Tôi mơ màng tỉnh lại, chợt thấy hương cỏ lẫn với mùi đất ngai ngái phả vào mũi. Gắng mở mắt ra, tôi thấy mình đang nằm giữa bãi cỏ đẫm sương, tay chân bị trói chặt. Hoàng Yên Yên nằm cạnh tôi, cũng bị trói gô, một lọn tóc xõa xuống khóe môi, toát lên vẻ thê lương nhức nhối. Dường như cô ta vẫn hôn mê, may mà lồng ngực còn phập phồng nên tôi mới tạm yên tâm.
Tôi nhớ lúc bị đánh lén là buổi chiều, còn giờ nhìn trời có vẻ đã tảng sáng. Như vậy ít nhất tôi đã ngất đi mười hai tiếng đồng hồ. Xung quanh khá tối, không trông rõ cảnh vật, nhưng ngửi mùi có vẻ đang ở ngoại ô. Cách chúng tôi không xa có mấy bóng người đang lúi húi làm gì đó, loáng thoáng nghe tiếng kim loại va vào đá leng keng, còn có cả tiếng xúc đất sàn sạt.
Không rõ họ đang làm gì, nhưng tôi có linh cảm xấu, bèn đưa mắt nhìn quanh, hòng tìm viên đá nào sắc nhọn để cứa dây thừng mà không thấy. Đúng lúc này, bên tai chợt vang lên giọng nói khe khẽ: “Chết chưa đấy?”
Tôi khó nhọc quay đầu sang, bắt gặp đôi mắt đầy cảnh giác của Hoàng Yên Yên.
“Cắn đứt dây thừng hộ tôi với.” Cô ta bảo.
Người bình thường tỉnh dậy thấy mình rơi vào cảnh này, phản ứng đầu tiên hẳn là kinh hoàng, vậy mà Hoàng Yên Yên ngay câu đầu tiên đã nghĩ cách thoát thân, đúng là can đảm, tôi phải phục sát đất.
Kẻ trói chúng tôi lại cực kỳ khéo, không thắt nút sau lưng mà thắt ngay trước bụng, như vậy người bị trói quặt tay ra sau sẽ không thể với tới trước để cởi nút. Muốn cởi chỉ có cách nhờ người còn lại dùng miệng tháo hộ. Tôi lưỡng lự giây lát rồi chậm chạp nhích người tới trước Hoàng Yên Yên. Thân hình cô nàng vốn đã đẹp sẵn, giờ lại bị trói gô, bộ ngực đầy đặn nổi hẳn lên, chỉ cần gục gặc đầu hơi mạnh sẽ chạm vào bầu ngực cao vút, khiến tôi không khỏi cứng người lại vì căng thẳng. Hoàng Yên Yên bực bội ‘hừ’ một tiếng, hơi ưỡn người ra, tức thì mặt tôi lún vào một vùng mềm mại. Cảm giác đầy đặn êm ái, mùi thơm dìu dịu cùng độ đàn hồi nây nẩy khiến đầu tôi nổ tung.
“Anh còn định đợi đến bao giờ đây?”
Giọng lạnh lùng của Hoàng Yên Yên khiến tôi sực tỉnh. Tôi nuốt nước bọt, tiếp tục ngọ nguậy người, ghé môi lướt dọc bụng cô nàng xuống đến nút thắt. Tôi há miệng, cắn lấy một đầu thừng, dùng cả lưỡi lẫn răng vừa nhay vừa lừa, bất chấp mùi hôi rình từ sợi thừng xộc lên. Có điều nút thắt quá cứng, tôi nhay mãi mới hơi lỏng ra.
Đám người đang đào xới đằng kia có thể quay lại bất cứ lúc nào, ánh mắt Hoàng Yên Yên đầy sốt ruột. Tôi bèn ngẩng đầu, rướn người lên, áp bụng vào mặt cô ta.
“Anh làm gì đấy hả?” Hoàng Yên Yên vừa hoảng vừa tức.
“Xuyến đồng trong túi tôi.”
Tôi vẫn luôn đem theo chiếc xuyến đồng của cô ta. Nó dù sao cũng là kim loại, cạnh sắc, cứa thừng dễ hơn dùng răng nhiều. Hoàng Yên Yên hiểu ngay, khéo léo dùng miệng lôi chiếc xuyến đồng ra khỏi túi tôi, rồi chuyền sang. Trong lúc chuyền miệng, hai chúng tôi đều hết sức cẩn thận, chỉ sợ chạm phải môi nhau.
Có công cụ, việc tháo dây dễ hẳn đi. Tôi cứa mười mấy phút thì đứt một sợi. Hoàng Yên Yên rùn hai tay vùng ra, rồi lồm cồm bò dậy. Còn chưa kịp cởi trói cho tôi thì đám người đằng kia đã phát hiện, la lớn, “Đại ca, bọn nó định chuồn kìa!”
Tức thì, bảy tám tên từ xa ập đến vây lấy chúng tôi. Tôi than thầm trong bụng, giục Hoàng Yên Yên chạy trước, nhưng cô ta lắc đầu vùng đứng lên, thủ thế phòng ngự. Mấy kẻ kia thấy Hoàng Yên Yên định liều mạng chống lại, cũng không dám xông vào. Trong số chúng có vài tên mặt mũi sưng vều rách toạc, có lẽ từng ăn đòn của cô ta lúc trước, nên hết sức kiêng dè. Trịnh Trọng cũng nằm trong số đó, cặp mắt dán chặt vào Hoàng Yên Yên.
Đôi bên gườm nhau giây lát, chợt một kẻ chậm rãi bước vào vòng vây.
Người này là một gã trung niên da ngăm đen, mặt vuông trán cao, cặp mắt trợn tròn như sắp lồi ra khỏi hốc mắt. Y nghênh ngang đứng đó tựa một chiếc đỉnh vuông, tay lăm lăm tước đồng chạm rồng.
“Hóa ra là cô Cả họ Hoàng, ăn mấy gậy mà vẫn khỏe quá nhỉ.”
Hoàng Yên Yên gằn giọng, “Trịnh Quốc Cừ, đồ khốn kiếp!” Bấy giờ tôi mới vỡ lẽ hóa ra đây chính là tên Trịnh Quốc Cừ trong truyền thuyết. Có lẽ chính y đã lệnh cho Trịnh Trọng phái người bám theo đánh lén chúng tôi rồi trói lại đem đến đây. Những kẻ này đấu khẩu không lại bèn giở trò đánh người, đúng là tàn độc.
Trịnh Quốc Cừ nghe vậy liền đảo mắt, “Ranh con, mày tự kiếm chuyện, lấy hàng thật ra phá tiệm tao trước, trách gì tao.”
Tôi trợn mắt kinh ngạc, lẽ nào chiếc tước này không phải do nhà họ Hoàng làm ra? Sao Trịnh Quốc Cừ lại nói là hàng thật? Nhìn sang Hoàng Yên Yên, thấy cô ta không hề có ý phủ nhận, lòng tôi bỗng nặng trĩu.
Giờ chúng tôi đã là cá nằm trên thớt nên Trịnh Quốc Cừ cũng chẳng cần nóng vội, thong thả vừa bước vừa nói, “Hôm nay khách quý đến đúng lúc mở hàng, chi bằng vào nhà ngồi chơi.” Dứt lời hắn trỏ tay, dưới ánh bình minh lờ mờ, tôi trông thấy đằng xa có ngôi mộ cổ, cạnh đó thấp thoáng một cửa hang vuông vức, không khỏi hít vào một hơi. Hóa ra bọn chúng đang đào trộm mộ!
Trịnh Quốc Cừ cười nanh ác. “Con người tao làm việc luôn công bằng, lấy đồ của chủ mộ thì đền ngay hai kẻ bồi táng, lại thêm một tước đồng chạm rồng, cũng là có tình có nghĩa rồi nhỉ.”
Giọng hắn đều đều thản nhiên, nhưng tôi nghe mà lại thấy như trời long đất lở. Tên này quả nhiên tàn nhẫn, trước là đào hố đánh cắp đồ cổ trong mộ, sau lại ném hai chúng tôi xuống chôn sống, coi như xóa sạch dấu vết, một mũi tên trúng hai con chim. Nơi này trước chẳng có làng sau không thấy quán, dù Dược Bất Nhiên báo cảnh sát cũng chưa chắc lần ra.
Tôi gượng gạo ngẩng lên cười. “Đừng bốc phét, nếu chén đồng là thật, mày lại chịu đem chôn đấy?”
Trịnh Quốc Cừ đáp, “Ông đây tham chứ không ngu, biết cái gì xơ múi được, cái gì không được đụng đến. Giữ lại món hàng xịn này kiểu gì cũng bỏng tay, chi bằng chôn theo chúng mày.”
