Quả lựu đạn này chính là bình acetylen để nạp đèn xì, đặt bên dưới bàn thao tác.
Hai lần sử dụng đèn xì trước, Doãn Hồng đã lén vặn lỏng ống dẫn khí nén của bình acetylen dưới gầm bàn. Vừa rồi nhân lúc mọi người cãi vã, bác ta lại len lén vặn chặt van an toàn ở miệng bình.
Sau khi các công tác chuẩn bị kể trên hoàn tất, tôi nhào đến giật ống dẫn khí nén ra. Kết quả một lượng lớn không khí đã thay thế cho khí Nitơ, mang theo cả gỉ sắt lẫn clorua ở miệng bình nháy mắt tràn vào bên trong, xảy ra phản ứng polyme hóa, sản sinh một lượng nhiệt lớn. Nhiệt độ và áp lực trong bình tăng vọt, nhưng lại không thể xả bớt ra ngoài bởi van an toàn đã được vặn chặt.
Sau đó, không có sau đó nữa…
Trước kia tôi từng làm cán sự môn Hóa, tuy về sau chuyển sang buôn đồ cổ, nhưng những thường thức về an toàn thì vẫn nhớ. May mà đây là bình acetylen để nạp đèn xì nên lượng khí không nhiều lắm. Nếu là bình dùng trong công nghiệp, chắc cả tòa nhà đã bị thổi bay rồi.
Bục giảng gỗ và bình phong gỗ đàn cũng không chắn được hết rung chấn mạnh như vậy, nhưng so với những kẻ khác trong phòng, chúng tôi đã đỡ hơn nhiều.
Tôi chui ra khỏi bục giảng gỗ đang lung lay chực đổ, cố nén choáng váng và đau đớn, nhìn sang phía bình phong. Cả căn phòng đang là không gian kín, vừa rồi tự dưng cả đám người lại ùa vào. Vụ nổ qua đi, khói bụi mù mịt, dưới sàn đầy những thân người nằm ngổn ngang chồng chéo lên nhau, chẳng rõ sống chết, thê thảm vô cùng.
Tôi chẳng còn bụng dạ đâu quan sát bãi chiến trường, bước thấp bước cao băng qua những thân người kia, đi về phía bức bình phong góc đối diện. Cố gạt những mảnh gỗ mảnh giấy vụn nát ra, tôi trông thấy Doãn Hồng đang ngồi ôm đầu run lẩy bẩy, hẳn là kinh sợ quá độ, may mà không bị thương.
Tôi vừa chạm vào, bác ta đã rú lên, nức nở kêu cha gọi mẹ hệt như một đứa bé.
Lòng tôi lạnh toát, sực nhận ra mình đã phạm phải một sai lầm trí mạng.
Hồi nhỏ Doãn Hồng đã tận mắt chứng kiến cha mẹ trúng bom mà chết, từ đó mới thành chứng tự kỷ, đây là ám ảnh lớn nhất trong tâm lý bác ta. Vậy mà giờ tôi lại để bác ta đối mặt với cảnh tượng kinh hoàng ấy lần nữa, đánh thức ký ức đau đớn nhất. Tôi không khỏi rầu rĩ, đều là tại tôi cả.
Tôi ra sức kéo tay Doãn Hồng khoác lên cổ mình, mặc cho bác ta gào thét, nghiến răng đi thẳng ra ngoài. Tiện thể tôi đảo mắt nhìn quanh, song không thấy bóng dáng Dược Bất Nhiên đâu cả, chẳng biết gã thế nào rồi.
Chúng tôi liêu xiêu rời phòng học, bên ngoài cũng đang rối cả lên. Đám công nhân ở xưởng và mấy tay bảo vệ lũ lượt chạy đến, song chẳng ai dám lại gần.
Chiếc xe Jeep của Âu Dương Mục Mục đậu ngay trước cửa, trên xe vốn có tài xế, song lúc này cũng đã xuống xe, sợ hãi nhìn về phía phòng học. Tôi dìu Doãn Hồng, hét lên với tài xế, “Bọn nó mạt cưa mướp đắng gặp nhau đấy! Đại ca Âu Dương bảo bọn mình mau đi trước!”
Thấy mặt mày tôi đầy bụi đất, tài xế không phân biệt được là ai nên có phần luống cuống. Tôi hùng hổ quát, “Dềnh dàng gì nữa! Trại Tế Liễu sắp đuổi đến nơi rồi, bọn nó mà quây lại thì chết cả nút!”
Nghe câu này, tài xế run lên bần bật. Hắn biết Quỷ Cốc Tử và Trại Tế Liễu vốn mâu thuẫn, hôm qua còn suýt nữa đánh nhau, giờ lại xảy ra vụ nổ lớn thế này, dĩ nhiên càng tin chắc lời tôi.
Hắn không dám chậm trễ, vội vã nổ máy. Tôi kéo Doãn Hồng vẫn đang run lẩy bẩy vòng ra sau xe, đẩy bác ta lên ghế sau.
Đang định trèo lên theo thì mắt cá chân thình lình bị tóm chặt. Tôi ngoái lại, trông thấy Long Vương người đầm đìa máu đứng ngay sau lưng, như một con thú dữ bị thương, hai mắt đằng đằng sát khí. Không ngờ tên này da dày thịt béo, vẫn trụ được qua vụ nổ. Hắn lôi tuột tôi từ trên xe xuống.
Cái khó ló cái khôn, tôi vỗ mạnh vào nắp thùng xe, ý bảo đằng trước mau lái đi. Tài xế ngồi trên ghế lái thò đầu ra nhìn, tôi quát lớn, “Mau lái đi! Đừng để người Trại Tế Liễu đuổi kịp! Tao yểm hộ mày!” Thấy một kẻ mình đầy máu me, tài xế kinh hãi đạp mạnh chân ga, chiếc xe rồ ga lao vọt đi. Long Vương tức giận nổ mấy phát súng, nhưng chỉ tổ phản tác dụng, xe càng chạy nhanh hơn.
Long Vương toan lái xe đuổi theo, song tôi đã nghiến răng quay người lao tới, quần nhau với hắn. Doãn Hồng là do tôi kéo vào, không có bác ta, kế hoạch của tôi không thể thực hiện được, bất luận thế nào tôi cũng phải bảo vệ tính mạng bác ta trước.
Dựa vào mấy chiêu võ vẽ làm màu, tôi nào phải đối thủ của Long Vương, chẳng mấy chốc đã bị quật ngã. Nhưng lúc này xe đã chạy xa, có gọi nữa cũng không quay lại được.
Long Vương nhổ toẹt một bãi nước bọt lẫn máu, giẫm mạnh lên bụng dưới tôi. Tôi gào rú thảm thiết, song hắn chẳng chút nương tình, nện gót ủng da quân dụng xuống đã đành, còn xéo thêm mấy cái.
“Thằng chó, mày đừng hòng chết chóng.” Hắn gầm lên dữ tợn, đoạn tóm một chân tôi, xềnh xệch kéo lê vào phòng học. Lưng tôi cấn xuống nền đất mấp mô đau nhói.
Lúc này cơn sang chấn sau vụ nổ đã bước đầu qua đi, bụi bặm lắng xuống. Những kẻ may mắn còn sống lảo đảo chạy ra ngoài kêu cứu, người bị thương thì rên rỉ kêu la. Người bên ngoài cũng lũ lượt đổ xô tới, tay năm tay mười thu dọn. Quỷ Cốc Tử và Trại Tế Liễu quên cả hằm hè nhau, phe nào phe nấy đều lo đếm xem người mình còn được bao mống.
Long Vương gọi một tên đàn em đến, sai hắn mau lái xe đuổi theo Doãn Hồng, rồi ném tôi xuống cạnh một tảng đá lớn, nhìn trân trân căn phòng đã thành đống đổ nát.
Âu Dương Mục Mục được hai tên khiêng ra, gương mặt rỗ bê bết máu, trước ngực còn cắm một mảnh vỏ bình acetylen. Tôi nhớ lúc nổ, hắn đứng gần bàn thao tác nhất, tay còn cầm mảnh sứ, nên bị thương nặng nhất. Giờ rốt cuộc còn sống hay đã chết, chẳng ai biết được.
Những kẻ khác cũng lục tục được khiêng ra, cho nằm tạm trong bãi đậu xe trước tòa nhà, mười mấy thân xác xếp la liệt chen chúc, tên nào tên nấy máu me đất cát đầy người.
Trái với dự đoán của tôi, Liễu Thành Thao vẫn còn sống, mái tóc bạc trắng gần như phủ đầy bụi đất. Khóe mắt y rách toạc một vệt dài, máu đỏ theo khóe mắt chảy xuống gương mặt trắng bệch. Ngoài vết thương đó ra, y chẳng sây sát mảy may, chỉ là đi lại không được nhanh nhẹn, rõ ràng vẫn chưa hoàn hồn sau vụ nổ.
Liễu Thành Thao tập tễnh đi tới trước mặt tôi, đế giày miết lên cát sàn sạt, đầy oán hận và ác ý như con rắn độc từ từ trườn về phía con mồi.
Long Vương trầm giọng báo cáo, “Đại ca, lão thợ bạc chuồn rồi, em chỉ tóm được thằng chó này thôi.” Liễu Thành Thao ừm một tiếng, ngồi xổm xuống nhìn tôi, “Anh đã vạch ra chuyện này từ lúc ở Thiệu Hưng rồi đúng không?”
“Chính xác.” Tôi nằm ngửa dưới đất, lòng bình thản, không mảy may sợ hãi.
“Âu Dương Mục Mục là anh gọi tới phá rối đúng không?”
“Đúng.” Tôi thậm chí còn cười.
“Lúc trước anh đã động chân tay vào mảnh sứ kia đúng không?” Liễu Thành Thao vốn thông minh, từ vụ nổ bất ngờ này, y đã dần đoán ra gần như toàn bộ kế hoạch của tôi.
“Tiếc rằng mày phát hiện ra quá muộn.”
“Không, chưa muộn đâu, anh vẫn đang trong tay tôi mà.” Liễu Thành Thao nhếch mép, chẳng biết là cười hay đe dọa, vệt máu từ khóe mắt chảy qua gò má, xuống đến khóe miệng.
Y đứng thẳng dậy, quay sang dặn dò đám tay chân dọn dẹp bãi chiến trường rồi ra hiệu cho Long Vương lôi tôi lên căn phòng ngủ trên tầng ba. Vừa vào phòng, Long Vương đã đạp tôi ngã lăn ra đất, dùng dây thừng trói gô hai tay tôi vào chân giường.
Liễu Thành Thao lấy một chiếc khăn tay trắng muốt lau sạch vết máu trên khóe mắt, đi đi lại lại trong phòng, “Có biết sao tôi lại sắp xếp cho các vị ở gian phòng này không? Bởi nó rất có ý nghĩa kỷ niệm với tôi.” Ngừng một lát, y đưa mắt nhìn sang đống đồ sứ trắng bày thành hàng trên kệ ti vi.
“Dược Bất Nhiên đã nói với anh rồi đúng không? Những món này là sứ xương cả đấy. Mỗi món đều từng là kẻ địch hoặc kẻ phản bội tôi.” Vừa nói, y vừa với tay lấy một chén trà trên kệ, “Anh nhìn chén trà cánh sen này mà xem, đây từng là đối thủ cạnh tranh lợi hại nhất của tôi, đầu óc nhanh nhạy, khí thế hừng hực.”
Đoạn y đặt chén trà xuống, cầm lên một khay bát phúc, “Còn món này là một trợ thủ đắc lực của tôi, tận tụy theo tôi suốt ba năm. Tiếc rằng thằng lỏi con lập trường không vững vàng, phạm phải điều sai trái. Chà, nhẽ ra phải khắc bản mặt nó cầu khẩn tôi lúc lâm chung lên khay.”
Y đặt khay về chỗ cũ, giơ tay vuốt nhẹ lên một bình mai đường nét tinh xảo, buột ra tiếng thở dài hiếm hoi, “Đây là người tình của tôi, học khoa tiếng Anh, xinh lắm, khoản giường chiếu cũng khá, tiếc rằng không chịu an phận. Tôi nung cô ấy thành bình mai để kỷ niệm thân hình tuyệt đẹp khiến người ta mê mẩn tâm thần.”
Cứ cầm lên một món, y lại kể một câu chuyện. Cặp mắt Liễu Thành Thao ánh lên vẻ tàn nhẫn và phấn khích, thậm chí còn thoáng niềm say mê, phải biến thái đến mức nào mới đem kẻ thù nung thành đồ sứ để ngắm kia chứ. Đột nhiên y giơ tay túm tóc tôi kéo giật. Da đầu tôi đau buốt, bị y giật mất một túm tóc.
“Anh đối với tôi thực tốt lắm, nên tôi sẽ cho anh hưởng đãi ngộ chưa từng có. Những kẻ khác đều bị hỏa thiêu rồi mới đem nung thành sứ, anh có muốn thử được đưa ngay vào lò lúc sống, nếm trải cảm giác cơ thể sống hòa làm một với sứ không?”
Tôi chẳng hé răng, bởi biết không cần trả lời.
“Không vội đâu, anh cứ từ từ suy nghĩ. Tôi sẽ vời thợ giỏi nhất, trát cao lanh lên khắp người anh, rồi quét một lớp men dày ra ngoài, chỉ chừa hai lỗ mũi. Nếu anh bằng lòng, tôi còn có thể bảo họ vẽ thêm hoa văn lên nữa. Sau đó anh sẽ được đưa vào lò gốm, đặt dựa vào tường, từ từ tận hưởng sức nóng mấy nghìn độ. Nhiệt độ lò sẽ tăng dần dần, cao lanh cũng không dẫn nhiệt nhanh đâu, nên anh sẽ chết rất chậm. Sức nóng khiến cao lanh từ từ cứng lại, anh sẽ cảm thấy làn da bị bề mặt sứ nóng hút chặt lấy, như thể bị gí bàn là lên khắp người, nhưng anh chẳng chạy đi đâu được, cũng không nhúc nhích nổi, chỉ có đầu óc vẫn còn tỉnh táo, cảm nhận rõ rệt da thịt rộp lên, cơ bắp chín nhừ, sứ lỏng nửa nóng chảy sẽ tràn vào bên trong cơ thể anh, thiêu cháy mạch máu và thần kinh của anh. Anh sẽ kinh hoàng cố hít thở, hít toàn không khí nóng giãy vào mũi để hấp chín bộ óc hèn hạ của anh. Nghĩ mà xem, anh có thể quan sát quá trình hỏa biến ở cự ly gần, đích thân hóa thành tro tàn hòa vào phôi sứ, bao nhiêu thợ gốm mong còn không được ấy. Hai mươi tư giờ sau, tôi sẽ mở lò, bấy giờ anh đã thành một món đồ sứ hình dáng kích thước y người thật. Nếu may mắn, trên đó thậm chí còn lưu lại cả nét mặt đau đớn tuyệt vọng của anh lúc lâm chung nữa. Ai da, nhà Phật nói người sống trên đời như trong lò lửa, anh như thế lại hợp với giáo lý nhà Phật, đẹp quá, đẹp quá.”
