu đồ cổ, chưa chừng lão vẫn chuộc lại được khánh đồng, cố mua lấy mõ gỗ này nữa, thế là lại cứu được một bộ báu vật quốc gia!

Nghĩ vậy, Bùi Đào hắng giọng, “Quân tử không đoạt cái người ta yêu thích, nhưng lão phu từng thề trước Bồ Tát rằng sẽ thờ cúng một trăm chiếc mõ có duyên với nhà Phật, giờ chỉ thiếu một chiếc nữa là viên mãn. Chi bằng anh tác thành cho ta đi, muốn bao nhiêu cứ ra giá.”

Mặt Vàng lắc đầu quầy quậy, “Thằng bé nhà tôi không hiểu chuyện nên mới đem bán. Của gia truyền đâu thể mang bán tùy tiện thế được.” Bùi Đào nài nỉ mấy hồi, Mặt Vàng vẫn khăng khăng không chịu. Cuối cùng Bùi Đào đành mời mọc, “Anh tới phủ ta cũng là cái duyên, hai ta không nói chuyện mua bán nữa, mời anh vào ngồi chơi xơi chén nước được không? Coi như nể mặt ta từng làm hàn lâm dưới triều Thanh đi mà.”

Mặt Vàng hết cách, đành vâng lời. Bùi Đào dẫn y vào phòng đọc sách, cho y xem bộ sưu tập của mình. Có điều Mặt Vàng là dân ngoại đạo, nào hiểu được chỗ tinh diệu bên trong, chỉ biết bình phẩm theo kiểu món to thì khen món nhỏ thì chê. Bất luận Bùi Đào đưa thứ gì ra, y cũng chỉ có bốn chữ, “Đẹp thật, to quá.”

Bùi Đào giải thích bã bọt mép, thấy đúng là đàn gảy tai trâu, chán chẳng buồn nói nữa, chỉ tán chuyện phiếm. Trò chuyện một hồi, thấy đã hòm hòm, lão thở dài, “Giờ nho sinh quét rác, đạo học suy đồi, giới cổ vật bị đám thương lái đần độn nắm giữ, rặt một lũ dốt nát lại hay nói nhăng nói cuội, đấu đá lẫn nhau. Thảng hoặc có người ngoài chỉ cho cái sai thì kéo bè kết phái công kích người ta. Lão phu dốc hết tâm sức cứu được không ít thứ, song cũng chẳng chống nổi thói đời bại hoại…” Lão kéo dài giọng rồi chậm rãi mở mắt nhìn người kia, “Thực chẳng dám giấu, ta rất thích chiếc mõ gỗ nhà anh, hay là nhượng lại cho ta đi.”

Mặt Vàng lúng túng nói đây là vật gia truyền, không thể nhượng lại, tháng trước có người ra giá cực cao đòi mua, y cũng không chịu. Bùi Đào nghe nói tháng Tư vừa có người hỏi mua, sực nhớ ra mình cũng mua được khánh đồng vào khoảng đó, vội hỏi người mua tên gì. Mặt Vàng đáp là người của cửa hiệu nào đó, ấp úng mãi vẫn không nhớ được tên, Bùi Đào sốt ruột hỏi luôn, có phải Cục Khai khẩn không.

Mặt Vàng thoạt nghe đã gật đầu lia lịa, “Phải phải, người nọ không cao lắm, nhưng không lùn, trông cũng ưa nhìn, họ… ái chà, họ gì ấy nhỉ?”

“Họ Tôn phỏng? Dưới mắt phải có một nốt ruồi đen đúng không?” Bùi Đào hỏi.

“Đúng đúng, cụ cũng biết à?”

“Sáu Tôn chứ gì, hừm, nó ra giá cao ấy à? Thằng ấy nghèo kiết xác, lấy đâu ra tiền mua đồ cổ.” Bùi Đào càng tin chắc mình đoán đúng, bèn ghé lại gần, hồi hộp hỏi, “Nó còn nói gì không?”

“Anh ta nói trong tay mình có đồ đồng gì đó, muốn mua cái mõ nhà tôi để hợp thành một đôi. Nhưng tôi không chịu.”

“Khánh đồng chạm hoa sen đúng không?”

“Hả? Đúng rồi, cụ thấy rồi à?”