Nói đoạn y vẫy tay ra hiệu cho đám tay chân hành động. Trịnh Trọng đề nghị, “Đại ca, đằng nào cũng phải quăng xuống hố, chi bằng để các anh em tranh thủ xơ múi con nhỏ này tí, khỏi phí của giời.”
Hoàng Yên Yên hai lần làm Trịnh Trọng bẽ mặt trước bàn dân thiên hạ nên hắn thù cô ta thấu xương. Cả đám người tức thì đổ dồn mắt vào Hoàng Yên Yên, dâm đãng săm soi từ trên xuống dưới, chẳng cần nói cũng biết đang nghĩ gì.
Trịnh Quốc Cừ nghiêng đầu nghĩ ngợi rồi búng tay đánh tách, “Sắp sáng rồi, để người ta bắt gặp lại rầy rà. Chúng mày nhanh nhanh lên đấy.”
Mấy tên kia mừng húm, vội xắn tay áo, lăm lăm cuốc thuổng gậy gộc nhào vào Hoàng Yên Yên. Hoàng Yên Yên giận điên người, vung nắm đấm hạ ngay một tên, tiếc rằng ít chẳng địch nổi nhiều, chẳng mấy chốc đã rơi vào thế yếu.
Trịnh Quốc Cừ sải bước tới trước mặt, chà giày vào đầu tôi, “Ái chà, cái xuyến đó đây à? Chắc mày là người yêu con ranh Hoàng Yên Yên phỏng.” Hóa ra y cũng biết sự tích ấy của nhà họ Hoàng.
Tôi nhả xuyến đồng ra, nghiến răng đáp, “Sao mày không thử nghĩ xem chúng tao đặt cược lớn thế để đấu mày làm gì?”
Song Trịnh Quốc Cừ ranh ma, không hề mắc bẫy. “Tao cần đếch gì biết.”
“Tao không cho là vậy đâu. Cả đầu Phật ngọc mày cũng không hứng thú?”
Trịnh Quốc Cừ khựng lại, ngồi thụp xuống, cặp mắt trố như càng lồi hơn. Y ngoắc tay, bảo tôi nói lại lần nữa. Tôi quay đầu nhìn sang phía đối diện, Trịnh Quốc Cừ hiểu ý, vội quát bảo đám tay chân tạm thời dừng lại.
Tấm gương đồng hải thú bồ đào ông tôi để lại cho Phó Quý rất có thể ẩn chứa tin tức quan trọng về đầu Phật ở minh đường Võ Tắc Thiên. Phó Quý không biết bí mật bên trong, nhưng kẻ am hiểu đồ cổ thoạt nghe là hiểu ngay. Trịnh Quốc Cừ là tay lão luyện trong nghề giám định, y mua lại tấm gương đó, chưa chừng đã tìm ra bí mật rồi, thậm chí có thể ủ mưu từ trước mới mua.
Tôi liều mạng cược rằng y cũng biết chuyện về đầu Phật. Giờ nhìn phản ứng của y, tôi biết mình đã cược đúng.
Trịnh Quốc Cừ cởi trói chân rồi tóm lấy hai vai tôi, nhấc bổng thân hình xấp xỉ năm chục cân của tôi lên như xách một con gà, lôi đến cạnh cửa hầm. Cửa hầm khá vuông vắn, trông như cửa cống thoát nước, thông thẳng xuống lòng đất, thoạt nhìn đã biết do dân trong nghề đào. Tôi đứng chông chênh bên miệng hầm, hoàn toàn nhờ Trịnh Quốc Cừ giữ vai, chỉ cần y đẩy nhẹ, tôi sẽ lăn lông lốc xuống dưới.
Trịnh Quốc Cừ lạnh lùng ra lệnh, “Nói đi.”
“Mày thả cô ấy ra trước đã.”
Y nhành miệng cười. “Vợ mày sắp thành vợ thằng khác rồi, còn cò kè mặc cả nỗi gì?”
Cách đó không xa, Hoàng Yên Yên đang thở hồng hộc, bị cả đám người vây vào giữa. Tuy cô hạ được mấy tên, nhưng cũng không sao địch nổi bảy tám gã trai tráng lăm lăm vũ khí. Mái tóc cô xõa tung, áo rách toạc một mảng, phơi ra cần cổ trắng ngần.
Tôi hít sâu một hơi, “Chúng tao đến An Dương là vì tấm gương đồng hải thú bồ đào trong tay mày, nó ẩn giấu thông tin quan trọng về đầu Phật ngọc ở minh đường Võ Tắc Thiên.”
Trịnh Quốc Cừ thoáng ngạc nhiên, song vẫn lắc đầu. “Nghe hay đấy, nhưng chưa đủ.”
“Đầu Phật hiện đang trong tay người Nhật, họ muốn trả lại cho nước ta, nhưng…”
Giọng tôi nhỏ dần nhỏ dần, Trịnh Quốc Cừ nghiêng người tới nghe, thân hình hơi chao đảo. Đột nhiên tôi giãy mạnh, húc thẳng vào y, Trịnh Quốc Cừ phản ứng cực nhanh, đẩy ngay tay ra, toan xô tôi xuống đường hầm. Tôi há miệng cắn ngay lấy cổ áo y, hai chân bất giác dùng chiêu chó cỏ ăn phân Hoàng Yên Yên ‘dạy’ ở Thiên Tân, vấp một cái, Trịnh Quốc Cừ tức thì lảo đảo, bị tôi kéo xuống theo.
Hầm này đào thẳng tuột xuống dưới, chỉ hơi chênh chếch, tôi co hai tay chụm chân, chân chụm vào đầu, rơi thẳng xuống đáy. Lưng tôi đập mạnh vào nền đất đau điếng, mắt tóe hoa cà hoa cải, đầu cũng ong lên vì chấn động. Trịnh Quốc Cừ nằm nghiêng bên cạnh bất động, hình như đã ngất lịm.
Đường hầm không sâu lắm, chỉ khoảng bốn năm mét, nhìn lên vẫn thấy được ánh sáng từ cửa hầm. Tôi lần mò một hồi, phát hiện dưới đáy không phải đất mà là gạch xanh, mé bên còn một ngách hẹp chếch xuống dưới, âm u rờn rợn. Có lẽ chúng tôi đang đứng trên nóc mộ. Bọn chúng đào đến đây, xác định được vị trí mộ rồi tụt xuống ngách hẹp kia để tìm lối vào.
Thình lình tôi chạm phải thứ gì cưng cứng lạnh toát, nhặt lên xem thì giật bắn mình nhận ra là nửa cái đầu lâu, nửa hốc mắt đen ngòm hướng thẳng vào tôi. Tôi vội cung kính đặt xuống, chắp tay vái mấy vái, thầm khấn: “Xin lỗi xin lỗi, con sơ ý thôi ạ, không cố tình quấy rầy giấc ngủ của cụ đâu.”
Đúng lúc này phía trên có mấy cái đầu ló vào, rồi một tên hoảng hốt gọi với xuống, “Đại ca ở dưới đấy ạ?”
Tôi đanh giọng quát, “Đại ca chúng mày ngất mẹ nó rồi, đang nằm chết giấc kia kìa. Muốn cứu nó thì phải nghe lời ông. Mau đưa cô gái kia lại đây!”
Trên cửa hầm im lặng giây lát, sau đó vang lên giọng Hoàng Yên Yên, vẫn lạnh như băng, “Còn sống cơ à?”
Thấy cô ta bình yên vô sự, tôi hét vọng lên, “Cô đi trước đi, nếu chúng cản lại thì cứ la lên, tôi sẽ bẻ cổ Trịnh Quốc Cừ ngay!” Câu này nói với Hoàng Yên Yên, đồng thời cũng nói cho đám kia nghe. Tôi tuy không phải quân hung ác, nhưng cũng chẳng phải hạng tử tế gì, thời Cách mạng Văn hóa từng đánh nhau không ít, thủ sẵn gạch trong cặp như cơm bữa.
“Còn anh thì sao?” Hoàng Yên Yên hỏi.
“Cô đi thì tôi chín chết một sống, cô không đi thì chết cả nút.”
Hoàng Yên Yên tính tình quyết đoán, chẳng buồn kèo nài nửa câu, chỉ ném một vật xuống. Tôi bắt lấy xem thử, hóa ra lại là chiếc xuyến đồng nọ. Vừa rồi tôi cứa dây thừng xong nhổ xuống đất, giờ cô ta ném trả.
“Giữ lấy, cố cầm cự.” Hoàng Yên Yên dặn.
Dứt lời cô ta biến mất khỏi miệng hầm. Tôi siết chặt chiếc xuyến trong tay, lòng xốn xang muôn mối. Đúng lúc này phía trên lại nghe tiếng cãi vã ầm ĩ, tôi bèn quát lớn, “Chúng mày còn làm khó cô ấy, tao bóp chết Trịnh Quốc Cừ bây giờ!”