Liễu Thành Thao thao thao nói như mê như say, đắm chìm trong tưởng tượng tàn độc của mình. Long Vương đứng bên thán phục nhìn y, trầm trồ, “Đúng là đại ca có khác, em cùng lắm chỉ nghĩ được lăng trì tùng xẻo lóc từng miếng thịt nó thôi.”
“Can Tương Mạc Tà xả thân nhảy vào lò mới đúc ra được hai thanh kiếm báu, bà Đúc Chuông xả thân nhảy vào lò mới có chuông đồng Hoàng Giác ở Bắc Kinh. Đồ gốm sứ cũng vậy. Nếu có hồn phách con người kêu khóc bên trong, thể xác tan hòa vào trong, sẽ khiến sắc gốm sứ đẹp thêm gấp mấy lần.” Liễu Thành Thao vừa say sưa thuyết giảng vừa nhìn thẳng vào mặt tôi.
Tôi lên tiếng hỏi, “Mày không muốn nghe bí mật trong vệt trắng nữa à?”
Liễu Thành Thao cười ha hả, “Đã đến nước này, tưởng tôi còn tin anh hả? Huống hồ dù anh biết thật thì sao? Mấy hôm nay tôi đã nhìn ra, bí mật này phải mở đủ cả năm chóe mới làm rõ được. Hiện giờ Âu Dương Mục Mục chết rồi, chóe Quỷ Cốc Tử của lão cộng với chóe Trại Tế Liễu của tôi, thế là tôi đã nắm được hai trên năm khuôn giấy. Chỉ cần tìm thêm ba chiếc nữa là hiểu ngay, cần gì đến anh?”
Khuôn giấy của Trại Tế Liễu đã được Liễu Thành Thao cất giữ cẩn thận. Khuôn giấy Quỷ Cốc Tử hôm qua cũng được Âu Dương Mục Mục cất đi. Hai khuôn giấy đều không ở trong phòng học nên không bị vụ nổ thiêu hủy.
Y từ trên nhìn xuống tôi, “Anh giúp tôi xử lý một đối thủ, còn đưa tới một món quà quý. Tính toán đủ đường, ai ngờ cốc mò cò xơi nhỉ? Tuyệt vọng không? Hụt hẫng không?” Liễu Thành Thao càng nói càng hăng, giơ chân lên, lại bắt đầu giày xéo mặt tôi. Tôi không sao tránh được, bị giẫm đến sưng vù mặt mũi, song trên môi vẫn nở nụ cười.
Liễu Thành Thao càng xéo mạnh, muốn để tôi phải van vỉ xin tha. Y thích nhất là chứng kiến kẻ thù rơi xuống vực thẳm hối hận. Nhưng tôi quyết không để y được đắc ý, “Mày phạm sai lầm lớn rồi.”
“Ồ? Anh nói nghe xem.” Liễu Thành Thao thu chân lại, tò mò hỏi.
“Không chỉ mình mày có khuôn giấy đâu.” Tôi cười khan. Doãn Hồng có trí nhớ siêu phàm, ngay buổi tối trở về bác ta đã dựng lại khuôn giấy của hai chiếc chóe, đem theo bên người.
Liễu Thành Thao thất vọng ra mặt, “Anh cố đấm ăn xôi đấy à? Vô ích thôi.”
“Nếu tao nói bọn tao đã lấy được ba cái thì sao?” Tôi gắng gượng mở cặp mắt sưng húp.
Liễu Thành Thao khựng lại, “Ba cái ư? Mảnh sứ kia không phải giả à?”
Tôi cười phá lên, “Nói nó là Thắp nhang vái trăng thì là lừa mày, nhưng tao đâu nói nó không nằm trong bộ chóe năm.”
Liễu Thành Thao chợt lặng đi. Y nhận ra mình đã mắc phải một điểm mù tâm lý, ngỡ rằng thứ mạo xưng hàng thật nhất định là hàng giả, mà ngờ đâu hàng thật cũng có thể dùng để mạo xưng là hàng thật.
Nghĩ tới màu men không thể làm giả và hoa văn bát quái trên tay áo, y không khỏi thất thanh, “Đó là chóe Ba lần ghé lều tranh! Ba lần ghé lều tranh bị đập vỡ ở Hàng Châu!”
Tôi gật đầu, tên này tư duy nhanh gớm, thoắt chốc đã suy ra tiền căn hậu quả.
Tiếc rằng, vẫn là quá muộn.
Bấy giờ sau khi Doãn Hồng lấy ra khuôn giấy thứ ba, Âu Dương Mục Mục lập tức nhảy tới chất vấn, sau đó thì nổ. Cũng có nghĩa, trong những người ở đó chỉ mình Doãn Hồng từng thấy khuôn giấy kia. Giờ chóe Ba lần ghé lều tranh đã vỡ tan, mảnh vỡ cũng bị hủy trong vụ nổ, trên đời chỉ còn mình Doãn Hồng biết được thông tin trong đó.
Nếu Doãn Hồng thuận lợi trốn thoát, ông ta sẽ có ba khuôn giấy, nắm ưu thế hơn cả Liễu Thành Thao.
Liễu Thành Thao nói, “Các người còn chẳng biết mình đang ở đâu thì chạy được đi đâu chứ?”
“Hoàng Sơn…”
Liễu Thành Thao phá lên cười, như thể kế hiểm đã thành. Tôi cũng cười theo, “Hoàng Sơn cái đếch, rõ ràng mày cố tình đánh lừa bọn tao.”
Đám con buôn cổ vật tên nào tên nấy xảo quyệt gian trá. Trước khi dẫn chúng tôi tới đây, Liễu Thành Thao cố ý để chúng tôi trông thấy cột mốc Hoàng Sơn. Nếu chúng tôi là người của cảnh sát, nhất định sẽ nghĩ cách báo cho họ kéo tới bao vây quanh khu vực núi Hoàng, vậy là trống đánh xuôi kèn thổi ngược.
Bị tôi vạch trần mưu kế, Liễu Thành Thao cũng chẳng giận, “Vậy anh nói xem chúng ta đang ở đâu nào?”
“Ha ha, bọn tao đâu biết được, nhưng đống đồ sứ của mày đã cho tao câu trả lời.”
Trong lúc ở đây, chúng tôi đã xin đám canh gác mấy mảnh gốm sứ nung hỏng của các lò xung quanh. Tuy những thứ này chất lượng không cao, nhưng cũng đủ để lần ra manh mối, ấy là sứ trấn Cảnh Đức, chúng tôi đang ở vùng núi gần trấn Cảnh Đức!
Người thường sẽ bị bó buộc bởi khái niệm An Huy, mắc phải điểm mù tư duy. Trấn Cảnh Đức và Hoàng Sơn lần lượt thuộc hai tỉnh Giang Tây và An Huy, cảm giác cách nhau xa lắc, thực ra chỉ là ảo giác do nằm khác tỉnh. Trấn Cảnh Đức nằm về hướng Tây Nam Hoàng Sơn, hai nơi cách nhau hơn trăm cây số, lái xe hai ba tiếng là tới. Liễu Thành Thao đã tung một cú hỏa mù ở Hoàng Sơn, vậy thì hang ổ của y nhất định nằm gần trấn Cảnh Đức.
Trấn Cảnh Đức còn được gọi là kinh đô đồ sứ, vị thế trong ngành gốm sứ không ai có thể bàn cãi, ngay dân ngoại đạo cũng nghe như sấm bên tai. Liễu Thành Thao chơi đồ sứ, dẫu thế nào cũng phải dính tới thương hiệu vàng này.
Xung quanh Hoàng Sơn, lại nung sứ trắng. Có hai đặc điểm này, muốn không đoán ra trấn Cảnh Đức cũng khó.
Nhìn Liễu Thành Thao, tôi biết mình đã nói đúng. Liễu Thành Thao ngẩng lên quát Long Vương, “Sao bọn mày không đuổi theo?” Long Vương căng thẳng nuốt nước bọt đáp, “Em tính khống chế thằng đầu têu này trước, cứ tưởng đồ bỏ đi ấy không quan trọng.” Liễu Thành Thao vơ ngay một món sứ xương chẳng biết là ai, táng mạnh vào trán Long Vương, “Đồ ngu! Mau đuổi theo đi!” Long Vương không dám cãi, lập tức chạy ra ngoài.
Liễu Thành Thao đứng dậy, thở dốc, “Anh Hư, kế hoạch của anh khá lắm. Nhưng tôi rất tò mò, cứ cho là lão thợ bạc kia trốn thoát thì liên quan gì tới anh? Chẳng phải anh cũng sẽ chết ư?”
“Tiếc quá, mày sẽ không giết tao đâu.”
Liễu Thành Thao như nghe chuyện cười, “Anh trăng trối đấy à? Nghe chẳng buồn cười gì cả.”
Tôi chậm rãi nói, “Lẽ nào mày không thấy lạ, vì sao mảnh vỡ chiếc chóe Ba lần ghé lều tranh bị đập vỡ ở Hàng Châu lại nằm trong tay tao? Vì sao Âu Dương Mục Mục hận tao thấu xương? Vì sao tao lúc nào cũng đối địch với bọn mày?”
Liễu Thành Thao là kẻ thông minh, tôi chỉ cần vạch ra mấy điểm mấu chốt, y liền hiểu ngay vấn đề. Ở Vệ Huy, có hai kẻ làm lão Từ xiểng liếng; ở Hàng Châu, có hai tên đập vỡ chóe sứ, bắt được một, còn một tên chạy thoát. Kẻ bị bắt tên Dược Bất Thị, là người nhà họ Dược trong Minh Nhãn Mai Hoa.
Vậy kẻ còn lại là ai, gần như đã chắc mười mươi.
“Anh là người Minh Nhãn Mai Hoa ư?” Liễu Thành Thao hỏi, giọng đầy căm hận, song cũng có phần kính sợ.
“Tên tao không phải Uông Hoài Hư. Tao tên Hứa Nguyện.” Tôi khoan thai lật lá bài tẩy cuối cùng.
Có lúc bài tẩy không cần dối trá, sự thực có sức mạnh hơn hẳn.
Lão Triều Phụng và nhà họ Hứa chúng tôi có quan hệ sâu xa khăng khít, hơn nữa tôi lần lượt trải qua vụ án đầu Phật và cơn sóng gió Thanh minh thượng hà đồ, đều có liên quan tới lão. Dù người dưới trướng lão phần lớn không biết mặt mũi tôi, nhưng chắc đều đã nghe tới cái tên Hứa Nguyện.
Chính vì tôi quá nổi tiếng nên đoan chắc Liễu Thành Thao không dám tự tiện hành động, nhất định y sẽ phải hỏi ý Lão Triều Phụng trước, chỉ lão ta mới có quyền xử lý tôi. Vốn dĩ tôi không định tùy tiện để lộ thân phận như vậy, nhưng thấy mình sắp bị đem nung thành sứ, đành dùng chiêu cuối này để giữ mạng thôi.
Quả nhiên vừa nghe đến cái tên này, Liễu Thành Thao sững sờ.
“Anh là Hứa Nguyện?”
“Giả bao đổi.”
Liễu Thành Thao nheo mắt quan sát tôi, “Thảo nào, tôi còn đang thắc mắc, mình hẳn chưa từng đắc tội với anh, sao anh phải tìm trăm phương ngàn kế chơi tôi thế. Ra vậy, nếu là Hứa Nguyện thì không lạ.” Đột nhiên, y đổi giọng, “Nhưng tôi sao biết được anh nói thật hay nói dối?”
“Cứ việc gọi điện cho Lão Triều Phụng kiểm chứng.” Tôi đáp.
Song Liễu Thành Thao lắc đầu, “Tôi chẳng biết ai là Hứa Nguyện hết, tôi chỉ thiêu chết một tên lừa đảo Uông Hoài Hư mà thôi.” Đoạn y chắp hai tay lại, nhếch môi cười nham hiểm.
Tôi rúng động tâm can, xem ra y chẳng nể nang gì Lão Triều Phụng, định giết luôn tôi rồi chối phăng.
May mà tôi đã sắp sẵn cách ứng phó.
“Mày làm vậy Lão Triều Phụng không vui đâu.” Tôi nhắc nhở.
Liễu Thành Thao ra vẻ thương hại hỏi, “Ông ấy sao biết được?”
“Sao ông ta lại không biết?” Tôi nhìn thẳng vào mắt y, hỏi vặn lại. Liễu Thành Thao nhìn tôi, khóe mắt bỗng giần giật, cuối cùng cũng nhớ ra một chi tiết bị bỏ qua.
Mấy ngày nay ngoài Âu Dương Mục Mục còn một khán giả nữa, chính là Dược Bất Nhiên, đến đây thay mặt Lão Triều Phụng. Nếu tôi là Hứa Nguyện, hẳn Dược Bất Nhiên đã nhận ra từ lâu, nhưng gã vẫn luôn gọi tôi là anh Hư, không hề vạch trần.
E rằng gã Dược Bất Nhiên này cố tình cho Liễu Thành Thao ăn quả đắng. Nếu “Uông Hoài Hư” chết, Dược Bất Nhiên nhất định sẽ kể lại chân tướng với Lão Triều Phụng.
“Hừm, sợ gì, hắn cũng ở trong phòng học, e rằng đã chết thẳng cẳng…” Nói được nửa câu, y bỗng ngưng bặt. Chẳng cần tôi nhắc nhở, Liễu Thành Thao cũng đã nhớ ra, ngay trước vụ nổ, tôi đã lớn tiếng gọi tên hai người để họ kịp núp, một là Doãn Hồng, còn lại chính là Dược Bất Nhiên.
Gương mặt Liễu Thành Thao lạnh buốt như băng, y chẳng buồn nhiều lời với tôi nữa mà quay người hớt hải chạy khỏi phòng, hẳn là đi xem Dược Bất Nhiên thế nào, chỉ để lại hai tên canh cửa nhìn tôi chòng chọc.