Bùi Đào vuốt râu, “Anh không chịu là phải lắm. Thằng ranh ấy thường hay tới bán đồ cho ta, có rất nhiều đồ giả. Lần trước nó cho ta xem cái khánh ấy rồi, nhìn đã biết là giả.” Lão nhìn Mặt Vàng rồi chân thành nói, “Giữ gìn báu vật gia truyền là phải. Có điều mõ gỗ này đã trải hơn nghìn năm, dễ gì hợp được thành một đôi với khánh đồng khi xưa? Chẳng bằng để lão phu giữ giúp anh, thờ trước bệ Phật, lại tích được ít công đức.”

Nhưng Mặt Vàng cũng cứng đầu, mặc Bùi Đào thuyết phục hết nước hết cái, đủ cả tình lý, y vẫn một mực không chịu. Dùng dằng mãi, Bùi Đào không lay chuyển nổi, đành nói anh ta để lại địa chỉ. Mặt Vàng cầm lấy bút, nhất thời tuột tay đánh rơi mõ gỗ xuống đất, vỡ thành hai nửa.

Cả hai nhất thời sững ra. Mặt Vàng cúi xuống nhặt mõ lên, cuống quýt nói làm sao bây giờ. Bùi Đào thấy bảo bối tự nhiên vỡ đôi thì cụt hứng, lại sợ Mặt Vàng thừa cơ ăn vạ, vội xua tay: “Tự anh làm vỡ chứ ai, liên quan gì tới ta, anh mau về đi thôi.”

Mặt Vàng thẫn thờ rời nhà Bùi Đào, đi được một quãng thì đổi hẳn nét mặt, ngoặt ngay vào ngõ nhỏ rồi đi thẳng đến một hiệu may. Cậu chàng vừa nãy đang đợi sẵn bên trong, vừa thấy y liền hỏi đã moi được chưa. Mặt Vàng tháo kính, lấy khăn tay ra lau hết sáp vàng trên mặt, để lộ nụ cười thản nhiên quen thuộc, “Xong rồi.”

Cậu trai nọ là Hoàng Khắc Vũ, còn Mặt Vàng dĩ nhiên là Hứa Nhất Thành.

Hứa Nhất Thành gấp gọn khăn tay nhét vào túi áo, ngồi xuống ghế mây bưng chén trà lên, ừng ực uống một hơi cạn sạch, “Bùi Đào rõ phường keo kiệt, chú ngồi chơi nói chuyện với lão bã bọt mép mà lão chẳng nỡ mời một chén trà, làm chú khát khô cả cổ.”

Hứa Nhất Thành vào phủ Bùi ngồi chơi chưa đầy một tiếng đã dò la được tin tức, khiến Hoàng Khắc Vũ phục sát đất. Y đặt chén xuống, xua tay, “Thực ra chuyện này rất đơn giản, lão Bùi Đào này mắt cao hơn đầu, quá tự phụ, không chịu nghe người khác khuyên ngăn. Cháu chỉ cần mớm lời cho lão, để lão tưởng tất cả phán đoán đều do lão tự đưa ra là xong.”

“Chú Thành leo sào giỏi quá, cháu trước giờ chỉ nghe nói, hôm nay mới được chứng kiến đấy.” Hoàng Khắc Vũ trầm trồ.

“Leo sào” không phải thuật ngữ trong giới cổ vật, mà là tiếng lóng ở Thiên Kiều. Để dụ con mồi, đám lừa gạt trước tiên sẽ vờ vịt hỏi han mục tiêu, rồi cố làm ra vẻ hờ hững để mục tiêu tự tìm đến, khăng khăng bắc sào leo vào lưới. Người ta thường cho rằng kẻ đã không muốn bán thì không thể là quân lừa gạt, thế nên mới dễ dàng mắc bẫy.

Hứa Nhất Thành ngả người ra ghế, đan tay vào nhau, nhếch mép cười, “Chú không muốn gạt lão ta nên mới cố tình đánh vỡ mõ. Nếu định lừa đảo thì còn hàng loạt chiêu trò chờ sẵn đằng sau, muốn lấy cả phủ nhà lão cũng chẳng khó gì.”