Tiếng náo động phía trên im bặt, lát sau Trịnh Trọng thò đầu vào, vẻ căm tức, “Ả kia cút rồi, mày thả đại ca ra mau.”
Tôi ngẩng đầu la lớn, “Chúng mày thả dây thừng xuống, rồi cút ra xa.”
Trịnh Trọng mặc cả, “Nhỡ mày siết chết đại ca bọn tao thì sao?”
Tôi đanh giọng, “Thằng ngu, ông còn đang ở dưới này, siết chết nó để làm đéo gì?”
Trịnh Trọng vỗ đầu rồi ngoái lại gọi người lấy dây đến. Chẳng mấy chốc, một sợi thừng to đung đưa buông xuống.
Tôi giật giật mấy cái, thấy đầu kia đã được buộc chắc bèn đá đá vào người Trịnh Quốc Cừ, “Đóng kịch đủ rồi đấy.”
Trịnh Quốc Cừ vốn đang ngất lịm thình lình mở bừng mắt, đảo quanh mấy vòng rồi nhe hàm răng vàng khè, “Thằng ôn này gớm nhỉ!”
“Bất đắc dĩ thôi, tôi phải tách Hoàng Yên Yên ra.” Tôi nhắm mắt đáp.
Thực ra từ lúc đến An Dương, tôi đã nghi ngờ Hoàng Yên Yên. Muốn xử lý Trịnh Quốc Cừ thiếu gì biện pháp mềm dẻo, vậy mà cô ta cứ khăng khăng đòi đấu khẩu, lôi cả tước đồng chạm rồng ra, thậm chí đặt cược mạng mình, có phần quá cực đoan. Việc không bình thường ắt có khuất tất, nên tôi rất để tâm chú ý.
Tới khi nghe Trịnh Quốc Cừ nói tước đồng chạm rồng kia là đồ thật, tôi sực nhận ra sự việc không đơn giản chút nào. Nếu là thật, có nghĩa nó là văn vật hàng đầu quốc gia, vậy mà nhà họ Hoàng dám lấy quốc bảo ở bảo tàng tư nhân ra đối phó với Trịnh Quốc Cừ, lại giấu tôi và Dược Bất Nhiên, ắt định mưu đồ gì đó. Huống hồ bọn họ và Trịnh Quốc Cừ đã đối đầu nhau bao năm nay, sao lại đợi tới khi chúng tôi tới An Dương điều tra về đầu Phật mới ra tay? Những điều này chứng tỏ, Trịnh Quốc Cừ ắt có quan hệ mật thiết với đầu Phật hoặc ông nội tôi.
Bởi vậy tôi phải tìm cách tách Hoàng Yên Yên ra, hành động độc lập. Nhưng bấy giờ tôi đang bị trói chặt, chạy không nổi, chỉ có duy nhất một con đường là đánh cược.
Tôi cược rằng Trịnh Quốc Cừ biết đầu đuôi câu chuyện về ‘đầu Phật ngọc’, thậm chí biết cả ông tôi.
Thế nên tôi cố ý nhắc tới đầu Phật ngọc, quả nhiên Trịnh Quốc Cừ hứng thú, bèn kéo tôi đến bên cửa hầm.
Tôi lén thì thầm với y, “Tôi là Hứa Nguyện, cháu nội Hứa Nhất Thành, xuống dưới hầm rồi nói.”
May mà tôi đặt đúng cửa. Trịnh Quốc Cừ không hổ là cao thủ làm giả đấu ngang tay với nhà họ Hoàng, phản ứng cực nhanh. Nghe tôi bộc lộ thân phận, Trịnh Quốc Cừ chỉ hơi ngẩn ra rồi kéo ngay tôi ngã xuống hầm, còn vờ ngất xỉu. Nhờ đó, tôi mới giả bộ bắt giữ y, xua được Hoàng Yên Yên đi mà không gây nghi ngờ.
Tuy làm vậy có phần không phải với Hoàng Yên Yên, nhưng hành động lạ lùng của nhà cô ta khiến tôi buộc phải đề phòng.
“Mày cũng gan đấy, nếu tao không biết chuyện đầu Phật hoặc chưa bao giờ nghe tên Hứa Nhất Thành, hai chúng mày đã bị chôn sống rồi.” Trịnh Quốc Cừ nói.
“Đã đến nước này, tôi đành liều đánh cược thôi.”
Dứt lời tôi khoanh chân ngồi ngay xuống, lưng dán vào vách động, vẻ mặt đanh lại. Trịnh Quốc Cừ săm soi chiếc xuyến đồng trong tay tôi, vừa mỉa vừa đùa, “Tao cứ tưởng mày và con bé họ Hoàng kia là một đôi cơ đấy, té ra lại đồng sàng dị mộng.”
Tôi sầm mặt, “Tay chân của ông toàn bọn vô lại, tôi xua cô ta đi trước cũng là muốn tốt cho cô ta thôi.”
Trịnh Quốc Cừ đột nhiên sấn đến, tóm lấy cổ tôi gằn giọng, “Thằng mất dạy, chưa đến lượt mày vênh váo đâu. Tao phối hợp đóng kịch với mày, chẳng qua là vì mày còn có ích, chứ không phải tao không dám động vào mày nghe chửa.”
Bàn tay y cứng như gọng kìm, bóp tôi nghẹt thở. Tới khi tôi sắp đứt hơi mà chết, Trịnh Quốc Cừ mới buông ra, để tôi phủ phục xuống đất ôm cổ ho sặc sụa, một lúc lâu sau mới hít thở được bình thường. Y ngước lên cửa hầm rồi ngồi xuống đất, “Ả cút rồi, kịch cũng hạ màn rồi, mày thử kể đầu đuôi xem nào? Kể cho rành mạch, đừng để ông cáu đấy, bằng không…”
Y liếc vào đường ngách thông đến hầm mộ, đe dọa, “Tuy là quan quách thời Hán, nhưng bên trong vẫn còn rộng đấy.”
Tôi hiểu, nếu mình quanh co giấu giếm, e rằng chẳng bao giờ lên trên được nữa, nên thành thật kể hết từ thân thế đến hàng loạt sự việc nảy sinh gần đây xung quanh đầu Phật ngọc. Nghe xong, Trịnh Quốc Cừ nheo mắt thích thú hỏi, “Sao mày dám chắc tao đáng tin hơn người họ Hoàng?”
Tôi nhướng mắt, “Vì Trịnh Trọng?”
“Trịnh Trọng ư?”
“Phải, cách giám định đồ đồng của hắn rất giống phương pháp gia truyền nhà tôi. Đây là kỹ thuật bí truyền, vậy mà hắn lại biết, chứng tỏ các người có liên quan tới Bạch môn.”
Trịnh Quốc Cừ phá lên cười ha hả, như vừa nghe thấy chuyện gì vui lắm, rồi thình lình nghiêm mặt, “Mày đoán đúng một điểm, nhưng cũng sai một điểm. Phải, Hứa Nhất Thành có quan hệ với nhà tao, tao cũng biết láng máng chuyện của ông ta. Tấm gương kia cũng ở trong tay tao. Nhưng tao chẳng thích thú gì mấy chuyện cũ rích ấy, nếu mày không đưa ra được cái giá hấp dẫn thì cũng đừng hòng thoát chết.”
“Tôi có thứ này, ông sẽ không từ chối đâu.”
“Gì?”
“Tố đỉnh lục.” Tôi bình thản thốt ra ba chữ.
Cặp mắt lồi của Trịnh Quốc Cừ sáng lên, y siết chặt vai tôi, “Nói vậy là mày đang giữ nó à?” Tôi gật đầu.
Tố đỉnh lục là bí kíp giám định đồ kim thạch uy tín hạng nhất, kết tinh tâm huyết bao đời của Bạch môn, giang hồ đồn rằng, có cuốn sách này trong tay thì chẳng ngại gì đồ kim thạch nữa. Trịnh Quốc Cừ chuyên làm giả đồ đồng, có được cuốn sách này cũng như lính tráng có bản đồ tác chiến, là báu vật hiếm có.
Bởi thế Trịnh Quốc Cừ lập tức chìa tay ra bắt tay tôi, xem như đồng ý.
Kẻ này quả là vừa tham lam vừa tỉnh táo. Nếu thấy lợi ích sờ sờ, y sẽ nắm chặt không buông, song hễ phải mạo hiểm, y lập tức buông bỏ liền. Đến vật quý như tước chạm rồng y cũng bỏ được ngay không mảy may do dự, thật đáng sợ. Vừa bắt tay xong, tôi đã sinh lòng hối hận, chẳng biết mình có điều khiển nổi kẻ nguy hiểm thế này không.