Trong phòng đã yên tĩnh lại. Tôi gắng gượng bò dậy, thở hồng hộc nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy mặt trời đã lên cao gần đỉnh đầu, chắc sắp giữa trưa, cũng là thời điểm dương khí mạnh nhất trong ngày. Bất cứ yêu ma quỷ quái nào vào thời điểm này đều e ngại dương khí, không dám tung hoành.
Chẳng biết giờ Doãn Hồng sao rồi, có trốn thoát được không.
Liễu Thành Thao không hề biết tôi đã giấu một máy phát tín hiệu vào người Doãn Hồng. Thứ này Phương Chấn đã gửi gắm qua công an Thiệu Hưng cho tôi, là một thiết bị phát tín hiệu liên lạc khẩn cấp. Nó nhỏ xíu, phạm vi thu phát trong vòng 30 ki lô mét, chỉ dùng được một lần. Tín hiệu này được liệt vào mức ưu tiên cao, một khi phát ra, bất cứ phân cục công an nào bắt được sẽ lập tức báo lên Bắc Kinh, đồng thời phái lực lượng tìm kiếm điểm phát ra tín hiệu.
Lúc ở Trại Tế Liễu tôi vẫn không dùng tới bởi không biết máy phát tín hiệu này vào vùng núi hiệu quả được đến đâu, liệu trong phạm vi 30 ki lô mét có phân cục công an nào không. Giờ chỉ cần Doãn Hồng kịp thời ra khỏi vùng núi, ấn nút phát tín hiệu, chắc chẳng bao lâu sẽ được phía cảnh sát chi viện. Hy vọng bác ta chóng vượt qua cú sốc, nhớ ra phải ấn nút.
Những gì có thể tôi đã làm cả, con bài tẩy có thể lật cũng lật rồi. Còn lại thì phải xem cảnh sát tới trước hay tôi bị thiêu chết trước.
Chỉ tiếc nỗi Lão Triều Phụng không đến, bằng không gài bẫy cho lão banh xác trong căn phòng học kia, giờ tôi chết cũng nhắm mắt.
Đang nghĩ ngợi lung tung, chợt nghe ngoài hành lang vang lên tiếng bản lề ken két, hình như có ai mở cửa sắt. Một trong hai tên canh gác chạy ra xem, sau đó chỉ nghe tiếng “bụp” khe khẽ, tên còn lại cũng tức tốc chạy ra, hồi lâu không thấy quay lại. Cả dãy hành lang lặng phắc, chẳng khác nào có ma.
Ban ngày ban mặt, lấy đâu ra ma? Tôi gọi với ra cửa mấy tiếng, nhưng không nghe ai đáp. Cúi đầu nhìn, thấy món sứ xương vừa rồi Liễu Thành Thao vơ lấy đập đầu Long Vương vỡ tung tóe khắp sàn, tôi quặp lấy một mảnh cạnh chân, xoay xở cắt đứt dây thừng trói tay rồi rón rén ra khỏi phòng.
Vừa thò đầu ra, tôi đã thấy hai tên canh gác nằm sõng soài trên hành lang, máu chảy lênh láng, dường như bị vật nặng đập vào đầu. Cửa sắt mở toang, bên trên còn móc một ổ khóa.
Kẻ nào làm đây? Sao đánh xong lại bỏ đi? Liệu có phải cạm bẫy gì của Liễu Thành Thao không?
Tôi chẳng chút chần chừ, vội chạy xuống tầng.
Những nghi vấn kia, đợi chạy thoát được rồi tính. Dù là cái bẫy cũng chẳng sao, đã đến nước này rồi lẽ nào còn tồi tệ hơn được nữa?
Tôi chạy bổ xuống cầu thang, lúc ngang qua hành lang tầng hai chợt nghe thấy có tiếng tạp âm điện tử, xen lẫn cả tiếng người oang oang. Lấy làm nghi hoặc, tôi rón rén đi đến phía phát ra âm thanh. Hành lang tầng hai bị ngăn đôi bởi một vách ngăn bằng gỗ thịt, ở giữa chỉ có một cánh cửa dày dặn lắp khóa điện tử.
Mấy hôm trước xuống nhà đi dạo tôi đã để ý thấy, bấy giờ đoán rằng tầng hai chắc là phòng tài vụ hay phòng trưng bày cổ vật nên được bảo mật kỹ càng. Giờ thấy cánh cửa chỉ khép hờ, tôi lẳng lặng đẩy cửa, dán người sát tường nhòm vào trong.
Hóa ra đây là phòng tin tức, chính giữa đặt một chiếc điện đài công suất lớn, bốn bề đều là dây nhợ nhùng nhằng. Một người đang nửa quỳ dưới đất, vừa rút các giắc cắm vừa gào “a lô a lô” vào ống nói. Đầu kia tậm tịt vẳng lại tiếng đáp trả, tạp âm rất lớn.
Tôi nhớ đến cột ăng ten cao ngất trên mái nhà, làng mạc trong núi sâu này không có sóng điện thoại, chúng phải dùng điện đài hoặc điện thoại vệ tinh để liên lạc với bên ngoài. Xem ra vừa rồi vụ nổ dưới tầng một đã gây ra rung chấn làm hỏng cả điện đài. Tay nhân viên kỹ thuật này mải lo sửa chữa, quên cả chốt cửa.
Trông tình hình máy móc, dù tôi khống chế được gã, cũng không liên lạc nổi với bên ngoài. Kể cả máy móc chẳng hề hấn gì, tôi cũng không biết cách sử dụng, chỉ Cơ Vân Phù mới giỏi thứ này. Có điều thấy trong tay gã nhân viên kỹ thuật có một quyển sổ danh bạ, tôi bất giác sáng mắt lên.
Tôi nhìn quanh, xách một chiếc bình ắc quy giơ cao quá đầu, đập mạnh xuống gã kỹ thuật viên. Gã rú lên một tiếng thảm thiết, ngã gục xuống. Tôi cầm lấy quyển danh bạ mở ra xem, bên trong viết chi chít một loạt những cái tên và tín hiệu liên lạc bằng bút bi, mỗi tên một màu khác nhau.
Tôi lật xem lướt qua, biết thứ này rất có giá trị bèn nhét ngay vào túi áo rồi hối hả trở ra. Vừa ra khỏi cửa gỗ, tôi đụng ngay phải một người. Chính là tên Hổ dưới trưởng Âu Dương Mục Mục, từng đánh nhau với Long Vương.
Hổ cũng lấm lem bụi đất sau vụ nổ. Đang ngơ ngác đứng trước lối cầu thang, trông thấy tôi, gã sững ra giây lát rồi quát lớn, vung nắm đấm lao tới. Tôi chẳng còn bụng dạ nào quần nhau, bèn khom người tránh đòn của gã rồi chạy thẳng xuống tầng. Hổ là dân tập võ, phản ứng nhanh hơn tôi nhiều, lập tức tung một đá trúng giữa lưng tôi, làm tôi lăn lông lốc từ đầu cầu thang xuống, giập cả mũi.
Gã chưa tha, còn lao xuống lôi tôi từ dưới đất lên, đấm vào ngực. Tôi ngã dúi xuống chân cầu thang tầng một, đầu đập vào đỉnh đồng trưng bày, nổ cả đom đóm mắt. Tên Hổ cười hung tợn tiến lại, định lôi tôi dậy dần tiếp.
Gã là kẻ thô lậu, thấy đại ca Âu Dương đã chết trong vụ nổ thì chẳng cần biết Hứa Nguyện Hứa Ngheo gì nữa, chỉ muốn giết chết kẻ thù.
Thấy gã xông tới định bóp cổ mình, tôi vung tay lên, đâm mạnh vào bụng gã. Chỉ nghe phập một tiếng, Hổ kinh ngạc cúi xuống nhìn, rõ ràng tôi chỉ có hai tay không, lấy đâu ra hung khí này?
Chuyện kể ra cũng thật tình cờ. Vừa rồi tôi đập đầu vào chiếc đỉnh đồng hai tai chạm thao thiết, liền phát hiện thứ này là hàng chiết cành. Tức được đúc lại từ những mảnh đồ đồng, chất thật nhưng đồ giả. Loại hàng này, chân và thân đỉnh không phải được đúc liền mà hàn nối với nhau, qua quá trình làm cũ tạo gỉ, mối nối thường rất yếu. Tôi bí quá hóa liều, lấy tay bẻ đại một chân đỉnh, rắc một tiếng, không ngờ lại bẻ được thật, vết gãy còn nhọn hoắt.
Tối lấy luôn chân đỉnh thay cho dao găm, quay lại đâm tên Hổ một nhát. Có câu “tri thức là sức mạnh”, không trật đi đâu được.
Hổ bị tôi đâm ngã lăn ra đất, hai tay ôm vết thương, kêu rú lên. Tôi lau mồ hôi trán, không ngờ mình đánh đồ giả bấy nhiêu năm, giờ lại được một món hàng giả cứu mạng.
Nếu chiếc đỉnh này là thật, e rằng tôi đã toi đời.
Tiếng gào của tên Hổ đã đánh động những kẻ đang tất bật khác, tôi thấy Liễu Thành Thao từ xa chạy đến, còn vung tay hô đám tay sai đuổi theo.
Giờ không phải là lúc ra vẻ anh hùng, tôi nhanh chân chạy thẳng. Mấy hôm nay xuống dưới đi dạo, tôi cũng đã nắm được đại khái địa hình quanh đây nên chạy thoăn thoắt, đâm thẳng ra ngôi làng cạnh đó.
Nhà cửa trong làng đã bỏ hoang từ lâu, nằm rải rác trong khe núi và vùng đất bằng, xen giữa là vài lò gốm cổ cũ nát đã sập quá nửa. Tôi chạy như điên trên con đường đất mấp mô, thấy phổi khô rát. Ngoái đầu lại mới thấy, giỏi lắm, phải có đến dăm ba chục người đang triển khai đội hình, từ bốn phía ùa tới.
Xem ra phen này Liễu Thành Thao nổi giận thật sự, huy động cả thợ thuyền trong Trại Tế Liễu kéo tới vây bắt, quyết tóm tôi cho bằng được. Y cũng biết nếu để tôi chạy vào núi thì gay to. Bởi núi non Giang Tây không giống những nơi khác.
Tôi chạy thêm một chập, phát hiện đám người vây bắt kia rất có sách lược, bày ra trận thế cánh hạc. Hai bên cánh tức tốc vây bọc, tiệt đường vào núi của tôi, còn mũi trung lộ ung dung tiến tới, định dồn tôi vào trong làng rồi bắt lại.
Xem ra chẳng còn hy vọng chạy vào núi nữa, tôi nhìn quanh, chợt trông thấy bên cạnh có một lò gốm cũ, vòm khum thân dài, hình dạng như hồ lô, ống khói đã sập quá nửa, nhưng kết cấu tổng thể vẫn còn, vách lò bong tróc loang lổ, cỏ dại um tùm, chẳng biết bị bỏ lại từ thời nào nữa.
Thấy chúng sắp đuổi đến, tôi vội khom người chui tọt vào lò. Hầm lò rất to, trước cao sau thấp, như một đường hầm thoai thoải dẫn xuống dưới. Ánh nắng rọi vào từ lỗ dẹt nhòm lửa bên trên, soi sáng cấu tạo bên trong lò. Từ cửa lò đi thẳng vào buồng trước, qua tường chắn sẽ nối liền với một bầu lửa. Vách bầu bị đốt cháy đen thui, đây hẳn là một kiểu lò lửa ngang.
Huyền từ thành giám cũng đề cập tới các loại lò gốm. Tôi nhớ láng máng trong sách viết rằng, thời kỳ đầu trấn Cảnh Đức dùng loại lò màn thầu, về sau tới cuối thời Nguyên cải tiến thành lò hồ lô, cuối Minh đầu Thanh lại đổi thành lò nén, còn gọi là lò trứng. Ba loại trông không khác nhau là mấy, nhưng không ngừng cải tiến, càng về sau càng tận dụng được nhiều sức lửa hơn, vì vậy các chi tiết cũng có sự khác biệt nho nhỏ.
Nếu là lò hồ lô, thì bên dưới bầu lửa sẽ có một cửa nhỏ ngang với mặt đất, dùng để quạt gió thêm củi. Về sau lò nén bỏ thiết kế này đi, đổi thành giường lửa phía trước. Tôi ngồi thụp xuống mò mẫm phần chân tường, quả nhiên mò thấy một chỗ hơi lõm, gạt những vụn đá dăm ra thì thấy một cái lỗ, tuy không lớn, nhưng cũng đủ cho tôi xoay xở chui lọt.
Cũng nhờ lúc trước tôi đã dạo quanh làng mấy lượt, để ý thấy lò gốm cổ này nên bỏ công tìm hiểu. Bằng không giữa lúc nguy cấp này thật chẳng biết trốn vào đâu.
Tôi cố nén đau, nghiến răng nghiến lợi duỗi dài thân người, trườn vào trong như rắn. Bên trong lổn nhổn cấn người, tôi cũng phải chịu. Lỗ này thông ra một bếp lò bệ thấp, giờ miệng lò đã bị cỏ hoang lấp mất, chỉ thấp thoáng thấy bóng nắng rọi vào. Tôi trườn được nửa người trên vào lò thì không dám động đậy nữa, bởi nếu trườn tiếp đầu sẽ thò ra ngoài. Lỡ như bị phát hiện, há chẳng phải bắt ba ba trong rọ hay sao.
Vừa nấp xong, tôi đã nghe tiếng chân dồn dập, vội nép sát người xuống, đè lên quyển sổ danh bạ, không dám thở mạnh. Vô số tiếng chân cứ trở đi trở lại xung quanh, tiếp đó có tiếng người mắng sa sả, “Một lũ vô dụng! Mảnh đất bằng bàn tay thế này, nó chạy đi đâu được hả?”
Ấy là giọng Liễu Thành Thao, y đích thân đuổi đến tận đây. Tôi nghe thấy tiếng giày da của y giẫm lên cát sỏi, từ từ đến gần bếp lò, cuối cùng dừng ngay phía trước. Tôi và đôi giày da của y chỉ cách nhau một lớp tường lò và cỏ khô mỏng mảnh, chỉ cần con gió thổi qua, y hơi cúi đầu xuống là trông thấy tôi.
Tôi vận hết cơ bắp toàn thân, cố thở thật khẽ, lặng yên quan sát. Tâm trạng Liễu Thành Thao cực xấu, y đi lòng vòng trước bếp lò hồi lâu, còn đá bay một viên đá, hết sức nôn nóng. Miếng đến miệng còn vuột mất, y tức điên là phải.