Hoàng Khắc Vũ thầm tặc lưỡi. Trong ấn tượng của cậu, Hứa Nhất Thành là người hiền hòa nho nhã, chẳng ngờ y cũng có khía cạnh độc đoán và thủ đoạn tàn nhẫn như vậy. Cậu bèn hỏi y lấy đâu được chiếc mõ gỗ.

Hứa Nhất Thành trỏ ra sau tiệm may, ở đó có một bức vách mới, che rèm ngăn, dưới đất đặt một thùng gỗ lem luốc đựng đầy vôi, giải thích: Trước tiên tìm một cái mõ gỗ trắc vừa phải, ngâm vào nước vôi, mấy phút sau sẽ thành màu xám trắng, lại phết sáp Anh quốc mà tiệm may thường dùng nhuộm vải hoa lên khiến nó xỉn màu đi, cuối cùng lấy dao khắc trong bộ Kim Đáy Bể khắc hình hoa sen vào đáy mõ là xong, tất cả công đoạn mất chưa đến nửa ngày.

“Thế thôi ạ?”

“Thế thôi. Buôn bán cổ vật phải đến bảy phần là nhờ miệng lưỡi, giám định chỉ chiếm ba phần thôi. Hễ cháu khua môi múa mép làm đối phương tin tưởng, không phát hiện ra chỗ sơ hở thì đồ giả lộ liễu đến đâu cũng bán được tuốt.” Nói tới đây, Hứa Nhất Thành nghiêm nghị nhìn Hoàng Khắc Vũ, “Giờ cháu đã hiểu vì sao các bậc tổ tiên trong Minh Nhãn Mai Hoa phải đặt ra quy tắc ‘nghiêm cấm làm giả’ chưa? Người trong Minh Nhãn Mai Hoa quá am hiểu về đồ giả, nếu không có luật lệ ràng buộc, e rằng giới cổ vật sẽ loạn lên mất.”

Hoàng Khắc Vũ hỏi, “Tiếp theo chú cháu mình đi đâu đây?”

Hứa Nhất Thành nhấc nắp chén trà lên, thong dong đáp, “Chẳng đi đâu hết, đợi ở đây thôi!” Rồi lặng thinh không nói gì nữa.

Nếu Lưu Nhất Minh giở trò úp mở thế này, Hoàng Khắc Vũ đã cho một đấm. Nhưng với Hứa Nhất Thành, cậu chẳng dám gặng thêm, đành ra sân sau xuống tấn tập quyền. Hứa Nhất Thành bưng chén trà ngồi vắt chân xem Hoàng Khắc Vũ chăm chú tập từng chiêu từng thức, thích thú nhận xét, “Này Khắc Vũ, cháu có khiếu đóng kịch đấy, có muốn vào tổ kịch nói ở Thanh Hoa không, có nhiều bạn nữ lắm.” Hoàng Khắc Vũ cúi đầu không đáp, cắm cúi tập quyền.

“À đúng rồi, chú hỏi cháu một chuyện, phải nói thực nhé.” Hứa Nhất Thành chợt hỏi.

Hoàng Khắc Vũ thấy như bị làm nhục, vội vỗ ngực cam đoan, “Trước nay cháu chưa bao giờ nói dối.”

Hứa Nhất Thành cười nói, “Nhất Minh cứ lăm le xúi chú giành lấy chức chưởng môn là vì kiêu ngạo. Còn cháu thì vì sao?”

Hoàng Khắc Vũ ngẩn người giây lát rồi đáp, “Cháu nhớ hồi nhỏ làm đề quý, phải lấy da hươu lau tỉ mẩn từng món đồ, cháu rất thích, cứ cầm khư khư săm soi. Giờ Minh Nhãn Mai Hoa khác lắm rồi, nhiều người cứ mở miệng ra là tiền. Có lần chú Hai cháu tìm được hai chiếc tráp đồng thời Tần, rất đáng tiền, vậy mà chú ấy sẵn sàng đập nát một chiếc ngay trước mặt mọi người, nói rằng giờ cả thiên hạ chỉ còn duy nhất một chiếc này thôi, thế là giá của nó lập tức vọt lên gấp mấy lần. Bận ấy chú cháu kiếm bộn tiền, nhưng cháu luôn cảm thấy làm như vậy là không phải, rất không phải lẽ…”

Thấy Hoàng Khắc Vũ vừa nói vừa nhìn thẳng vào mình, Hứa Nhất Thành biết cậu hồn nhiên chất phác, hễ gặp chuyện gì khó nghĩ sẽ canh cánh mãi trong lòng, bèn thở dài, “Dạo ấy chú rời Minh Nhãn Mai Hoa cũng một phần vì thế đấy.”