“Trước khi lên, tôi còn một chuyện nữa.” Tôi đột ngột nói.
Trịnh Quốc Cừ nhíu mày, “Hoàng Yên Yên sắp quay lại rồi đấy, không còn nhiều thời gian đâu.”
Tôi nhẹ nhàng bưng đầu lâu dưới đất lên, “Các người trộm mộ đã đành, còn vứt bừa bãi thi thể thế này nữa. Tôi không thấy thì thôi, một khi đã thấy thì phải đưa người ta trở lại áo quan, bằng không có đi cũng chẳng yên lòng.”
“Thích thì mày đi mà làm.” Trịnh Quốc Cừ bĩu môi. Bọn chúng toàn những kẻ vô pháp vô thiên, xưa nay nào biết sợ quỷ thần.
Tôi bưng đầu lâu khom lưng tụt xuống ngách. Đám người Trịnh Quốc Cừ từng vào hầm mộ rồi, nên tôi tìm thấy cửa vào rất nhanh. Cửa mộ mở hé, bên trong tối om, toát lên vẻ tiêu điều suy tàn nghìn năm. Tôi chìa tay ra định sờ vào quan quách, bỗng thấy một bàn tay xương xẩu lạnh ngắt lặng lẽ đặt lên mu bàn tay mình, hơi lạnh tức thì xộc thẳng từ xương cụt lên tận đỉnh đầu.
Tôi cứng đơ người, không dám động đậy, lát sau thấy xung quanh không có động tĩnh gì mới run run sờ thử, phát hiện gác lên tay mình là nửa cẳng tay nối liền với bàn tay. Bọn Trịnh Quốc Cừ đúng là thất đức, lôi cả hài cốt ra quăng vung bỏ vãi, nửa cánh tay này mắc bên ngoài áo quan mở toang, trong lúc tôi quờ quạng vô tình lại áp ngay phải.
Tôi bèn cầm nó lên, đặt vào quan tài cùng đầu lâu, chợt thấy hơi choáng váng, suýt nữa thì đâm đầu ngã luôn vào áo quan. Trong hầm mộ ngột ngạt bí bức, ở lâu dễ chóng mặt. Giữa lúc mơ màng, tôi chợt cảm thấy khung cảnh này quen quen.
Hồi nhỏ, tôi và đám bạn hay chui xuống miệng cống thoát nước bỏ hoang gần nhà chơi, có lần chúng tôi mới tụt xuống nửa chừng thì ngửi thấy mùi hôi thối nồng nặc, vội quẹt diêm lên xem thử, thấy một cái xác thối rữa lù lù ngay đằng trước, cả lũ bèn bỏ chạy tán loạn. Tôi cuống cuồng chạy trong lòng cống, cứ cảm giác cái xác đang đuổi theo ngay sau lưng, kinh hoàng gào lên gọi bố gọi mẹ. Khó khăn lắm mới chạy đến cửa cống thì bố mẹ tôi và mấy cô bác trong khu cũng ập đến, tôi nhào vào lòng người nhà khóc nức nở, bấy giờ mới vững dạ.
Nước mắt bỗng dưng chảy dài, tôi chợt nhận ra mấy năm nay mình cô độc biết chừng nào. Có lẽ tôi truy tìm sự thật về ông nội không phải vì vụ án đầu Phật, mà chỉ muốn biết thêm những chuyện về người thân của mình.
“Ông ơi, bố mẹ ơi.” Tôi đứng trong bóng tối, chống tay lên cỗ áo quan niên đại nghìn năm, lẩm bẩm gọi. Chỉ mong được như lúc nhỏ, chạy ra khỏi chỗ tối sẽ thấy họ đứng đợi đằng kia.
Lau nước mắt bò ra, Trịnh Quốc Cừ đã đợi đến sốt cả ruột. Y và tôi bám dây thừng leo lên, bọn Trịnh Trọng xô tới định tẩn tôi, nhưng bị Trịnh Quốc Cừ ngăn lại. Y chỉ huy đám tay chân xóa sạch dấu vết xung quanh mộ rồi nhảy lên chiếc xe tải nhỏ gần đó đi thẳng.
Thấy chúng khiêng lên xe một chiếc túi, tôi đoán bên trong hẳn là minh khí. Bắt gặp ánh mắt tôi, Trịnh Quốc Cừ bèn ném tước đồng sang, “Tao không thích, mày cầm đi.” Tôi biết y không dám giữ văn vật quốc gia hạng nhất này, nên cầm lấy luôn.
Trên xe tôi hỏi Trịnh Quốc Cừ không sợ Hoàng Yên Yên báo cảnh sát sao? Y nhếch mép khinh khỉnh đáp, “Có hơn ba trăm dân làng làm chứng, lúc ấy tao đang ở trong làng chơi mạt chược.” Y đối đầu với nhà họ Hoàng bấy lâu nay mà vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, quả nhiên có nhiều mánh khóe.
Xe chạy chừng ba bốn mươi phút thì vào làng. Làng này gọi là làng Trịnh, nhìn từ xa như một làng quê bình thường ở vùng Hà Nam, trong làng phần lớn là nhà ngói, con đường trải nhựa quanh co chạy vắt ngang làng, chẳng biết có phải nhờ phúc ông chủ Trịnh làm hàng giả không.
Sau khi vào làng, đám lâu la cũng tản đi, chỉ còn Trịnh Quốc Cừ và Trịnh Trọng dẫn tôi đi vòng vèo mãi mới tới một căn nhà khang trang khuất nẻo, xây sát núi. Căn nhà này khác hẳn những nhà xung quanh, bên trong ngổn ngang vụn sắt và quặng, còn lổng chổng vài nông cụ gãy hỏng, thậm chí có cả nồi hơi gỉ sét. Có thể thấy đây là xưởng làm giả đồ đồng. Mấy công nhân đang cắm cúi làm việc, thấy tôi bước vào thì cảnh giác ra mặt. Trịnh Quốc Cừ vẫy tay ra hiệu, họ mới cúi xuống làm tiếp.
“Khỏi cần nhìn, đây chỉ là xưởng gia công nguyên liệu, đăng ký kinh doanh đàng hoàng, không phải nơi chế tạo thực sự.” Trịnh Quốc Cừ nói.
Chúng tôi vào văn phòng, Trịnh Quốc Cừ ngồi ngay xuống sau bàn làm việc, bưng một ca sứ thời Đường lên uống ừng ực, “Lâu lắm không đổ đấu, tụt xuống lượn một vòng đã thấy họng đầy bụi đất.” Đoạn y đặt ca nước xuống, xòe tay bảo tôi, “Đưa Tố đỉnh lục ra đây.”
“Tôi không đem theo người, vẫn để ở Bắc Kinh.”
“Cho tao địa chỉ, tao sai người đi lấy. Lấy được rồi nói tiếp.”
Tôi lắc đầu. “Cục trưởng Lưu cho người giám sát nhà tôi 24/24, người của ông đi là tự đâm đầu vào lưới.”
Mắt Trịnh Quốc Cừ lạnh hẳn đi, “Thế tao biết thế đéo được mày nói thật hay không?”
Tôi trỏ vào đầu mình, “Tôi thuộc làu Tố đỉnh lục rồi, ở cả trong này.”
Trịnh Quốc Cừ ngẫm nghĩ giây lát rồi hất hàm, Trịnh Trọng liền đặt túi minh khí mới đào được lên bàn. Bên trong tổng cộng có ba món, hai bình gốm, một cái móc đồng chạm đầu rồng đã gãy chuôi, trông có vẻ từ đầu thời Tây Hán.
“Mày là người Bạch môn, hẳn phải nhìn ra lai lịch mấy món này.”
Tôi liếc qua rồi cười. “Thôi đừng nói đến lai lịch nữa đi, dù sao chuyện này ông cũng chẳng được nước non gì.” Trịnh Quốc Cừ bị tôi nói trúng tim đen, hậm hực hừm một tiếng, Trịnh Trọng đứng bên tái mặt.
Loại móc này thường được người xưa dùng để móc dây lưng. Theo lệ, chỉ quý tộc mới được dùng móc kim loại, nên móc đồng tượng trưng cho thân phận địa vị. Trong mộ huyệt của quý tộc có hẳn móc đồng bồi táng, vậy mà chúng chỉ lấy được hai bình gốm, chứng tỏ trước đây ngôi mộ này đã bị trộm vét sạch đồ quý giá rồi.
Tôi đoán ngay cả đường hầm kia cũng có từ trước.
Bọn Trịnh Quốc Cừ đến sau, chỉ lợi dụng đường hầm này tụt xuống kiếm chút xái mà thôi.