“Bọn mày lục soát lại lần nữa cho tao, soát từng nhà một!” Đoạn nghe “thịch” một tiếng, tôi cảm giác lớp tường lò sau lung rung rung, có lẽ Liễu Thành Thao vừa vung tay đấm xuống.
Mấy tên tay sai ỉu xìu vâng dạ rồi mạnh ai nấy tản ra. Chẳng bao lâu sau, có tiếng hai cẳng chân cột đình huỳnh huỵch chạy đến, hẳn là Long Vương.
“Sao mày lại đến đây? Bảo mày đuổi theo lão già kia mà?” Liễu Thành Thao gắt gỏng.
Long Vương đáp, “Đại ca, thằng Vương bị đánh ngất trong phòng tin tức rồi.”
“Gì cơ?”
“Đại ca bảo em đuổi theo lão thợ bạc còn gì? Em sai mấy thằng đánh xe đuổi theo, sau đó định liên hệ nhờ các anh em ở thị trấn lân cận tiếp ứng. Nhưng vừa lên tầng hai em đã thấy cửa phòng tin tức mở toang, vào xem thì thằng Vương bị đánh ngất, quyển danh bạ kia… không thấy đâu nữa…” Càng về cuối giọng hắn càng lí nhí.
“Bốp!” Một cú tát giòn giã giáng lên mặt Long Vương, Liễu Thành Thao nổi trận lôi đình, “Hứa Nguyện không thể tự mình trốn ra cuỗm theo cả quyển danh bạ được! Rốt cuộc thằng nào thả nó ra?”
Giọng Long Vương nghe có phần chột dạ, “Anh Nhiên bảo với em thằng Hổ bên Quỷ Cốc Tử phản thùng, chính nó giúp Hứa Nguyện trốn thoát, giục em đem thêm mấy thằng tới giúp đại ca.”
“Đợi đã… Mày gặp Dược Bất Nhiên rồi à?”
“Dạ? Vâng, anh ấy bảo em thế mà!”
“Dược Bất Nhiên mới là thằng phản thùng! Nó cùng hội với thằng họ Hứa! Chắc chắn là nó thả thằng kia!”
Nghe đoạn hội thoại trên, tôi vững dạ hẳn. Quả nhiên Dược Bất Nhiên chưa chết, đúng là kẻ ác sống dai. Xem ra vừa rồi chính gã đã đánh ngất mấy tên canh gác. Nhưng cũng lạ thật, với tính cách của gã, nếu cứu tôi nhất định phải khoe khoang mấy câu, đời nào lại việc xong rũ áo, chẳng kể đến công danh như thế?
Long Vương thoáng luống cuống, với trí tuệ của gã, thực khó mà hiểu được cục diện rối rắm hiện giờ. Liễu Thành Thao hỏi dồn, “Mày gặp nó ở đâu?” Long Vương gãi đầu, “Ở cửa xưởng gốm.” Liễu Thành Thao lặng đi, thái độ điềm tĩnh cuối cùng cũng sụp đổ tan tành, y gào lên như điên dại, “Về, về ngay! Trúng kế điệu hổ ly sơn rồi!”
“Hở?” Long Vương ngớ người.
“Dược Bất Nhiên thả Hứa Nguyện ra để bọn ta đuổi theo, còn nó thừa cơ lẻn vào xưởng gốm, khuôn giấy của hai chiếc chóe kia đều cất trong đó.”
“Ôi!” Long Vương như sực tỉnh mộng.
Lần này Liễu Thành Thao mới thực sự là giận điên người, chỉ trong một ngày mà y liên tiếp chịu mấy cú đả kích. Trước là bị vụ nổ thổi bay một nửa số tay chân, khó khăn lắm mới tóm được tôi thì lại để tôi chạy mất; giờ mới hay chứ, ngay khuôn giấy cũng mất luôn. Rõ ràng y chiếm lợi thế sân nhà, vậy mà lại để thua trắng.
Đôi giày da của y giẫm lên mặt cát cũng thấy chơi vơi.
Tôi nằm rạp trong bếp lò, lòng khoan khoái khôn tả. Chỉ tiếc nỗi không được chứng kiến bản mặt trắng bệch của y méo mó đi vì tức giận.
Song nghĩ lại thì tôi cũng chẳng có gì đáng mừng. Trai cò mổ nhau, cuối cùng ngư ông đắc lợi nào phải tôi mà là Dược Bất Nhiên kìa. Gã chẳng động một móng tay mà vẫn nhẹ nhàng ẵm được hai khuôn giấy chuồn thẳng.
Quả thực gã đã cứu tôi, nhưng không phải vì quan tâm tôi, mà chỉ nhằm tung hỏa mù đánh lạc hướng bọn Trại Tế Liễu thôi.
Gã mới thực sự là kẻ cười cuối cùng…
Nhưng… tôi cứ thắc mắc mãi một điều. Nói thế nào thì Quỷ Cốc Tử, Trại Tế Liễu và Dược Bất Nhiên đều là tay sai của Lão Triều Phụng, dù hay hục hặc cũng đâu đến mức chọc gậy bánh xe nhau như vậy. Những hành động lần này của Dược Bất Nhiên rõ ràng là coi Liễu Thành Thao như kẻ địch, chẳng lẽ gã được Lão Triều Phụng cho phép ư?
Gương mặt bỡn cợt nọ chợt hiện lên trong đầu, tôi sực nhớ tới một câu của Cao Hưng: “Dược Bất Nhiên thường ngày tươi cười hớn hở, gặp ai cũng vồn vã nhiệt tình, nhưng sâu trong lòng luôn giữ khoảng cách, khó mà nhìn thấu được.”
Ôi chao, tên khốn này lúc nào cũng thế, chẳng ai hiểu nổi gã nghĩ gì nữa.
Tiếng chân chúng đi xa dần, tôi kiên nhẫn đợi thêm hơn một tiếng, tới khi dám chắc xung quanh không còn động tĩnh gì, mới thận trọng trườn lùi từ cửa thông gió bếp lò về bầu lửa, quay lại khoang giữa hầm lò.
Tiếp theo đây tôi sẽ phải đối mặt với một lựa chọn, đi ngay bây giờ hay đợi đến tối? Đi ngay bây giờ thì có khả năng bị phát hiện, nhưng để đến tối mới đi thì trong núi tối như bưng, tôi lại không thuộc đường, cũng rất nguy hiểm. Đúng lúc ấy bên trong lò chợt tối hẳn đi, tôi vội quay ngoắt đầu nhìn, thấy một bóng người to cao lừng lững chắn trước cửa lò.
Là Long Vương! Không ngờ hắn lại mò vào tận lò gốm này!
Long Vương trợn trừng hai con mắt trố, má phải sưng vù, hẳn là do ăn bạt tai của Liễu Thành Thao.
“Thằng chó này, ông bắt được mày rồi nhé!” Hắn mừng rỡ liếm môi, “Mày giỏi lắm, đến đại ca tao còn bị mày quay như quay dế.”
Tôi lùi lại mấy bước, dựa lưng vào vách lò, “Sao mày phát hiện ra tao ở đây?”
Long Vương từng bước tiến đến, “Tao quay về ngẫm nghĩ, nhớ ra hai hôm trước lúc mày đi dạo cứ quanh quẩn ở đây rõ lâu, nên định vòng lại xem. Không ngờ tóm được mày thật.” Hắn đứng thẳng người trong lò gốm tối om, như một tên ác quỷ đằng đằng sát khí.
“Mày biết tao là ai không? Tao là Hứa Nguyện, người Lão Triều Phụng chỉ đích danh đòi dẫn về đấy.”
Tôi bình tĩnh đáp.
Long Vương vung tay đập mạnh lên vách lò, “Bố đéo cần biết! Mày hại chết anh em tao thì mày phải chết! Mày làm đại ca tao bực thì mày phải chết!” Nói một câu hắn lại đập mạnh vào tường một phát, làm tro bụi trên nóc lò lả tả rơi xuống, cả lò gốm rung lên.
Tôi thầm kêu khổ, sợ nhất dây vào hạng ngu si tứ chi phát triển này, chẳng nói lý lẽ gì được. Hai bàn tay to bè của hắn hết xòe ra lại nắm vào, như đang áng chừng lực tay, xem làm sao bóp chết được tôi ngay.
Tôi dáo dác nhìn quanh, giờ muốn chui lại xuống lỗ thông gió kia cũng không kịp nữa rồi. Tôi đánh liều hét lên một tiếng bổ đến ôm ghì eo hắn, làm hắn phải lùi lại mấy bước. Tiếc rằng cách đánh liều mạng này chẳng có tác dụng gì, Long Vương khống chế tôi dễ như bỡn, bàn tay to bè như gọng kìm bóp chặt cổ tôi nhấc bổng.
Tôi hít thở rất khó nhọc, giãy giụa đá hắn liên tiếp. Nhưng Long Vương chẳng hề hấn gì, còn thích thú nhìn mặt tôi tím tái dần, hai mắt trố ra, lười thè lè.
“Lần này hết cách thật rồi…” Mắt tôi mờ đi, ý thức cũng dần đông đặc.
Trong cơn ảo giác, hình như tôi trông thấy một bóng người. Người nọ tóc ngắn áo dài, đứng chắp tay sau lưng, quay lưng về phía tôi, đằng trước là ánh dương rạng rỡ. Cảnh sắc xung quanh không ngừng biến đổi, có lăng mộ đế vương nguy nga, có minh đường Phật ngọc tinh xảo, có loạn quần ùn ùn, có bóng tối tràn tới, nhưng người kia trước sau không chút chần chừ, vẫn ung dung đi tới. Tôi định lên tiếng gọi, nhưng ông dường như không nghe thấy, tôi nước mắt đầm đìa, nhưng ông không hề dừng bước.
Tôi chưa từng gặp ông, nhưng tôi biết ông là ai. Ông không nói gì với tôi, nhưng tôi hiểu rõ điều ông muốn nói.
Người nhà họ Hứa chúng tôi luôn kiên trì theo đuổi một vài việc trông có vẻ cực kỳ ngu xuẩn. Song chúng tôi không hối hận.
“Ông ơi!”
Tôi chợt kêu to, chẳng biết lấy đâu ra sức lực, tung hai chân đạp mạnh. Long Vương buộc phải điều chỉnh lại tư thế mới tránh được cú đá, tiếp tục bóp cổ tôi. Chân tôi đạp phải thành lò.
Nhưng tôi vẫn điên cuồng đạp, đạp đến nỗi mũi chân sưng vù lên. Long Vương cười ha hả, thậm chí còn cố tình nới lỏng tay để thưởng thức nỗi tuyệt vọng trước lằn ranh cái chết của tôi.
Thế rồi hắn chợt thấy là lạ, nhíu mày nhìn lên nóc lò, bụi đất màu vàng lả tả bay qua trán hắn, rơi lên mũi tôi. Hắn lại nhìn sang tôi, phát hiện ra tôi chỉ tập trung đá vào hàng gạch xám nằm bên dưới vòm lò, cách một phần ba chiều cao vách, loại gạch này khác hẳn gạch vàng xây lò.
Trong mắt người thường, hầm lò chẳng qua được xây bằng gạch, không có gì đặc biệt. Thực ra muốn xây lò gốm, cũng cần rất nhiều kiến thức. Chỉ riêng gạch dùng đã chia làm ba loại: Gạch vàng nung từ đất ruộng dẫn nhiệt tốt, dùng để ốp bề mặt nhằm truyền nhiệt. Gạch nung từ đất đỏ chịu lửa tốt, là vật liệu chính để xây thân lò, còn gạch cát rất cứng, được dùng ở những vị trí quan trọng cần chịu lực.
Chỗ tôi đạp vào gọi là mắt lò, là vị trí quan trọng nhất để chống đỡ vòm lò, trái một mắt phải một mắt, tương đương với huyệt thái dương của con người, một khi nứt vỡ, hầm lò sẽ sụp xuống, nên phải xây bằng loại gạch cát kiên cố nhất.
Bị lửa nung suốt một thời gian dài, gạch nào cũng trở nên giòn xốp dễ vỡ. Lò gốm cổ này chí ít cũng phải có lịch sử mấy trăm năm, lại trải bao gió táp mưa sa, đã trở nên vô cùng xập xệ. Vừa rồi Long Vương đập một cái mà làm cả hầm lò rung chuyển là đủ thấy.
Hàng gạch cát cũ kỹ bị tôi đạp mạnh đã xuất hiện các rãnh nứt, tróc từng mảng lả tả. Sau một tiếng “bụp”, cả mảng gạch vỡ toác, kéo theo một loạt phản ứng dây chuyền. Bắt đầu từ vòm, một đường nứt ghê rợn lan ra khắp vách lò. Long Vương vẫn ngơ ngác chưa hiểu đầu cua tai nheo gì nhưng trực giác của loài thú mách bảo hắn sắp có tai họa ập xuống. Tiếc rằng không gian bên trong lò gốm quá hẹp, hắn không xoay trở được. Mấy giây sau, cả hầm lò đổ sập, vô số gạch đá ập xuống chôn sống tôi và Long Vương, sau đó nửa đoạn ống khói cũng nghiêng đổ, ập xuống thêm một lượt gạch đá.
Mắt tôi tối sầm lại, trí não không còn biết gì nữa…
Mở mắt ra, tôi thấy mình đang nằm trong bệnh viện, bên cạnh lủng lẳng chai truyền. Người tôi nặng như chì, cơ thịt còn cứng hơn đồng điếu, sờ lên đầu thấy quấn băng dày cộp.
Y tá đang tất bật cạnh đó thấy tôi đã tỉnh thì hối hả bước ra ngoài. Chẳng mấy chốc, một bác sĩ vội vã bước vào, theo sau còn một người mặc cảnh phục.
“Anh Nguyện, anh nghe được tôi nói không?” Bác sĩ nhẹ nhàng hỏi, giọng mang âm sắc Giang Đông. Tôi cố đáp rằng nghe được. Bác sĩ lấy đèn pin ra kiểm tra một lát rồi gật gật với đồng chí công an. Người nọ đi đến bên giường tôi, đó là một cậu chàng trẻ măng, trông nho nhã thư sinh, nách còn kẹp một cặp tài liệu màu đen.
“Tôi đang ở đâu đây?” Tôi hỏi.
“Anh yên tâm, chúng ta đang ở Bệnh viện nhân dân số 1 trấn Cảnh Đức. Anh an toàn rồi.” Cậu công an mỉm cười trấn an tôi, “Anh còn nhớ trước lúc mình ngất đi đã xảy ra chuyện gì không?”