“Chú không giống họ, đi theo chú cháu thấy rất thoải mái, lại vững dạ.” Hoàng Khắc Vũ nói rất thành thật. Hứa Nhất Thành phì cười, còn chưa kịp đáp đã nghe tiếng chân bên ngoài. Ngay sau đó rèm cửa được vén lên, rồi Dục Phương bước vào, theo sau là Dục Bành.

Dục Phương không biết Hoàng Khắc Vũ, tưởng cậu là người làm, bèn đi thẳng đến hỏi Hứa Nhất Thành, “Anh nghe ngóng được gì rồi?”

Hứa Nhất Thành đáp, “Chính người của Cục Khai khẩn đã bán khánh đồng cho Bùi Đào, kẻ nọ tên Sáu Tôn, có nốt ruồi to dưới mắt phải.”

Nghe nhắc tới Cục Khai khẩn, ánh mắt Dục Phương và Dục Bành bỗng lóe lên sắc lạnh.

Cục Khai khẩn nghe thì như một cơ quan nông nghiệp, nhưng nguồn gốc thực ra không đơn giản. Cục được thành lập vào năm Dân Quốc thứ mười, bấy giờ có một hiệu buôn Thiên Phong Ích thường chặt trộm cây gần Đông lăng. Dục Bành không ngăn được, đành báo cáo lên chính quyền. Tỉnh trưởng Trực Lệ là Tào Duệ ra lệnh tra xét thật nghiêm. Ngờ đâu Tào Duệ lại có lòng riêng, lấy cớ điều tra phái quân đến đóng giữ Đông lăng, lập ra một cơ quan gọi là Cục Khai khẩn, lấy tiếng khai khẩn, thực ra là chặt trộm, thả sức chặt phá bừa bãi. Tông thất chạy đôn chạy đáo gõ cửa vận động khắp nơi, đến năm Dân Quốc thứ mười lăm Cục Khai khẩn mới bị bãi bỏ, nhưng cây cối trong ngoài Đông lăng đã bị chặt sạch, còn trơ ngọn núi trọc.

Dục Bành giận dữ, “Mấy năm nay bọn chó ấy ức hiếp tôi bao nhiêu lần rồi? Thằng nào cũng khệnh khạng vênh váo, chẳng coi tông thất ra gì hết.”

Dục Phương cũng sầm mặt. “Cục Khai khẩn đã xéo nát Đông lăng rồi còn chưa thỏa lòng tham, định nhòm ngó cả lăng tẩm nữa sao!”

Hứa Nhất Thành lên tiếng hỏi, cắt ngang tràng bất bình của hai người kia, “Tìm được chủ mưu là tốt rồi, các vị có biết tay Sáu Tôn đó không?”

Dục Bành lắc đầu, “Người của Cục Khai khẩn đều chiêu mộ trong đám du đãng ở ngoại ô kinh thành, Trực Lệ và Thiên Tân, lúc chặt trộm thì rầm rộ, chia tiền xong lại tản đi ngay, không có biên chế cố định. E rằng ngay cả cấp trên của chúng cũng chẳng biết dưới quyền có bao nhiêu tên, lai lịch thế nào nữa.” Nói đến đó, Dục Bành sực nhớ ra, “Phải rồi, tôi quen viên kế toán chuyên trả lương ở Cục Khai khẩn, chưa chừng bác ta biết đấy.”

Dục Phương lườm em trai, “Còn lải nhải gì nữa, không mau đi hỏi đi?” Dục Bành rụt cổ, vâng dạ luôn mồm rồi hối hả đi mất. Dục Phương khum tay bảo Hứa Nhất Thành, “Tìm được tung tích tên Sáu Tôn, phiền anh ra tay giúp cho.”

Hứa Nhất Thành nheo mắt không đáp, chỉ nhấc nắp chén, thong dong hớp một ngụm trà xanh.