Bị tôi vạch trần, Trịnh Quốc Cừ cũng chẳng còn bụng dạ nào gặng hỏi nữa. Y sai Trịnh Trọng lấy một xấp giấy, trên đầu in mấy chữ đỏ rực ‘Xưởng gia công máy móc nông cụ làng Trịnh’, một cây bút máy và một lọ mực, “Mày chép Tố đỉnh lục ra đây.”
“Thứ tôi cần đâu?”
“Viết xong rồi tao đưa cho.”
Tôi đặt ngay bút xuống, “Không được, ông chưa đưa thì một chữ tôi cũng không viết.”
Hai bên giằng co một hồi, có lẽ Trịnh Quốc Cừ cảm thấy tôi cũng chẳng chạy đi đâu được, bèn nhường một bước, sai tôi viết, Trịnh Trọng đứng ngoài cửa canh chừng, rồi tự mình ra ngoài, nói là đi lấy đồ cho tôi.
Chỉ còn một mình trong văn phòng, tôi trải giấy ra, viết nắn nót từng nét. Tuy Tố đỉnh lục là tài liệu quý của Bạch môn, nhưng tôi không định giữ nó cho riêng mình. Kỹ thuật giám định mỗi ngày một tiến bộ, phương pháp làm giả cũng không ngừng cải tiến, dẫu Tố đỉnh lục có chép vài mẹo hay, nhưng sớm muộn gì cũng lỗi thời, lúc này còn câu nệ bí mật gì nữa, lạc hậu quá.
Tôi chỉ lo Trịnh Quốc Cừ học được những điều này sẽ làm ra nhiều hàng giả hơn nữa, đi ngược lại nguyên tắc không làm giả của tôi. Bởi thế tôi không viết hẳn ra, mà chỉ chép lại nội dung đã mã hóa. Nếu tôi không đưa chìa khóa giải mã, Trịnh Quốc Cừ cũng sẽ như nhà họ Hoàng, có mà không đọc được.
Nghĩ đến đây, ngòi bút thình lình khựng lại. Tôi sực nghĩ ra một chuyện: Hoàng môn đánh cắp Tố đỉnh lục có thực là muốn chiếm đoạt bí kíp của Bạch môn không?
Nghe Dược Bất Nhiên kể, từ khi Minh Nhãn Mai Hoa chuyển thành Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, các nhà đều có ý thức hợp tác với các cơ sở nghiên cứu khoa học như đại học hoặc viện nghiên cứu, liên tục phát triển các phương pháp giám định mới - trong đó hai nhà Hoàng, Dược nhiệt tình nhất, bởi kỹ thuật hiện đại vô cùng quan trọng trong việc giám định đồ đồng, đồ ngọc và đồ gốm. Tố đỉnh lục từ thời Dân Quốc, rốt cuộc có ý nghĩa thế nào với nhà họ Hoàng thì cũng khó nói.
Trước mắt tôi chỉ biết tổng cộng có ba cuốn sổ tay bìa da góc bịt bạc, một cuốn chép phương pháp giám định của Bạch môn, một cuốn ở Nhật, nghe nói là ghi chép của chính Kido Yuzo, nội dung chưa rõ; còn cuốn thứ ba, theo lời Phó Quý, đã mất tăm sau khi ông tôi qua đời, chẳng biết viết về cái gì. Theo tôi đoán, hai cuốn sổ kia rất có khả năng ghi lại những việc xảy ra với Kido Yuzo và ông tôi trong khoảng thời gian từ tháng Bảy đến tháng Chín năm 1931.
Cả ba cuốn sổ đều đóng bìa da bò nhám, bốn góc bịt bạc chạm cánh sen, nhìn bề ngoài giống hệt nhau. Lần trước Hoàng môn phái người lẻn vào nhà tôi đánh cắp, e là muốn lấy bản ghi chép những chuyện xảy ra vào năm 1931, nào ngờ tới tay mới biết chỉ là một cuốn Tố đỉnh lục không có mấy tác dụng - bởi vậy họ mới mau mắn trả lại.
Nhưng Hoàng Khắc Vũ vẫn chưa chịu thôi, bèn cử Hoàng Yên Yên đi theo tôi, tiếng là giúp đỡ, thực ra là theo dõi. Tặng xuyến đồng có lẽ cũng là cố ý khiến người ta lầm tưởng ông ta định nhắm tôi làm cháu rể, che giấu tai mắt kẻ khác.
Nghĩ đến đây, tôi lạnh toát cả sống lưng, chẳng biết là mình đa nghi hay Hoàng Khắc Vũ mưu mô xảo quyệt nữa.
Nhà họ Hoàng quan tâm tới sự việc năm xưa như vậy hẳn muốn tìm hiểu hoặc che giấu gì đó. Bất luận thế nào, tôi cũng không thể tiếp tục điều tra dưới mắt họ được, lần này xua Hoàng Yên Yên đi, chính là một cơ hội tốt. Có điều lựa chọn đi theo kẻ nguy hiểm như Trịnh Quốc Cừ chẳng biết là đúng hay sai.
“Trời ạ, rốt cuộc ông đã làm gì chứ…” Tôi ngẩng đầu lẩm bẩm, cảm giác như có thể thấy một tấm lưới lớn đang từ trời chụp xuống.
Lúi húi viết hơn một tiếng thì cửa mở, Trịnh Quốc Cừ cắp một hộp gỗ đi vào.
“Viết được bao nhiêu rồi?” Y hỏi ngay.
“Đồ tôi cần đâu?” Tôi thẳng thừng vặn lại. Với hạng kiêu hùng như Trịnh Quốc Cừ, cúi đầu khom lưng chỉ tổ bị y giẫm đạp, chi bằng lợi dụng ưu thế trong tay để giành lấy lợi ích.
Trịnh Quốc Cừ lắc lắc cái hộp, “Ở trong này. Mày viết xong tao đưa.”
“Tôi phải xem trước đã. Tôi ở đây có chạy được đi đâu đâu, chưa chừng trong hộp của ông có thứ tôi muốn có, tôi cao hứng lên lại nghĩ ra thêm được mấy dòng ấy.” Tôi đặt bút xuống, khoanh tay trước ngực nhìn y. Trịnh Quốc Cừ biết tôi chẳng chạy đi đâu được nên chỉ trừng mắt nhìn lại rồi nhượng bộ. Chiếc hộp y đem đến làm bằng gỗ đàn, bên ngoài vẽ tranh uyên ương giỡn nước, lấy ngón tay đẩy khẽ, nắp hộp sẽ thụt vào, rất tinh xảo.
Trong hộp đặt một mảnh giấy và một đống mảnh vỡ xám nhờ. Vừa thấy đống mảnh vỡ, mặt tôi sa sầm. Trịnh Quốc Cừ đem đống này đến, hẳn nhiên đây là chiếc gương hải thú bồ đào.
“Lúc tao mua từ tay Phó Quý, nó đã thế này rồi.” Y giải thích.
Tôi nhíu mày, rõ ràng lúc trước Phó Quý không hề nhắc đến chuyện này. Trong tấm gương này có thể ẩn chứa manh mối quan trọng, chẳng biết vỡ rồi có còn manh mối nữa không. Tôi thận trọng giơ ngón tay xoa xoa lên mấy mảnh đồng, lần lượt lấy ra xem thử, chợt thấy vài con chữ khắc trên một mảnh vỡ khá to, vội xem sang các mảnh khác, chẳng bao lâu đã tìm thấy ba bốn mảnh khớp nhau, cũng miễn cưỡng nhìn ra được hai chữ thiếu đầu thiếu đuôi.
Đó là hai chữ ‘Bảo Chí’, trong đó chữ ‘bảo’ thiếu phần đầu, còn ‘chí’ thiếu phần dưới.
Bảo Chí nghĩa là sao? Tôi và Trịnh Quốc Cừ đều không hiểu. Ngoài hai chữ này ra, đống mảnh vỡ chẳng còn gì đáng chú ý nữa.
“Sau lưng tấm gương này, ngoài hình hải thú và chùm nho, còn có một hình nút thắt, là ấn ký của hoàng thất Đại Đường. Chắc đây cũng là vật dùng trong cung.” Trịnh Quốc Cừ gợi ý.
Tôi nhặt mấy mảnh gương vỡ lên ngắm nghía, chợt nhớ đến một chuyện, “Hình như ông cũng chẳng thiết tha gì cái gương, sao hồi xưa lại mua?”
Trịnh Quốc Cừ đảo mắt, “Mày xem tờ giấy kia thì biết.”