Tôi nhớ lại, hình như Long Vương tóm được tôi ở lò gốm cổ, rồi tôi đạp sập lò gốm, sau đó thì không nhớ gì nữa. Tôi vội ngồi thẳng người dậy, hỏi cậu công an rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.
Cậu ta lấy trong cặp tài liệu ra một cuốn sổ ghi chép, bắt đầu kể lại theo trình tự.
Vùng núi chúng tôi ở gọi là núi Đại Du, về mặt hành chính thuộc Thượng Nhiêu, nhưng cách trấn Cảnh Đức chưa đầy bốn mươi cây số. Gã lái xe của Âu Dương Mục Mục đã đưa Doãn Hồng chạy đến thị trấn gần đó. Doãn Hồng mãi không trấn tĩnh lại được nên cũng quên bẵng việc phát tín hiệu. Kết quả người của Liễu Thành Thao đuổi kịp, đôi bên đấu súng dữ dội, bị công an sở tại kéo tới hốt luôn cả ổ.
Lúc kiểm kê vật dụng tùy thân của các phần tử tội phạm, một chỉ huy đội có thâm niên trông thấy máy phát tín hiệu của Doãn Hồng thì giật mình, nhận ra thứ này không phải dạng vừa, vụ việc nhất định còn có ẩn tình. Phía cảnh sát hết sức căng thẳng, phải dùng đến loại máy phát tín hiệu này ắt là án lớn, án trọng điểm. Họ một mặt gọi về Bắc Kinh xác nhận, một mặt thẩm vấn phạm nhân, chẳng mấy chốc đã rõ đầu đuôi. Cảnh sát địa phương lập tức điều động lực lượng, theo đường cũ vào núi, đến thẳng Trại Tế Liễu.
Trong Trại Tế Liễu đang náo loạn hết cả, đến một tên tuần tra cũng chẳng có. Bị cảnh sát đột kích, chúng chỉ còn cách ngoan ngoãn bó tay chịu trói. Phía Bắc Kinh đã chỉ thị rằng, trong Trại Tế Liễu có một nhân vật quan trọng của công an nằm vùng, cần tìm cho bằng được. Bởi vậy cảnh sát đã lùng sục khắp xung quanh, cuối cùng moi được Long Vương và tôi dưới đống đổ nát của lò gốm cổ.
“Anh còn may đấy, lúc lò gốm sập tay kia đè lên người anh nên hứng chịu phần lớn áp lực. Nhờ thế anh chỉ rạn xương vài chỗ, còn tay đô con kia mới thảm…”
Cậu công an kể.
Tôi chẳng quan tâm tới chuyện sống chết của Long Vương mà nôn nóng hỏi dồn, “Tên đầu sỏ Liễu Thành Thao thì sao? Các cậu bắt được chưa?”
Cậu công an đẩy gọng kính, “Chưa, y và mấy tên tay sai chạy thoát rồi. Lúc chúng tôi khám xét, phát hiện gần đó có một lối thoát được cải tạo từ hầm trú ẩn trước kia, có lẽ chúng đã chạy theo đường đó.” Thấy tôi hụt hẫng ra mặt, cậu ta động viên, “Anh đừng thất vọng, lần hành động này thu được kết quả rất lớn, một mẻ tóm gọn cả xưởng làm hàng giả, bắt hơn bốn mươi tên, còn liên quan tới mười mấy vụ án giết người trên toàn quốc. Công an tỉnh đã trực tiếp chỉ thị, phải xử lý nghiêm khắc. Lệnh truy nã đã phát rồi, y không trốn được lâu đâu.”
Tên Liễu Thành Thao này đúng là thỏ khôn có ba hang, không dễ gì tóm được. Có điều phen này Trại Tế Liễu đã gần như bị tận diệt, cũng ngang chặt đứt một cánh tay của Lão Triều Phụng, tôi coi như không uổng công mạo hiểm.
Tôi lại hỏi, “Doãn Hồng thế nào rồi?”
Cậu công an đáp, “Ông ấy đang được cảnh sát bảo vệ, nhưng hình như bị sốc nặng lắm, cần thời gian dài mới hồi phục được.” Tôi vô cùng ân hận, bởi suy cho cùng, chính tôi đã hại bác ta. Tôi gắng gượng rời khỏi giường, hỏi Doãn Hồng đang ở đâu để đến thăm. Cậu công an vội ấn tôi xuống, nói rằng bác ta không ở trấn Cảnh Đức mà đã được đưa tới bệnh viện tâm thần ở Nam Xương để điều trị rồi.
Tôi đành rầu rĩ nằm xuống giường, rồi lại chợt nhớ ra một chuyện, “A phải, lúc các cậu tìm ra tôi, có thấy một quyển danh bạ không?”
“Quyển danh bạ đó là chứng cứ quan trọng, đã được chúng tôi thu giữ rồi. Có điều chúng tôi có thể cho anh một bản photo, phía Bắc Kinh đã dặn thế.” Nói rồi lấy trong cặp tài liệu ra một tập photo đóng ghim cẩn thận, đưa cho tôi.
Bấy giờ tôi mới có thời gian xem kỹ nội dung quyển sổ nọ. Thông tin bên trong thực ra rất khô khan, chỉ có từng hàng tên người, địa chỉ, điện thoại và tín hiệu liên lạc điện đàm. Nhưng trong đó có cả phương thức liên lạc của những đầu mối cung ứng tuyến trên cũng như đầu mối tiêu thụ tuyến dưới, đối tác làm ăn, những phân xưởng khác cùng sếp sòng bên trên v.v…, từ đó công an có thể moi ra cả đường dây ăn cắp văn vật, làm giả và lừa bán văn vật giả.
Tới lúc đó Lão Triều Phụng không chỉ mất một cánh tay, mà còn tiêu tan cả sản nghiệp. Nếu vậy, dù tôi có chết trong lò gốm cũng được nhắm mắt.
Tôi cất tập danh bạ đi, rồi yêu cầu được gọi điện cho Phương Chấn. Phương Chấn nói vụ này đã được lập án trên Bộ Công an, nhất định sẽ gây rúng động lớn. Y dặn tôi yên tâm tĩnh dưỡng, đồng thời nhắc tôi phải chú ý an toàn, bởi Liễu Thành Thao và mấy tên tay chân vẫn đang trốn chạy, đám côn đồ liều lĩnh ấy chẳng biết có thể gây ra những chuyện cực đoan gì.
Tôi hỏi, “Dược Bất Nhiên thì sao?”
Đầu kia lặng thinh giây lát rồi đáp, “Đang bỏ trốn.”
Nghe vậy, tôi nửa hụt hẫng lại nửa vui mừng. Hụt hẫng vì gã một lần nữa thoát khỏi lưới pháp luật, mừng vì tôi vẫn có cơ hội chính tay bắt giữ gã.
“À phải, còn một chuyện nữa, có lẽ cũng chẳng ích gì cho cậu, nhưng tôi vẫn phải báo một tiếng.” Phương Chấn nói.
“Hở?”
“Chúng tôi đã tra được lai lịch của Liễu Thành Thao. Y nguyên quán Bắc Kinh, gia đình cũng buôn bán cổ vật, có cửa hàng tên Mô Vấn Trai, về sau công tư hợp doanh, ông chủ Mô Vấn Trai qua đời, ông nội y là cán bộ chính trị được điều động xuống miền Nam đã đưa cả nhà theo, từ đó không dính líu tới giới cổ vật nữa. Liễu Thành Thao bị bạch tạng bẩm sinh, không hay tiếp xúc với người ngoài, cả ngày chỉ ở trong viện điều dưỡng, lại đâm ra mê thích cổ vật. Còn về phần y làm sao câu kết với Lão Triều Phụng thì vẫn chưa rõ.”
Nghe cái tên Mô Vấn Trai, tôi không khỏi giật mình. Ông Dược Lai từng kể cho Dược Bất Thị bốn câu chuyện về cổ vật, nhân vật chính trong câu chuyện về chiếc đôn thêu khổng tước song sư chẳng phải chính là ông chủ Mô Vấn Trai ư?
Thảo nào Liễu Thành Thao từng bảo Dược Bất Nhiên “Nhà họ Dược các anh trước giờ làm gì có chuyện tử tế thế?”, hóa ra căn nguyên từ đây. Nếu quy trách nhiệm cái chết của ông chủ Mô Vấn Trai, phần lớn là do ông nội Liễu Thành Thao, nhưng Dược Lai cũng phải gánh phần nhỏ.
Nghĩ kỹ lại thì, trong bốn câu chuyện ông Dược Lai kể, đã có hai chuyện gián tiếp liên quan tới bộ chóe rồi. Nhà họ Trịnh có chóe Thắp nhang vái trăng, nhà họ Liễu có chóe Đóng quân trại Tế Liễu, nếu hai câu chuyện còn lại cũng liên quan tới chóe sứ thanh hoa, lại thêm chiếc Ba lần ghé lều tranh của nhà họ Dược nữa thì vừa đủ năm cái.
Lẽ nào bức tranh sơn dầu kia còn ẩn chứa bí mật mà chúng tôi chưa phát hiện ra?
Nghĩ vậy, tôi lại nhấp nhổm muốn về Bắc Kinh ngay lập tức. Tôi vội vã cúp máy, hỏi bác sĩ khi nào mình được ra viện, bác sĩ nói ít nhất phải một tuần, không thể nhanh hơn được.
Tôi năn nỉ gãy lưỡi, song bác sĩ kiên quyết không chịu châm chước, nói rằng tôi liên quan tới một vụ án rất lớn, giờ tự ý cho tôi đi, lỡ như có chuyện gì thì ai chịu trách nhiệm.
Bác sĩ ở đây còn cứng đầu hơn cả người nhà họ Hứa chúng tôi nữa. Tôi đành rầu rĩ ở lại bệnh viện, yên tâm dưỡng thương. Suốt một tuần sau đó, tôi tập trung tĩnh dưỡng hoàn toàn, không tiếp khách, không gọi điện, một ngày ba bữa, hai buổi đi dạo, đến tối lại xem phim bộ trên ti vi cười hềnh hệch. Trước cửa có hai cảnh sát canh gác 24/24, chẳng phải lo lắng chuyện an ninh. Nói thật, lâu lắm rồi tôi mới được sống cuộc sống êm đềm mà đơn giản thế này.
Có lần tôi ngồi trong vườn hoa bệnh viện, ngắm sao sáng đầy trời, chợt nhớ tới lần đầu tiên gặp Phương Chấn. Cũng vào một buổi tối thế này, bấy giờ tôi chỉ là một tay chủ tiệm đồ cổ tép riu, sống cuộc sống êm đềm mà giản dị, nào ngờ y vừa bước chân vào cửa, cả cuộc đời tôi đã thay đổi hoàn toàn.
Chẳng biết tôi nên cảm ơn hay oán hận y nữa.
Có điều bình tâm nghĩ lại thì chuyện này chẳng mấy liên quan tới Phương Chấn, thậm chí cũng chẳng mấy can hệ tới cục trưởng Lưu hay cụ Lưu. Họ chỉ là một bước ngoặt. Mọi chuyện xảy ra với gia đình tôi, thực ra đều do tính bướng bỉnh có sẵn trong huyết mạch nhà họ Hứa.
Nếu ông nội tôi không khăng khăng đeo đuổi vụ việc ở Đông lăng và vụ án đầu Phật thì đã có thể sống phủ phê cả đời với thân phận chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa, vừa được tiếng vừa có miếng; nếu bố tôi không khăng khăng tới Tây An điều tra, làm Lão Triều Phụng phải ra tay bịt miệng, hẳn đã yên ổn làm giảng viên đại học đến già. Nếu tôi không khăng khăng đối đầu với Lão Triều Phụng, giờ cũng có thể kiếm miếng cơm trong Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, chẳng phải lo cơm áo hay an nguy tính mạng.
Nhưng ai bảo chúng tôi mang họ Hứa, Hứa của Hứa Hoành, Hứa của Hứa Tín, Hứa của Hứa Nhất Thành cơ chứ? Từ thời Đường, dòng họ chúng tôi đã kiên trì đeo đuổi những việc trông có vẻ cực kỳ ngu xuẩn.
Giữ vững nguyên tắc, nói thì dễ, chỉ khi làm mới biết như thò tay thử nước giếng, ấm lạnh tự mình hay. Tôi ngẩng lên nhìn sao giăng khắp trời, chẳng biết liệu tổ tiên nhà họ Hứa có đang ở trên trời nhìn xuống mình không nữa.
Lề mề mãi mới hết bảy ngày, cuối cùng bác sĩ cũng đồng ý cho tôi ra viện. Trước hết tôi phải tới đồn công an để lấy lời khai. Tôi kể lại nguyên xi đầu đuôi câu chuyện, nhưng chỉ nói sơ qua về bộ chóe năm và ân oán phía sau. Những chuyện này phía công an không mấy hứng thú, cũng chẳng gặng hỏi kỹ. Tôi hỏi thăm tiến độ điều tra, họ đáp vẫn chưa có đột phá gì, nhưng những vụ án liên quan đã không còn giới hạn trong phạm vi tỉnh Giang Tây, e rằng sẽ phải kết hợp điều tra giữa các tỉnh.
Lấy lời khai xong, tôi không về Bắc Kinh ngay mà ghé Nam Xương trước. Tại một viện điều dưỡng hẻo lánh ở Nam Xương, tôi đã trông thấy Doãn Hồng.
Bác ta mặc áo bệnh nhân trắng tinh, co rúm người trong một góc phòng, ngồi im như tượng, chỉ thỉnh thoảng mới lầu bầu mấy câu tiếng Thiệu Hưng chẳng ai hiểu nổi, người gầy võ đi, đôi mắt dưới vầng trán rộng trũng sâu thâm quầng. Theo lời bác sĩ, đây là phòng cách âm chuyên biệt, bởi chỉ cần một tiếng động nhỏ cũng khiến Doãn Hồng phát hoảng, cứ thức trao tráo không chịu ngủ, lúc nào cũng nơm nớp sợ hãi như một con mèo hoang.
Nhìn bác ta qua lớp cửa kính, tôi hối hận khôn xiết.
Chính tôi đã hại bác ta ra nông nỗi này. Biết rõ bác ta từng tận mắt chứng kiến cha mẹ chết vì bom, ám ảnh nặng nề với tiếng nổ, vậy mà lại sơ ý bày ra kế hoạch nổ bình acetylen.