Bấy giờ tôi mới nhớ trong hộp còn một tờ giấy. Mảnh giấy ố vàng, hẳn đã khá cũ. Tôi cầm lên khẽ khàng mở xem, ra là một bản hợp đồng từ thời Dân Quốc. Nét chữ trên giấy như rồng bay phượng múa, đại khái viết rằng, thương gia đồ cổ Hứa Nhất Thành thuê Trịnh Hổ tham gia đội khảo cổ. Thời gian thuê từ tháng Sáu đến tháng Bảy năm Dân Quốc thứ mười chín, lạc khoản đề tên Hứa Nhất Thành kèm hai dấu điểm chỉ đỏ chót.
“Trịnh Hổ là bác Cả tao.” Trịnh Quốc Cừ giải thích.
Tôi nhìn thời gian ghi trên hợp đồng, năm Dân Quốc thứ mười chín chính là năm 1931. Tháng Bảy năm ấy, Hứa Nhất Thành và Kido Yuzo rời đội khảo cổ của Lý Tế, đi đến đâu không rõ. Theo bản hợp đồng này thì họ không chỉ có hai người, mà ít nhất còn một người thứ ba là Trịnh Hổ, bác Cả của Trịnh Quốc Cừ.
Tuy thế, tôi vẫn thấy lấn cấn. Nhà họ Trịnh đời đời làm giả đồ đồng, có thể coi là đối thủ của nhà tôi. Ông nội tôi đi làm nhiệm vụ bí mật lại không chọn người trong năm phái, mà chọn người phía đối thủ? Chỉ có một khả năng duy nhất là: ông tôi định giấu giếm năm phái. Ông không tiết lộ với người trong hội, nhưng lại dẫn theo một kẻ thù và một người Nhật Bản, đúng là quái lạ.
Tôi đặt bản hợp đồng xuống, “Bác Cả ông… vẫn khỏe chứ?”
Trịnh Quốc Cừ nhún vai, “Sau giải phóng bị xếp vào hạng cường hào ác bá, chết trong tù rồi.”
“Vậy… lúc sinh thời ông ấy có kể ông nội tôi thuê ông ấy đi đâu làm gì không?”
Trịnh Quốc Cừ lắc đầu. “Bác tao chẳng kể cặn kẽ bao giờ, nhưng chắc đã đến huyện Kỳ Sơn một tháng rồi quay về An Dương. Có lần ông ấy uống say, ba hoa rằng đến Hứa Nhất Thành còn phải nhờ cậy mình - bác Cả tao là thợ đúc đồng giỏi nhất thế hệ ông ấy, đồ xanh đúc ra đến Minh Nhãn Mai Hoa cũng chẳng lần ra sơ hở.”
“Ông ấy đúc cái gì?”
“Hình như là tượng Quan Công.” Trịnh Quốc Cừ cũng lấy làm lạ.
Tôi xoa cằm trầm tư. Lẽ nào ông nội tôi nhờ ông ta làm đồ giả để lừa người? Nhưng điều này đi ngược lại quy định năm phái, cũng không hợp với nguyên tắc xử thế của người họ Hứa. Tôi lại nhặt mấy mảnh gương vỡ lên, vớt vát nốt câu cuối, “Sao ông lại mua tấm gương này từ Phó Quý? Bác Cả ông quen Phó Quý à?”
Trịnh Quốc Cừ cười nham hiểm, “Ha ha, nào chỉ quen. Lúc Hứa Nhất Thành xảy ra chuyện, bác Cả tao cũng bị gọi đi thẩm vấn, chính Phó Quý hỏi cung, nhưng vì không đủ chứng cứ nên được tha. Sau giải phóng, có người lại khui ra chuyện này, khiến ông ấy bị bắt giam, mày biết là kẻ nào không?”
“Ai?”
“Ha ha, Hoàng Khắc Vũ chứ ai.”
Nghe cái tên này, tôi thầm rúng động. Thực không ngờ nhà họ Trịnh lại dây dưa mắc míu với cả Hoàng Khắc Vũ và Phó Quý, hơn nữa còn có thù lớn với nhà họ Hoàng.
Tôi đoán Trịnh Hổ biết được đôi ba chuyện của ông tôi nên mới mua lại tấm gương kia từ tay Phó Quý hòng tìm manh mối. Nào ngờ Hoàng Khắc Vũ chọc gậy bánh xe, giở trò hại Trịnh Hổ hòng phỗng tay trên tấm gương. Nhưng suy đoán của tôi lập tức bị Trịnh Quốc Cừ phủ định, “Hai năm trước tao mới mua nó về đấy, có người mách rằng có ích nên mua.”
“Ai cơ?”
“Không biết nữa. Khách quen của tao, nhưng chỉ liên lạc qua điện thoại, tao chưa gặp bao giờ, rất chi hào phóng.”
Tôi toan hỏi thêm thì y đã bực dọc ngắt lời, “Hỏi đếch gì lắm thế, sách của tao đâu? Viết xong chưa?”
Trịnh Quốc Cừ sải bước đi đến, cầm xấp giấy lên xem, tức thì nổi giận đùng đùng, “Mẹ kiếp, mày viết cái đéo gì đây?”
Y giận cũng phải, bởi tôi viết ra Tố đỉnh lục đã được mã hóa để phòng vạn nhất. Tôi bèn khai ra chuyện mã hóa rồi nói khi nào mình bình yên vô sự ra khỏi làng sẽ cho biết chìa khóa giải mã. Trịnh Quốc Cừ trừng mắt như muốn băm vằm tôi thành trăm mảnh, nhưng cuối cùng đành hạ nắm đấm xuống, trầm giọng bảo: “Viết tiếp đi!”
Đương giằng co thì Trịnh Trọng hớt hải đẩy cửa lao vào, “Gay rồi! Con nhãi họ Hoàng kia dẫn cảnh sát đến!”
“Nhanh thế!”
Mới ba bốn tiếng đồng hồ, Hoàng Yên Yên đã dẫn người tới rồi. Với tính cẩn thận và thế lực hùng hậu của cô nàng, hẳn đã phong tỏa hết lối ra khỏi làng, Trịnh Quốc Cừ cười nhạt trỏ tôi, “Bảy, mày đem thằng này xuống hầm, trời tối hẵng quay về.”
Dứt lời y gom các thứ cất lại vào hộp gỗ đàn, cầm khư khư trong tay. Tôi cũng chẳng để tâm, bởi tôi cần manh mối chứ không cần đồ vật.
Trịnh Trọng lôi xềnh xệch tôi đi, nhưng tôi giật tay ra, “Đừng làm như bắt phạm nhân thế, tôi có chạy mất đâu.” Trịnh Quốc Cừ đằng hắng, Trịnh Trọng đành buông ra, vượt lên trước dẫn đường, hai chúng tôi lập tức rời phòng.
Từ xa tôi đã nghe tiếng còi xe cảnh sát, hình như không chỉ có một chiếc. Dân làng Trịnh hung hãn, lại buôn hàng giả nhiều năm, đã quen với cảnh này, kinh nghiệm luồn lách cũng rất phong phú. Thấy cảnh sát ập đến, người làng vẫn dửng dưng như không, việc ai nấy làm, đến chó còn chẳng buồn sủa nhiều. Tôi theo sau Trịnh Trọng vòng vèo rẽ trái quặt phải liên tục trên con đường mòn dích dắc như mê cung, ban đầu tôi còn định ghi nhớ đường đi nhưng về sau loạn hết phương hướng, đành buông xuôi. Trịnh Trọng dẫn tôi luồn lách tránh được vòng vây ráp của cảnh sát, lẻn ra khỏi làng theo hướng khác, chạy vào khe núi gần đó.
Khe núi này cực kỳ heo hút, nhìn từ bên ngoài chỉ thấy triền dốc xanh rợp bóng hòe, chẳng thấy nhà cửa gì sất. Băng qua rừng hòe trèo lên sườn dốc cao, tầm nhìn lại thay đổi hẳn. Từ đỉnh dốc hướng vào trong, dưới tán hòe che phủ, cả triền dốc lõm hẳn vào thành một lòng chảo nhỏ, hệt miệng núi lửa.
Dưới đáy ‘miệng núi lửa’ là một khoảnh đất bằng, bên trên dựng mấy ngôi lán đơn sơ. Trước lán có ba bốn miệng hầm rộng chừng hai mét vuông, đậy bằng ván gỗ.
Cạnh miệng hầm ngổn ngang đủ loại đồ đồng, có tước có liễn, có bình có khay, thậm chí còn có hai ngọn giáo dài và một chiếc đỉnh nhỏ. Những thứ này đều chung một đặc điểm: bề mặt bóng loáng, thoạt nhìn đã biết là mới ra lò, khác hẳn đồ đồng hoen gỉ xịn.
Trịnh Trọng dẫn tôi đến một ngôi lán, trỏ chiếc giường xếp bên trong, “Ở đây đợi đi.” Tôi để ý thấy đất trong hầm có màu khác hẳn xung quanh, nâu sẫm, còn bốc mùi chua chua, liền hỏi, “Đây là… nơi các người ủ gỉ đúng không?”
“Hừm, đại ca coi trọng mày lắm đấy, người làng chẳng mấy ai biết chỗ này đâu.” Trịnh Trọng kéo băng ghế ngồi xuống cạnh tôi, giọng tức tối. Hắn không phủ nhận, rõ ràng đã ngầm khẳng định.
Tim tôi đập thình thịch, thầm than trong bụng.
Quy trình làm giả đồ đồng có một khâu quan trọng nhất là ‘ủ gỉ’. Chôn đồ đồng mới đúc xuống hố đất hun nóng, đổ giấm vào rồi lèn thêm đất cho chặt, mấy hôm sau là ủ được lớp gỉ đồng giống hệt đồ cổ. Thêm vài hóa chất khác nhau vào, kiểu gỉ sẽ khác nhau. Trịnh Quốc Cừ nhòm ngó Tố đỉnh lục của tôi, một phần là muốn biết có còn cách ủ gỉ nào độc đáo không.
Nhưng đồng thời, ủ gỉ cũng là chứng cứ quan trọng để cảnh sát khẳng định việc làm giả văn vật. Không có khâu này thì đúc đồng chẳng có gì phạm pháp, song một khi bị phát hiện ủ gỉ, sẽ bị cho là cố ý làm giả. Bởi vậy những kẻ làm hàng giả đều giấu kín nơi ủ gỉ, không dễ gì lộ ra. Vậy mà Trịnh Quốc Cừ lại sai người giấu tôi vào chỗ bí mật này, có thể là hết sức yên tâm về tôi, cũng có thể không định để tôi đi nữa.
Kẻ này hành sự quả là tàn độc, không biết chùn tay.
Tôi ngả người nằm xuống giường, lim dim mắt gà gật. Trịnh Trọng phải trông coi, không dám ngủ, thấy tôi nhàn nhã thì tức ói máu, nhấp nhổm trên ghế bực bội ra mặt.
“Ách xì!”
Tôi hắt hơi một cái rồi quẹt mũi, “Sao lạnh thế nhỉ?”
“Nhảm nhí!” Trịnh Trọng bĩu môi, giờ chắc khoảng hơn một giờ chiều, tuy tán hòe đã che khuất gần như cả bầu trời, nhưng nắng vẫn rọi xuống tràn trề, ấm sực cả người.
“Thật mà, không phải thời tiết lạnh đâu, mà là lạnh rờn rợn ấy.” Tôi ôm cánh tay, trở mình lẩm bẩm, “Lẽ nào ngôi mộ kia…”
Trịnh Trọng vừa nghe đến chữ ‘mộ’ đã dỏng tai lên, “Mày bảo sao?” Tôi xua tay lia lịa, tỏ ý không nói gì cả, nhưng hắn càng nghi ngờ hơn. Hôm nay hắn đổ đấu công cốc đã đủ bực lắm rồi, vô cùng nhạy cảm với một vài chữ.
Bị căn vặn mãi, tôi ngán ngẩm hỏi, “Hôm nay ông anh có xuống mộ không đấy?”
Trịnh Trọng đáp, “Xuống chứ, chính tao mở cửa mộ chứ ai.”
Tôi ồ lên, hỏi tiếp, “Vậy có động vào đồ đạc gì trong ấy không?”
“Trong đó có đếch gì đâu, đào nửa ngày mới được mấy thứ đồng nát.” Trịnh Trọng hậm hực đáp.
Tôi lắc đầu. “Không đúng, nhất định anh đã động vào thứ gì khác.”
Trịnh Trọng cuống lên, nói tổng cộng chỉ đào được ba món, không có gì nữa cả. Tôi bèn hỏi, anh có động chạm đến thi thể không? Trịnh Trọng nhổ toẹt một cái, chột dạ đổi tư thế, nói chẳng qua là mấy khúc xương, làm gì mà căng.
Tôi lắc đầu. “Muộn quá rồi.” Trịnh Trọng trợn tròn mắt, hỏi tôi cái gì muộn. Tôi nhìn hắn đầy ẩn ý, gối lên hai cánh tay, bắt tréo chân nằm trên giường, “Để tôi kể ông anh nghe một chuyện.
“Tôi có thằng bạn chuyên đổ đấu, hắn kể trước kia có một nhóm trộm quật mộ quý tộc nước Sở thời Xuân Thu. Kẻ xông vào hầm mộ đầu tiên sơ ý hủy hoại thi hài trong áo quan, quẳng đầu lâu xuống đất, ôm minh khí khấp khởi trở ra, nào ngờ chỉ còn cách lối ra chừng một mét thì không sao leo lên được nữa. Thấy trời sắp sáng, đồng bọn của hắn sốt hết cả ruột bèn soi đèn pin xuống xem sao thì thấy trên lưng hắn chẳng biết từ lúc nào đã có thêm một cô gái tóc dài, mặt trắng bệch, cả tấm lưng gồ lên, mắc kẹt trong đường hầm. Đường hầm hẹp quá, hắn không quay người được, đành lấy từng món minh khí ra ném xuống, ném đi một món thì lưng cô gái kia xẹp xuống một phần. Ném hết minh khí, lưng cô ta mới thẳng thớm như người thường, áp chặt vào lưng kẻ kia. Hắn sợ đến hồn phi phách tán, luống cuống bò lên, ai dè cô ta lại ghé tai thì thầm một câu.”
“Nói gì cơ?” Trịnh Trọng nghe đến mê mẩn.
“Trả hết minh khí rồi, giờ tính sổ sang vụ thi thể ta.”
Trịnh Trọng mặt mày xám ngoét, đứng ngồi không yên, thậm chí còn ngoái lại nhìn sau lưng.
“Lạnh à?”
Trịnh Trọng bất đắc dĩ gật gật đầu.
“Để tôi giải thích ông anh vì sao lại lạnh. Hễ xuống mộ ắt sẽ dính phải những thứ bẩn thỉu, lỡ chọc giận chủ mộ thì càng gay go hơn, giống như tên trộm mộ kia vậy. May mà từ trước đã có đường hầm đào sẵn, nên không nguy hiểm mấy, hiềm một nỗi là…”
“Là cái gì?” Trịnh Trọng cuống quýt hỏi.
“Chính là chỗ chúng ta đang ở.” Tôi trỏ lên đỉnh đầu, “Hòe là giống cây âm, có thể tích tụ âm khí, tạo ra âm trạch. Sườn núi này trồng đầy hòe, có thể nói mỗi gốc cây là một cỗ áo quan. Trên người hai ta có âm khí, lại bị nghìn cỗ quan tài vây quanh, nơi này còn một cái hố lớn, ông anh bảo là điềm gì?”
Phàm người chơi đồ cổ, đều hơi mê tín - đám đổ đấu trộm mộ càng mê tín hơn, gan to đến đâu thì trong tiềm thức vẫn hơi chờn chợn. Trịnh Trọng là chủ tiệm đồ cổ lớn, cũng không tránh khỏi trở ngại tâm lý ấy. Bị tôi liên tục dọa dẫm, mặt hắn tức thì trắng bệch.
Đúng lúc này một cơn gió nổi lên, rừng hòe xạc xào lay động. Tôi nửa cố tình nửa vô ý liếc hố chôn đồ đồng cạnh lán, lẩm bẩm, “Chẳng biết cái hố này to chừng nào, có vừa hai cỗ áo quan không.”
Trịnh Trọng bật dậy khỏi ghế, quát vào mặt tôi, “Đừng có dọa bố mày!”
Tôi chậm rãi quay mặt đi, nhưng lại hướng mắt ra sau lưng hắn, thong thả nói, “Mấy tấm gỗ đậy miệng hố kia cũng là gỗ hòe đúng không?”
Mặt Trịnh Trọng tái ngắt. Mấy hố ủ gỉ kiểu này bình thường không dùng đến đều lấy ván gỗ đậy lại, phòng nước mưa hoặc bụi bặm rơi xuống, khiến hóa chất bên trong tạo ra phản ứng. Hố dùng càng lâu, chất hóa học tích tụ trong lòng đất càng nhiều, hiệu quả ủ gỉ càng cao. Thế nên đám làm giả đồ đồng có câu ‘Hố cũ như gừng già’.
Nơi này xung quanh trồng toàn hòe, tôi đoán ván gỗ đậy miệng hố cũng lấy luôn tại chỗ. Gỗ hòe thường dùng đóng quan tài, hố đào lại rộng, trên gỗ dưới đất, lại thêm hồi sáng vừa trộm mộ, rất dễ khiến người ta liên tưởng bậy bạ. Tôi càng đẩy mạnh ám thị tâm lý, Trịnh Trọng càng hoảng sợ. Hắn đi lòng vòng trong lán, thấy càng sốt ruột tợn, liên tục khạc nhổ rồi giậm chân đi thẳng đến cái hố to nhất, cúi xuống nhấc ván gỗ đậy lên.