Bác ta vốn dĩ chẳng liên quan tới những chuyện này, chỉ vì một thân tuyệt kỹ mà bị đủ các bên lôi kéo lợi dụng, cuối cùng rơi vào cảnh ngộ hiện giờ, thực sự quá oan uổng.
Bác sĩ kéo tôi sang một bên, thì thào, “Anh là người nhà bệnh nhân à?” Tôi sững ra, sực nhớ Doãn Hồng đã chẳng còn người thân nào trên đời nữa, tôi nhất định phải gánh vác trách nhiệm, bèn đáp phải.
“Chắc ông ấy không sống được bao lâu nữa đâu.”
Tôi bàng hoàng, vội hỏi tại sao, bác sĩ giải thích rằng chuyện này không liên quan tới cú sốc tinh thần, mà do cơ thể bác ta tiếp xúc với kim loại nặng suốt nhiều năm, sinh ra ung thư.
Ung thư ư? Tôi trước là kinh ngạc, sau chợt vỡ lẽ: Đây chính là lời nguyền của Phi Kiều Đăng Tiên!
Tổ tiên họ Doãn có lời răn, Phi Kiều Đăng Tiên dễ bị trời ghen ghét, một đời không được dùng quá con số Đại diễn năm mươi lần, bằng không ắt gặp họa. Tuyệt kỹ này khi thi triển phải dùng tới với các nguyên liệu vá gốm chứa hàm lượng kim loại nặng, lại thêm quá trình thực hiện rất dễ hít phải, gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe.
Xem ra các bậc tiên tổ nhà họ Doãn đã ngộ ra đạo lý này, chẳng qua thiếu lý luận khoa học nên đành giải thích là trời già ghen ghét. Doãn Điền mất sớm, e rằng cũng vì căn bệnh tương tự.
Cũng có nghĩa là Doãn Hồng đã liều cả tính mạng mình để thi triển Phi Kiều Đăng Tiên.
Tôi quay người rời bệnh viện, đi ra phố, mua một chiếc bàn học sinh bằng gỗ, mặt bàn nghiêng, chỉ có một tầng, kích cỡ tương đương bàn thao tác của Doãn Hồng. Sau đó tôi lại kiếm mấy dụng cụ nhỏ mà thợ bạc thường dùng, mang vào viện điều dưỡng, đề nghị họ đặt trong phòng bác ta.
Thoạt đầu bác sĩ khăng khăng từ chối, nói rằng đây đều là các vật dụng sắc nhọn, quá nguy hiểm. Tôi nài nỉ gãy lưỡi họ mới miễn cưỡng chấp nhận cho bê vào thử nhưng phải có người trông chừng.
Tôi vừa đặt bàn thao tác xuống, cặp mắt dại đi vì sợ hãi của Doãn Hồng bỗng sáng hẳn lên. Bác ta lập tức sán đến, giơ hai tay đặt lên mặt bàn, mân mê mấy món dụng cụ rồi khom người áp mặt xuống bàn. Vẻ mặt ấy hệt như đứa bé ngả đầu vào lòng mẹ vậy. Chẳng bao lâu sau, tiếng ngáy bình tâm đã vang lên, bác ta ngủ thiếp đi.
Từ sau khi cha mẹ qua đời, Doãn Hồng chỉ rúc sau bàn thao tác, lấy nghề vá gốm và làm bạc làm lý do để lánh đời, bàn thao tác chính là cả thế giới của bác ta. Chỉ khi ngồi vào bàn thao tác, Doãn Hồng mới thấy yên lòng.
Tôi chỉ có thể giúp bác ta đến vậy mà thôi.
Trong mơ, bác ta không ngừng lẩm bẩm bằng giọng Thiệu Hưng, nhưng ngữ điệu ôn hòa, không còn hung tợn như trước nữa. Tôi nghe mãi, chợt thấy là lạ, cau mày gọi điện thoại đường dài cho Mạc Hứa Nguyện.
Mạc Hứa Nguyện vẫn còn giận tôi nên nhấc máy lên đã nặng nhẹ ngay. Tôi phải dỗ dành một lúc, cô mới nguôi ngoai. Đoạn tôi giơ ống nghe lại gần Doãn Hồng, nhờ cô dịch hộ xem bác ta nói gì.
Mạc Hứa Nguyện nghe đi nghe lại mấy lần, giọng không được chắc chắn lắm, “Sao Hoa Cái một lóng mặt nước? Câu này nghĩa là gì vậy?”
Cô không hiểu, nhưng tôi thoạt nghe đã hiểu ngay, lồng ngực thoắt chốc nóng bừng.
Đây là câu thứ ba ẩn giấu trong chóe Ba lần ghé lều tranh, cùng một lối với “Cơ long ra biển dùng giáp mão kim sáu canh” trong chóe “Trại Tế Liễu” và “Sao Bắc Thần mười một lóng rưỡi mặt nước” trong chóe “Quỷ Cốc Tử”.
Bấy giờ Doãn Hồng vừa lấy được khuôn giấy thì xảy ra vụ nổ nên trên đời chỉ mình bác ta biết câu thứ ba này. Tôi thực không ngờ, dù đã hóa điên, bác ta vẫn nhớ kỹ lời tôi dặn, luôn miệng lặp lại câu này trong mơ.
Mũi tôi cay xè, nước mắt lăn dài.
Sau khi cúp máy, tôi nhờ bác sĩ: “Làm phiền các anh chăm sóc ông ấy chu đáo, chỉ cần có bàn thao tác này ở đây, tâm trạng ông ấy sẽ ổn định lại thôi.” Bác sĩ mừng ra mặt, xoa tay nói trường hợp này thật đáng nghiên cứu thêm. Tôi ngập ngừng hỏi bệnh tình ông ấy còn được khoảng bao lâu? Bác sĩ chần chừ giây lát, đáp khoảng nửa năm đến một năm.
Tôi nhìn sang Doãn Hồng lần cuối, thầm hứa nhất định sẽ quay lại đón bác ta đưa về quê nhà Thiệu Hưng, rồi rời viện điều dưỡng.
Không thể để những người vô tội liên lụy thêm nữa. Cuộc đối đầu giữa tôi và Lão Triều Phụng, phải mau chóng đi đến hồi kết thôi.
Ngay hôm ấy tôi đáp máy bay từ Nam Xương về thẳng Bắc Kinh. Vừa xuống máy bay đã thấy Phương Chấn đứng đợi sẵn dưới cầu thang, bên cạnh là chiếc xe Hồng Kỳ từng tới đón tôi lần đầu chạm mặt.
“Về rồi à?” Phương Chấn hỏi rồi mở cửa sau xe, bàn tay cẩn thận đặt lên mép trên cửa che chắn. Tôi ừm một tiếng, chui vào trong xe.
Đợi xe nổ máy, tôi mới hỏi Phương Chấn, “Anh sắp xếp ổn thỏa rồi chứ?” Phương Chấn đáp, “Đông đủ cả rồi, chỉ đợi cậu thôi.”
“Lần này cục trưởng Lưu không có ý kiến gì à?”
“Hôm nay cậu chủ trì.”
“Được.” Tôi ngả hẳn người ra lưng ghế, bừng bừng ý chí chiến đấu.
Chúng tôi tới chính chỗ Minh Nhãn Mai Hoa dùng cơm hôm trước. Ngồi quanh bàn lúc này hầu hết là những gương mặt cũ, chỉ thiếu Thẩm Vân Sâm và cục trưởng Lưu. Vậy là các bậc bề trên trong Minh Nhãn Mai Hoa đều vắng mặt, chỉ còn hàng con cháu.
Lần trước cũng chính tại nơi đây, những kẻ này đã từ chối thỉnh cầu giúp đỡ của tôi. Giờ tin Trại Tế Liễu bị hốt trọn đã truyền ra, họ đều ngượng ngùng và kinh hãi. Bữa cơm hôm nay lấy danh nghĩa là mừng tôi toàn mạng trở về, dù họ không muốn cũng buộc phải đến đông đủ.
Ngồi xuống bàn, tôi cầm chén rượu lên xin lỗi vì đến muộn, tự phạt một chén. Chẳng đợi họ nâng chén, tôi đã ngửa cổ uống cạn. Sau đó lại tự rót cho mình chén nữa, nói rằng chén thứ hai này xin để tế cụ Lưu, rồi lại uống cạn. Những người còn lại đưa mắt nhìn nhau, tự biết lần này tôi mời họ đến ăn bữa cơm, chưa chừng lại là tiệc Hồng Môn.
Tôi đặt chén xuống, thấy hơi men bắt đầu bốc lên, bèn đảo mắt nhìn quanh rồi trầm giọng nói, “Chắc các vị đều biết chuyện Trại Tế Liễu rồi nhỉ? Năm phái dưới trướng Lão Triều Phụng, đã bị tôi diệt mất một rưỡi. Tuy cũng gặp vô số trắc trở, nhưng suy cho cùng tà không thắng được chính. Như tôi nói lần trước, đạo của Minh Nhãn Mai Hoa ắt phải có một hai người giữ lấy, giờ cũng coi như nói được làm được.”
Tất cả im bặt. Họ chỉ biết dạo trước tôi không ở Bắc Kinh, không ngờ tôi lại lẳng lặng thực hiện một chuyện tày đình như vậy.
Tôi rút trong túi áo ra bản photo quyển sổ danh bạ, ném bộp lên bàn, “Đây là danh sách tôi tìm được ở Trại Tế Liễu, bên trong ghi tên những kẻ có qua lại với Lão Triều Phụng…” tới đó, tôi nói chậm hẳn lại, nheo mắt nhìn quanh, thấy có vài người lộ vẻ kinh ngạc, vài kẻ khác hốt hoảng ra mặt.
“… Tôi xem kỹ rồi, trong đó có mấy trang bôi nhọ Minh Nhãn Mai Hoa chúng ta, nên đã xé đi. Các vị không phải lo.”
Dứt lời tôi vỗ lên tập danh bạ, cười tươi rói. Những người có mặt chẳng ai tin tôi là Lôi Phong sống tự dưng đi tiêu hủy chứng cứ, câu này nói thẳng ra là uy hiếp trắng trợn, các vị ai không phục, sẽ bị xem như đồng bọn của Lão Triều Phụng.
Nếu lúc trước bị đe dọa như vậy, họ sẽ chẳng coi vào đâu. Nhưng tôi vừa đập tan Trại Tế Liễu, dĩ nhiên uy thế không phải dạng vừa.
Thực ra tôi cũng chẳng rõ lắm quyển danh bạ này viết gì, nhưng vẫn đem ra dọa người như thường. Chỉ cần nói úp mở mập mờ, những kẻ có tật giật mình sẽ chột dạ ngay.
Tôi chống hai tay lên bàn, nói rành rọt từng chữ, “Trước mắt nhà nước đang đôn đốc điều tra vụ Trại Tế Liễu, giặc dữ ta truy đuổi đến cùng*. Tôi hy vọng các vị đồng tâm hiệp lực cùng tôi chặt đứt hoàn toàn tổ chức làm giả văn vật này, thực hiện trách nhiệm của Minh Nhãn Mai Hoa.”
Ý tứ của tôi đã rất rõ ràng, chuyện cũ bỏ qua, nhưng tiếp sau đây các vị phải phối hợp chặt chẽ với tôi, quyết một trận sống mái với Lão Triều Phụng. Tuy mọi người không tỏ thái độ gì, nhưng ai nấy đều nhìn chằm chằm “bản danh sách” nặng tựa ngàn cân trên bàn, không ai phản đối.
Lúc này có người cất giọng vu vơ, “Ái chà, cụ Lưu mới mất, xác còn chưa lạnh đã có kẻ lăm le đoạt quyền rồi kia đấy.”
Tôi ngẩng lên nhìn, té ra chẳng phải ai xa lạ, chính là bác Hai của anh em họ Dược, Dược Hữu Quang. Ông ta ngậm điếu thuốc, khoanh tay vênh mặt vẻ khinh khỉnh.
“Bác Hai Quang có ý gì vậy?”
“Tôi đang bảo có người định học theo Khang Hy bắt Ngao Bái, buồn cười chết đi được.” Dược Hữu Quang miệng lười sắc bén, nói năng đâu vào đấy, phải tội lấy ví dụ hơi nhảm nhí.
Tôi điềm đạm đáp, “Bác hiểu lầm rồi. Tôi không định ra lệnh cho các vị, mà muốn chúng ta cùng nhau đồng tâm hiệp lực, nhân cơ hội này dẹp hết đám làm hàng giả, cũng là tốt cho Minh Nhãn Mai Hoa.”
“Mấy đạo lý cao xa tôi không hiểu đâu, đằng nào tôi cũng không làm gì để phải hổ thẹn cả. Cậu thích làm thế nào thì làm, đừng kéo nhà họ Dược chúng tôi vào.” Dược Hữu Quang đảo mắt ngán ngẩm.
Tôi biết Dược Hữu Quang không phải người của Lão Triều Phụng, hạng người này đến lão cũng chẳng buồn dùng, bèn cười hỏi, “Bác chơi cái lọ dế vàng da lươn của Tử Ngọc đã chán chưa?”
Điếu thuốc trên môi Dược Hữu Quang rơi bộp xuống đất, ông ta bàng hoàng như gặp ma giữa ban ngày.
Dược Hữu Quang lẻn vào nhà Dược Lai lấy cắp lọ dế men da lươn, tưởng rằng chỉ có bố con ông ta biết với nhau. Ngờ đâu lúc ấy tôi và Dược Bất Thị cũng ở đó, thấy rõ hành vi của ông ta.
Tôi nhìn ông ta đầy ẩn ý, “Bác lo cất đồ đạc cho cẩn thận, kẻo lộ ra lại khó ăn nói với người nhà.”
Dược Hữu Quang đỏ mặt tía tai, lúng búng trong miệng, nói cũng dở, nuốt lại cũng không xong.
Nghe Phương Chấn kể, sau vụ vỡ chóe nhà họ Dược được phen nháo nhào, trong đó kẻ to mồm nhất là Dược Hữu Quang, ông ta cương quyết đòi nghiêm trị Dược Bất Thị. Về sau tự nhiên lại im thin thít, rất có thể đã bị Dược Bất Nhiên đe dọa. Giờ ông ta lại cả gan quay sang chèn ép tôi, tôi phải dằn mặt tại trận mới được.
Hai chúng tôi trừng mắt nhìn nhau một lúc lâu, cuối cùng Dược Hữu Quang núng thế, cúi đầu tiu nghỉu nhặt điếu thuốc dưới đất lên, vê vào gạt tàn rồi phẩy tay, “Thôi được, nghe cậu hết, được chưa?” Tôi cung kính rót cho ông ta một cốc bia, “Bác Quang biết nghe lời phải, chẳng còn gì bằng, ngày sau bọn cháu còn phải nhờ bác dìu dắt nhiều.”
Rót bia xong, tôi nhìn quanh, mặt lạnh băng, “Còn ai có ý kiến gì nữa xin mời nêu ra cả thảy.”
Dược Hữu Quang gây sự đã bị tôi đập cho không ngóc đầu lên được, đám người kia thấy thế thì câm như hến, nào dám ho he? Dược Bất Thị nói phải, những kẻ này đều mềm nắn rắn buông.
Tôi tủm tỉm cười, “Đã vậy thì chúc cho chúng ta hễ đánh là thắng, trả lại cho giới cổ vật một khoảng trời trong sạch!” Đang định chốt lại thì chợt nghe ngoài cửa vang lên một giọng phụ nữ sang sảng, “Trong hội có chuyện lớn như thế, sao không gọi bà lão này?”
Vừa nghe tiếng, phải đến nửa số người trong phòng mừng ra mặt, như gặp được cứu tinh. Tôi ngoái lại, thấy một bà lão đứng trước cửa, mái tóc bạc phơ chải gọn gàng, vận xường xám xanh lục, tai đeo khuyên tròn, cổ đeo chuỗi ngọc, hai tay hai chiếc nhẫn ngón cái bằng phỉ thúy, phục sức lộng lẫy, phú quý choáng người, chính là Thẩm Vân Sâm của Thanh môn.
Tôi vội đứng dậy dìu bà ta vào ngồi, “Sao bà lại đến đây?”
Thẩm Vân Sâm liếc xéo tôi. “Tôi sợ có người tự ý hành động nên phải vội vã từ Hàng Châu trở về đấy.” Âm điệu lẫn từ ngữ đặc sệt Bắc Kinh, như thể diễn hát nói, giọng nghe chắc nịch.
Tim tôi đập thình thịch. Lúc Phương Chấn mời mọi người tới dùng cơm đã nói trước với cục trưởng Lưu, cố tình không để các bậc bề trên tham gia, như vậy tôi mới tiện khống chế cục diện. Thẩm Vân Sâm thình lình kéo đến đây, chứng tỏ cục trưởng Lưu không ngăn nổi bà ta. Trước mặt bà ta, tôi làm gì còn cửa lên tiếng.
Những người có mặt lại bắt đầu xôn xao, Dược Hữu Quang dương dương đắc ý, đợi xem tôi xấu mặt. Thẩm Vân Sâm xem qua tập danh bạ trên bàn, “Tôi vừa đọc tin rồi, cậu Nguyện làm khá lắm. Danh sách này có thật không đấy?”
“Là thật đấy ạ.” Tôi cung kính đáp. Thẩm Vân Sâm trả tập danh bạ lại cho tôi, thản nhiên nói, “Tôi tới đây nói rõ quan điểm của mình với mọi người, mấy năm nay là giai đoạn phát triển quan trọng của Minh Nhãn Mai Hoa. Tuy hiện giờ cụ Lưu đã khuất, nhưng đường hướng cải tổ vẫn giữ nguyên không đổi. Trong giai đoạn then chốt này, tôi không cho phép để xảy ra bất cứ phiền phức rắc rối nào.”
Dứt lời Thẩm Vân Sâm chỉ thẳng vào tôi, “Cậu Nguyện, việc đối phó Lão Triều Phụng, tiếp theo đây sẽ do cậu toàn quyền xử lý, bà già này ủng hộ cậu cả hai tay. Ai bằng mặt không bằng lòng, lá mặt lá trái, cứ bảo đến tìm tôi.”
Nghe bà ta nói vậy, ai nấy đều bàng hoàng. Ngay tôi cũng ngỡ ngàng, chẳng phải bà ta đến cản trở tôi ư? Sao lại quay ngoắt 180 độ sang ủng hộ rồi? Tôi ngạc nhiên nhìn bà cụ. Còn nhớ lần trước bà ta đã phản đối xé to chuyện này ra, nói rằng “việc này can hệ quá rộng, phải bàn bạc kỹ lưỡng” kia mà, sao tự nhiên lại đổi thái độ vậy?
Thấy tôi hoang mang ra mặt, Thẩm Vân Sâm cầm đũa lên, dửng dưng gõ ba cái vào đĩa.
Đó là ám hiệu, ý bảo để lát nữa giải thích.
Được bề trên như Thẩm Vân Sâm ủng hộ, người trong Minh Nhãn Mai Hoa cũng chẳng ai phản đối tôi nữa. Nhờ thế mà chiến lược tôi đưa ra được chốt luôn, còn về chuyện phối hợp với cảnh sát thế nào, sau này ắt có Phương Chấn sắp xếp, tôi chỉ cần đứng giữa điều phối, không phải nhúng vào lĩnh vực chuyên môn của người khác làm gì.
Tôi mừng như mở cờ trong bụng, bởi đây là lần đầu tiên Minh Nhãn Mai Hoa công khai tuyên chiến với thế lực làm hàng giả. Đám người này tuy nhát gan nhưng trình độ chuyên môn thì không thể nghi ngờ. Có bọn họ hỗ trợ, lại có danh sách kia chỉ dẫn, phía cảnh sát đối phó Lão Triều Phụng thực dễ như gió thu quét lá rụng. Tới lúc ấy cây đổ khỉ vượn tan, dẫu là kẻ trước đây từng câu kết với Lão Triều Phụng, cũng sẽ lũ lượt trở giáo, thậm chí cắn ngược lại lão. Thế lực của Lão Triều Phụng ắt sẽ tan thành mây khói.
Sau khi giải tán, tôi và Thẩm Vân Sâm nán lại cuối cùng. Đợi tất cả đi hết, Thẩm Vấn Sâm hỏi tôi, “Thấy tôi thay đổi thái độ, cậu bất ngờ lắm hả?”
“Phải.” Tôi thật thà đáp, “Ban đầu tôi còn tưởng bà tới kiếm chuyện với tôi ấy chứ.”
Thẩm Vân Sâm thở dài, mấy nếp nhăn lờ mờ hiện ra trên vầng trán được chăm chút kỹ càng, “Tôi làm vậy là có nguyên nhân cả. Nào, để tôi dẫn cậu đi gặp một người.”
Tôi chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao, lại không tiện hỏi, đành lẳng lặng đi theo. Chúng tôi rời nhà hàng, lên xe của bà Sâm. Xe chạy chừng hơn chục phút, sắp ra tới ngoại ô thì đột ngột rẽ vào một khu nhà. Tôi xuống xe mới biết, ra đây là một trại tạm giam.
Thẩm Vân Sâm rõ ràng đã từng đến đây nên rất thông thuộc đường lối, bà ta chào hỏi cán bộ phụ trách tiếp đón, điền tờ khai rồi cùng tôi đi vào phòng thăm gặp. Chẳng bao lâu sau, có tiếng kéo cửa sắt ken két rồi một người đàn ông mặc áo tù được dẫn ra.
“Dược Bất Thị?” Tôi đứng bật dậy, không nén nổi kích động.
Trước mắt tôi, không ngờ lại là Dược Bất Thị đã bị bắt ở Hàng Châu. Anh ta vẫn đeo cặp kính gọng vàng, song vẻ mặt mệt mỏi, tóc tai hơi rối, mấy cọng tóc còn dựng đứng lên, có thể thấy anh ta đã cố can thiệp, nhưng trong trại tạm giam không có keo vuốt tóc, đành vuốt tạm bằng nước.
Trông thấy tôi, anh ta vẫn hững hờ như mặt giếng cổ không một gợn sóng, lặng lẽ ngồi xuống phía đối diện.
“Anh, anh có khỏe không?” Tôi hỏi.
Như thường lệ, Dược Bất Thị bỏ qua câu này mà đi thẳng vào việc chính, “Tôi nghe nói cậu đã đập tan một cứ điểm quan trọng của Lão Triều Phụng?”
“Đúng thế.”
“Đừng vội mừng, cuộc chiến còn chưa kết thúc đâu.”
Dược Bất Thị chẳng khen tôi được nửa câu đã lên giọng răn đe. Tôi vốn đang định khoe khoang thì bị giội ngay một gáo nước lạnh. Dược Bất Thị nhìn sang Thẩm Vân Sâm đứng bên cạnh, “Bà cũng đến ạ?”
Thẩm Vân Sâm đáp, “Tôi đã làm công tác tư tưởng với người trong nhà và bên triển lãm rồi, quyết định không khởi kiện, cậu sẽ sớm được thả thôi. Có điều tiền bồi thường tạm thời cậu vẫn phải chi trả.”
Tôi và Dược Bất Thị đồng loạt nhíu mày. Tạm thời ư? Từ này dùng lạ thật đấy. Bất luận thế nào chiếc chóe kia cũng do Dược Bất Thị đẩy đổ, dù mọi người có thông cảm bỏ qua thì anh ta đương nhiên vẫn phải bồi thường tổn thất, sao lại nói là tạm thời chi trả?
Lẽ nào bên trong còn ẩn tình khác?
Thẩm Vân Sâm thở dài, “Hai cậu tinh quá.” Bà ta kéo một chiếc ghế ngồi xuống, tao nhã chống hai khuỷu tay lên mặt bàn, “Đây là lý do vì sao tôi muốn nói chuyện trực tiếp với cả hai cậu. Sau khi xảy ra chuyện ở Hàng Châu, tôi vô cùng tức giận, không ngờ Bất Thị vừa về nước đã hại tôi một vố đau như thế. Nhưng về sau nghĩ đi nghĩ lại, tôi cứ thấy là lạ, một là cậu không có động cơ, hai là cái chóe kia rơi vỡ cũng rất lạ lùng. Thế nên tôi tới tận nơi kiểm tra, lật xem đống ảnh chụp hiện trường, kết quả phát hiện ra một vấn đề về tính vững chãi…”
Nói tới đó, ánh mắt Thẩm Vân Sâm nghiêm nghị hẳn.
Nghe bà ta nói thế, tôi cũng sực nghĩ ra. Chóe Ba lần ghé lều tranh không phải loại chóe chân cao, mà thuộc loại đế tròn, đường kính đế gần bằng đường kính miệng, giống như một hình trụ với phần bụng phình ra, đó là một kết cấu khá vững chãi, sao có chuyện vừa chạm phải đã đổ được?
“Bố cục bày biện ở đó có một điểm không hợp lý, các cậu có thấy không?” Thẩm Vân Sâm hỏi.
Tôi nhắm nghiền mắt, cố nhớ lại tình cảnh lúc ấy. Bấy giờ trong số những đồ bày biện ở đó có một sập la hán, một bàn thấp bằng gỗ tử đàn chạm mây lành như ý, một bình phong tám mặt khảm xà cừ hình thị nữ cầm quạt, hai chiếc ghế gỗ tếch mặt tròn cẩn sứ, hai bàn hương sáu chân cao, còn một tủ ngăn kéo bịt bạc và kệ trà nhỏ bằng gỗ hoàng lê, đều là những đồ gia dụng quý giá, có giá trị nghệ thuật cao, nếu nói không hợp lý thì…
Thẩm Vân Sâm nhận xét, “Ở đó có cả đồ thời Thanh và thời Minh, bày lẫn với nhau.”
Đồ gia dụng thời Minh, Thanh không hoàn toàn tương ứng với hai triều đại nhà Minh và nhà Thanh. Đồ từ thời Khang Hy trở về trước đều có thể quy là gia dụng thời Minh, sau thời Khang Hy mới thật sự được coi là đồ thời Thanh. Đồ thời Minh giản dị mộc mạc, chú trọng công dụng còn đồ thời Thanh hoa lệ rườm rà, nặng tính trang trí. Hai phong cách khác hẳn nhau. Xét trên góc độ thẩm mỹ thì bày chung trông không được hài hòa, nên trong trưng bày triển lãm hiếm khi được đặt cạnh nhau.
Song lần triển lãm này, họ lại bày lẫn lộn. Nếu là người ngoại đạo thì chẳng sao, nhưng nhà họ Thẩm là dân trong nghề, lẽ ra không thể phạm sai lầm này được.
Thẩm Vân Sâm cười nhạt nói tiếp, “Cũng tại tôi quá tin tưởng phó thác cho người dưới mới ra cơ sự này. Lý ra thì bày đồ thời Minh lẫn với thời Thanh cũng chẳng phải chuyện gì ghê gớm, miễn là bài trí thỏa đáng thì vẫn đẹp mắt. Nhưng phía trước đã có bàn gỗ tử đàn thấp, bên cạnh còn bày bình phong tám mảnh khảm xà cừ, rồi bàn hương và ghế tròn, chẳng ra thể thống gì cả. Bàn hương là nơi đặt lư hương, chú trọng kín đáo, không bắt mắt, ai đời lại mời khách ngồi cạnh lư hương không? Có phải đồng tử luyện đan đâu?”
Đúng là khác nghề như cách núi, hai chúng tôi cảm thấy bài trí như vậy là đẹp lắm rồi, nhưng trong mắt Thẩm Vân Sâm thì đâu đâu cũng có vấn đề. Nghĩ theo hướng ấy, tôi quả thực cũng có cảm giác hơi ngộp, quanh chóe Ba lần ghé lều tranh kê đến bốn năm món đồ gia dụng thì đâu còn giống bày biện nữa, mà giống chất đồ trong kho hơn.
Thẩm Vân Sâm giải thích, “Thoạt đầu tôi ngỡ là người dưới không biết việc, không hiểu quy tắc bài trí. Nhưng về sau kiểm tra kỹ lại, tôi mới nhận ra những món đồ bày quanh chóe đều có ẩn ý cả.”
Tôi và Dược Bất Thị nhìn nhau, thầm biết đến lúc then chốt rồi đây.
Thẩm Vân Sâm nói, “Hai cậu có biết mộng lỗ không?” Hai chúng tôi đồng loạt gật đầu, đây là kiến thức sơ đẳng đến không thể sơ đẳng hơn trong nghề mộc. Trên các bộ phận khác nhau của món đồ gỗ, người ta sẽ đẽo những mấu lồi và lõm, lồi ra là mộng, lõm vào là lỗ mộng, ghép vào nhau để cố định sản phẩm. Thợ mộc lành nghề còn không cần dùng đinh hay keo, chỉ cần ghép mộng cũng làm ra được những đồ gia dụng bền chắc, khít khịt không một khe hở.
Thẩm Vân Sâm trở tay giở ra một bản vẽ, bên trên là sơ đồ mộng của một số bộ phận. Bà ta giải thích, “Mộng và lỗ mộng, một dương một âm, nhìn thì đơn giản, thực ra bên trong lại biến hóa vô cùng. Mỗi loại đồ gia dụng lại có một kiểu mộng khác nhau. Tôi kiểm tra lại những món bày tại hiện trường lúc ấy, phát hiện mộng lỗ của mỗi món đồ đều bị sửa đổi cả.”
“Sửa đổi ư?”
“Chính xác. Ví như món này đang từ góc mộng ba chiều đổi thành góc mộng ba chiều kết hợp đường kẻ chỉ; món kia vốn là mộng hình đám mây lại sửa thành mộng hình chiếc quạt v.v… Nếu nói kỹ thì phải mất mấy ngày, nhưng tóm lại thì kiểu mộng của mỗi món đều không phù hợp lắm, nhưng cũng không thay đổi quá nhiều.”
“Sửa đổi mộng lỗ có ảnh hưởng gì tới đồ vật?” Dược Bất Thị hỏi.
“Nếu xét riêng thì gần như không ảnh hưởng gì, chỉ thay đổi hình dạng chút thôi. Nhưng nếu tập hợp lại, món nào cũng sửa đổi một chút, tích tiểu thành đại, lại gây ra ảnh hưởng lớn.” Thẩm Vân Sâm sầm mặt nói, “Xem bệ đỡ chóe, tôi mới thực sự khẳng định có kẻ giở trò. Chiếc bệ tròn nọ rất cao, lý ra phải dùng dạng mộng hương vòng xẻ rãnh ghép mép, các cậu có thể hình dung nó như một vòng tròn gỗ, tháo ra là bốn đoạn cong giống y xì nhau, mỗi đoạn đều là trước mộng sau lỗ mộng, sau khi ghép khít vào sẽ không bao giờ long ra, muốn gỡ cũng khó.”
“Rồi sao ạ?”
“Loại bệ tròn này dùng để bày lư hương hoặc chóe sứ, chú trọng nhất là vững vàng, nên khi đóng nhất định phải dùng phương pháp xẻ rãnh ghép mép. Nhưng tôi kiểm tra thì thấy bệ tròn kia lại dùng nêm ngựa phi!”
Tôi hít vào một hơi. Tuy không am hiểu nghề mộc, nhưng nghe đến nêm ngựa phi vẫn như sấm dội bên tai. Đó là một dạng mộng nêm đinh gỗ, dùng một mảnh gỗ rời làm mộng, trên nhỏ dưới to, ngàm nửa to nửa nhỏ. Khi ghép mộng phải ghép từ bên to, đẩy dần vào phía bên nhỏ. Cách đẩy mộng từ từ này rất giống ngựa phi, nên gọi là nêm ngựa phi.
“Nêm ngựa phi vốn dùng để ghép thành cửa sập la hán. Nếu áp dụng cách ghép mộng này vào bệ tròn, một khi đặt một lực nghiêng lên trên, vừa hay ngược với hướng ghép mộng thì mộng sẽ long ra, như có một bàn tay đẩy nó ra vậy.”
Nghe đến đó, mắt Dược Bất Thị bắt đầu tóe lửa. Thẩm Vân Sâm giải thích rất đơn giản rõ ràng, chỉ cần nắm được kiến thức vật lý cấp hai là hiểu, bệ đỡ chóe đã bị người ta tráo đổi.
“Nhưng như thế cũng đâu đến nỗi vừa chạm vào đã đổ chóe?” Tôi thắc mắc.
Thẩm Vân Sâm giơ ngón tay vẽ một vòng tròn trên không, “Bục triển lãm ở đó cũng có vấn đề. Tôi đã kiểm tra, nó nghiêng sang phải khoảng mười độ so với bục triển lãm thông thường.”
“Ừm…” Tôi trầm tư.
“Các đồ gia dụng xung quanh bị sửa, mộng lỗ của bệ đỡ bị thay đổi, độ nghiêng của bục triển lãm, cả cách bày chóe nữa… Từng thay đổi nhỏ thì không đáng kể. Nhưng kết hợp lại, có thể tạo ra tình huống chóe Ba lần ghé lều tranh đặt chông chênh, khẽ chạm vào là đổ.” Thẩm Vân Sâm sầm mặt, nói thêm, “Tôi đã tiến hành thực nghiệm, thấy hoàn toàn có khả năng này.”
Tôi và Dược Bất Thị chỉ biết thộn ra nghe, không ngờ còn có thể giở trò với các món đồ gỗ như vậy, đúng là kỹ xảo cao siêu. Thảo nào giáo sư Trịnh chỉ cần mua chuộc một đứa bé con là có thể dàn cảnh thành tai nạn bất ngờ. Bố trí khéo léo nhường ấy, người thường làm sao ngờ được là bẫy chứ.
Nếu chuyện này là thật thì kẻ có thể bố trí cái bẫy này hẳn phải hết sức am tường đồ gỗ, hơn nữa còn kiểm soát được cả việc bày biện trong sảnh triển lãm, lẽ nào… Tôi và Dược Bất Thị cùng chung suy nghĩ, không khỏi đổ dồn mắt vào Thẩm Vân Sâm.
Chỉ thấy bà ta thở dài đáp, “Gia môn bất hạnh, cái bẫy này dĩ nhiên là do người nhà họ Thẩm chúng tôi bày ra.”
Xem ra trong nhà họ Thẩm, ngoài Thẩm Quân bị Lão Triều Phụng lôi kéo, vẫn còn kẻ nội gián khác. Bấy giờ tôi mới hiểu nguyên do bà ta thay đổi 180 độ, hóa ra là mất bò mới lo làm chuồng. Nói Dược Bất Thị “tạm thời” phải đền tiền chiếc chóe, là muốn kết thúc nhanh các thủ tục pháp lý để anh ta chóng được thả. Tới khi tra ra thủ phạm thực sự, sẽ trả lại trong sạch cho anh ta.
Bỗng dưng tôi lại sinh lòng kính phục bà Sâm. Chuyện xấu trong nhà, người khác bưng bít còn không kịp, vậy mà bà ta chẳng chút ngại ngần kể ra với chúng tôi, đủ thấy quyết đoán tới mức nào. Các chưởng môn trong Minh Nhãn Mai Hoa quả nhiên không chỉ có hư danh.
Dược Bất Thị không kích động như tôi mà đanh mặt ngẫm nghĩ hồi lâu rồi lên tiếng hỏi, “Vậy bà đã biết là ai chưa? Nếu là người phụ trách bài trí trong triển lãm, chắc không khó truy ra chứ?”
Thẩm Vân Sâm lắc đầu bối rối, “Việc bày biện không gian triển lãm được giao cho một nhóm thiết kế trực thuộc nhà họ Thẩm. Phương án cuối cùng do cả nhóm bàn bạc thống nhất. Mỗi một thay đổi đều ghi rõ lý do trong đề án. Bất cứ ai cũng có khả năng âm thầm tác động tới người khác, dẫn dắt thiết kế theo hướng mình muốn.”
“Không thể tra biên bản cuộc họp hay hỏi những người tham gia sao?” Tôi hỏi.
Chẳng đợi Thẩm Vân Sâm đáp, Dược Bất Thị đã gạt phăng, “Không được, làm vậy sẽ đánh rắn động cỏ, phải nghĩ cách khác thôi.”
Thẩm Vân Sâm nói, “Hôm nay tôi gặp hai cậu kể hết sự tình, một là muốn xin lỗi, hai là muốn nhờ hai cậu giúp đỡ.”
“Giúp việc gì cơ?”
Thẩm Vân Sâm gõ mạnh chiếc nhẫn ngón cái bằng phỉ thúy xuống bàn, “Quét sạch phòng ốc, lùa con chuột kia ra!” Bà ta bừng bừng lửa giận, như một con sư tử cái bị xâm phạm lãnh địa.
Dược Bất Thị vặn lại, “Cần gì phiền phức thế, chuyện này do giáo sư Trịnh giật dây thì cứ hỏi ông ta là xong?”
Sắc mặt Thẩm Vân Sâm thoắt ảm đạm, “Ông ta mất tích rồi, tìm đâu cũng không thấy. Tôi thực không ngờ người này lại thành ra như vậy…”
Giáo sư Trịnh và tôi từng đối chất thẳng mặt nhau, nếu tôi sống sót quay về, nhất định sẽ vạch trần bộ mặt ông ta. Ông ta chỉ còn cách bỏ chạy cho mau. Có điều… tôi cảm giác giọng điệu Thẩm Vân Sâm có vẻ như hơi muốn buôn chuyện.
Thẩm Vân Sâm hai má ửng hồng, lộ vẻ ngượng nghịu hiếm thấy, “Hồi trẻ tôi suýt nữa lấy ông ta đấy. Có điều vấp phải nhiều trở ngại trong gia đình, chuyện cuối cùng không thành.”
Nhìn vẻ ngại ngùng của bà ta, có lẽ câu chuyện không đơn giản như vậy. Nhưng giờ việc lớn trước mắt, tôi chẳng còn bụng dạ nào hỏi kỹ.
Tuy để giáo sư Trịnh bỏ chạy cũng khá đáng tiếc, nhưng nghĩ tới việc những tay chân Lão Triều Phụng cài cắm trong Minh Nhãn Mai Hoa đang bị nhổ dần từng tên, tôi vẫn lấy làm khoái chí. Quá trình này hiển nhiên khó tránh đau đớn, nhưng là giai đoạn tất yếu để khôi phục lại cơ thể khỏe mạnh.
Thời gian thăm nom chẳng mấy chốc đã hết, Dược Bất Thị phải quay về phòng giam. Tôi và Thẩm Vân Sâm bước ra ngoài, bà ta hỏi tôi đi đâu. Tôi nghĩ ngợi rồi đáp muốn đi loanh quanh một mình, Thẩm Vân Sâm biết hiện giờ lòng tôi ngổn ngang trăm mối nên cũng chẳng khuyên nhủ nhiều, chỉ dặn dò vài câu rồi lên xe đi thẳng. E rằng bà ta còn nhiều việc hơn tôi.
Rời trại tạm giam, tôi cũng không vội về Tứ Hối Trai mà một mình lang thang trên đường, sắp xếp lại mọi việc trong đầu.
Giờ cuộc chiến với Lão Triều Phụng đã khai hỏa trên mọi mặt trận, chẳng cần tôi nhọc lòng nhiều nữa. Chỉ còn bí mật về bộ chóe năm vẫn chưa phá giải được. Tôi linh cảm bí mật ấy có liên quan mật thiết tới ông nội tôi và Lão Triều Phụng.
Bí mật trong ba chóe Ba lần ghé lều tranh, Đóng quân trại Tế Liễu và Quỷ Cốc Tử xuống núi đã nằm trong tay tôi, Dược Bất Nhiên lấy được “Trại Tế Liễu” và “Quỷ Cốc Tử”, còn lại chóe Thắp nhang vái trăng và chiếc cuối cùng không biết ở đâu.
Bốn câu chuyện của ông Dược Lai, rốt cuộc có liên quan gì tới bộ chóe năm chiếc?
Dược Thận Hành trở về miền Bắc, rốt cuộc là vì chuyện gì? Ông nội tôi ở nhà hàng Khánh Phong ép tay lái buôn tên Lâu Dận Phàm phải nhảy lầu tự sát, rốt cuộc là vì sao?
Vô số nghi vấn ùn ùn hiện lên trong tâm trí, thứ này dường như lại dây dưa tới những thứ khác, nhưng mối liên kết hết sức mơ hồ.
Tôi cứ vừa đi vừa nghĩ, chẳng biết đi mất bao lâu, ngẩng lên mới ngẩn người. Tôi đang đứng trước một tòa nhà ba tầng, mái hiết sơn phỏng cổ, tường bê tông, lan can bằng đá cẩm thạch trắng, ngói lợp vàng rực, vừa tao nhã vừa hiện đại. Trước lối vào dựng một tấm biển viết mấy chữ “Trụ sở Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa”.
Tôi mới tới đây mấy lần, sao hôm nay ma xui quỷ khiến thế nào lại lạc bước đến chốn này. Đang định bỏ đi, chợt thấy trước tòa nhà giăng một dải lụa đen, trên đề hàng chữ trắng “Vô cùng thương tiếc đồng chí Lưu Nhất Minh”. Mỗi bên lại đặt hai vòng hoa. Hai cánh cửa mở toang, thông thẳng vào đại sảnh.
Sau khi trở về, tôi vẫn định tới thắp nén hương cho cụ Lưu, song trước là buổi gặp mặt Minh Nhãn Mai Hoa, sau lại tới chuyện Thẩm Vân Sâm, chưa có lúc nào rảnh rỗi. Không ngờ trong cõi u minh lại có ý trời xui khiến, thâm tâm tôi vẫn luôn muốn tới tiễn ông cụ chặng đường cuối cùng, nên hai chân bất giác đưa tới đây.
Tôi thẫn thờ nhìn vào trong rồi đi sang bên cạnh mua một bông hoa trắng, một dải băng tang đeo lên, xong xuôi mới quay trở lại.
Trong đại sảnh bài trí rất đơn sơ, chính giữa là bức ảnh chân dung đen trắng của cụ Lưu. Trong ảnh, ông cụ vẫn hết sức bình thản, phơi phới như tiên. Hai bên ảnh là mấy bó hoa và đôi câu đối, không phải câu đối viếng mà là câu đối treo trong thư phòng ông cụ khi trước: “Biết đủ ắt vừa lòng, không cầu tự thanh cao”. Không có lư hương, không có nhạc phúng, cũng không có sổ tang và vòng hoa, mọi thứ đều xuề xòa đơn giản.
Lúc này đã hơn hai tuần từ sau khi cụ mất, người muốn đến đều đã đến cả nên bên trong cực kỳ yên tĩnh, chỉ có một người túc trực trông coi.
Nhác thấy tôi tiến vào, người kia toan đứng dậy bước ra đón. Tôi bèn xua tay tỏ ý không cần rồi tới trước bàn thờ, quỳ xuống dập đầu ba cái.
Vừa đứng lên, tôi chợt nghe thấy một giọng nữ quen thuộc.
“Anh Nguyện à?”
Ngoảnh lại, tôi thấy một cô gái vận đồ tang đen, ngực cài hoa trắng, còn đội sa đen che mặt. Tuy vậy, tôi thoạt nhìn vẫn nhận ra ngay.
Kido Kana?