“Tốt nhất là ông anh đừng mở ra.” Tôi lạnh lùng nhắc.
“Ông sợ đếch gì mấy thứ ma mãnh ấy!” Trịnh Trọng gầm lớn, nghiến răng dùng hai tay nhấc tấm gỗ lên, thò đầu xuống xem thử. Kể thì lâu mà xảy ra thì chóng, tôi tóm ngay lấy cơ hội, nhảy ra sau lưng hắn đẩy mạnh. Trịnh Trọng không kịp đề phòng, ngã bịch xuống lòng hố.
“Thằng chó mày làm đéo gì thế?!” Trịnh Trọng kinh hãi quát lớn.
Hố này dùng để ủ gỉ cho đồ đồng cỡ vừa và cỡ đại, nên đào rất sâu, phải gần hai mét. Trịnh Trọng hơi thấp, vươn cả hai tay mới miễn cưỡng chạm đến miệng hố, không vận lực bám vào được. Lòng hố không có chỗ kê chân, vách trong cũng không có chỗ bám để leo lên. Nếu không có người giúp, hắn còn xơi mới lên nổi.
Tôi nhìn từ trên xuống, không nói một lời. Nhận ra đã mắc bẫy tôi, thoạt tiên Trịnh Trọng chửi um lên, nhưng quanh đi quẩn lại cũng chỉ có một câu, “Đại ca không tha cho mày đâu.” Tôi chẳng buồn đáp, lẳng lặng bưng tấm gỗ đậy miệng hố lại rồi chặn hơn mười món đồ đồng chưa gia công xong lên trên, sợ không đủ còn khiêng luôn cả chiếc giường xếp ra chặn. Thế này trừ phi trong làng có người đến cứu, bằng không hắn đừng hòng bò lên được.
Xong xuôi đâu đấy, tôi phủi tay, phân biệt phương hướng rồi ôm tước đồng chạm rồng đi thẳng.
Bất luận là Hoàng Yên Yên hay Trịnh Quốc Cừ, tôi đều không muốn dính líu quá sâu. Giờ đã thu được manh mối quan trọng từ Trịnh Quốc Cừ, tôi phải thừa cơ rời làng, tự mình hành động mới được.
Tôi không thông thuộc địa hình ở đây, lại phải tránh người của Trịnh Quốc Cừ, né cảnh sát và Hoàng Yên Yên nên không dám đi trên đường, đành lội ngang qua ruộng, mấy lần đi nhầm vào vườn cây ăn quả nhà người ta, suýt bị chó cắn.
Dù sao hôm nay lịch vạn sự cũng nói là lợi cho xuất hành, cảnh sát và Trịnh Quốc Cừ còn mãi chôn chân một chỗ giằng co với nhau. Tôi mò mẫm chạy, trước khi trời tối cũng đến được một ngôi làng nhỏ không biết tên. Hỏi han một hồi mới hay nơi này nằm về phía Tây Bắc làng Trịnh, cách chừng mười mấy dặm, cách An Dương hơn bốn mươi cây số.
Chắc giờ Trịnh Quốc Cừ đã tìm ra Trịnh Trọng dưới hố, nên tôi không dám nán lại lâu, thôn làng vùng này thường liên hệ chặt chẽ với nhau, lỡ như chị nào thím nào loe xoe lại đến tai Trịnh Quốc Cừ. Tôi tìm một bác già, hứa cho mười tệ, đi nhờ xe kéo lộc cộc quay về An Dương.
Sau khi đến An Dương, tôi biếu ông ta mười tệ, trên người chỉ còn sót vài đồng lẻ và một chiếc tước đồng chạm rồng không mua bán đổi chác được, lại không thể quay về quán trọ. Tôi tìm một bốt điện thoại công cộng, gọi cho Dược Bất Nhiên. Từ lúc tôi xảy ra chuyện tới giờ, gã vẫn cầm di động.
“A lô?” Giọng Dược Bất Nhiên đầy bực bội, hẳn là đang sốt ruột.
“Bất Nhiên, tôi đây.”
“Tiên sư! Nguyện à, ông…” Đầu kia hét toáng lên.
Tôi vội cắt lời, “Suỵt suỵt, be bé cái mồm chứ, người ta nghe thấy bây giờ.”
“Yên Yên tìm ông phát điên lên rồi đấy!” Dược Bất Nhiên oang oang.
Tôi thoáng im lặng. “Cô ta đang ở cạnh ông à?”
“Không, vẫn ở trong làng giằng co với Trịnh Quốc Cừ.” Dược Bất Nhiên tằng tằng như bắn liên thanh, kể sơ mọi chuyện. Sau khi Hoàng Yên Yên chạy thoát đã đến đồn cảnh sát gần nhất, rồi gọi điện cho Dược Bất Nhiên đang lo cuống lên ở An Dương. An Dương cử mười mấy xe cảnh sát, theo Hoàng Yên Yên đến thẳng cổ mộ, không thấy bóng dáng tôi và Trịnh Quốc Cừ, họ lại kéo đến làng Trịnh. Trịnh Quốc Cừ lôi ra cả đống nhân chứng vật chứng chứng minh mình không hề rời khỏi làng, phía cảnh sát định thôi không điều tra nữa, nhưng Hoàng Yên Yên khăng khăng không chịu đi, đôi bên giằng co đến giờ.
Dược Bất Nhiên nói, “Ông mau liên lạc với Yên Yên đi, tôi chưa bao giờ thấy cô ta cuống như thế cả.”
Tôi thầm thở dài, tuy tự vấn chẳng có lỗi gì với nhà họ Hoàng, nhưng vẫn hơi áy náy với Yên Yên.
“Nghe này, nếu coi tôi là anh em thì đừng tiết lộ chuyện của tôi với bất kỳ ai, kể cả Yên Yên lẫn ông cụ nhà ông.”
“Hả? Thế là sao?” Dược Bất Nhiên ngơ ngác.
“Tôi phải một mình đi tới chỗ này, ông đừng hỏi là đến đâu, tóm lại một thời gian nữa sẽ về.”
“Ông hay nhỉ? Chuyện thế mà cũng giấu tôi!”
“Gấp lắm rồi, tôi không có thời gian giải thích nhiều với ông, tóm lại ông tin tôi lần này đi, tôi không lấy danh dự ông nội tôi ra đùa đâu.”
Thấy tôi có vẻ nghiêm túc, Dược Bất Nhiên tiu nghỉu nhận lời, “Được rồi, tôi tin ông lần này vậy. Còn gì muốn tôi làm không?”
“Nhờ ông hai việc. Một là chuẩn bị ít tiền tới nhà ga đợi tôi; hai là giúp tôi để ý nhà họ Hoàng, tôi sẽ định kỳ liên lạc với ông, có động tĩnh gì thì báo cho tôi.”
“Nhà họ Hoàng á? Ý ông là Yên Yên có vấn đề à?” Dược Bất Nhiên thở gấp.
“Giờ chưa tiện nói, tóm lại ông cứ làm thế đi.”
“À phải, ông định giấu luôn cục trưởng Lưu hả?”
Tôi trầm ngâm một thoáng rồi đáp, “Ừ, đừng nói với bên đó.” Cục trưởng Lưu lúc nào cũng ra bộ bí hiểm, tôi không sao lường nổi nên chưa muốn kinh động ông ta; Phương Chấn là cảnh sát hình sự lõi đời, vai vế lại cao, nếu lộ cho họ biết, e rằng cục trưởng Lưu chỉ cần gọi một cú điện thoại đã lôi được tôi về rồi.
Giờ đành để Trịnh Quốc Cừ gánh tiếng oan, che mưa chắn gió cho tôi vậy.
Ngay tối hôm ấy, tôi đến ga An Dương, từ xa đã thấy Dược Bất Nhiên mặc áo đỏ chóe, tay cầm phong bì trắng đứng ngoài hành lang. Tôi dựng cổ áo lên, kéo sụp mũ xuống - mua vé tàu xong, tôi dùng chút tiền còm cuối cùng mua mũ - quan sát kỹ xung quanh, thấy không có cảnh sát mai phục mới từ từ đi đến.
Chẳng mấy chốc đã thấy tàu xình xịch vào ga, đây là chuyến đi Từ Châu, chỉ dừng lại vỏn vẹn hai phút. Tôi lặng lẽ đến sau lưng Dược Bất Nhiên, vỗ nhẹ vào vai gã. Ngoái lại thấy tôi, Dược Bất Nhiên ngây ra. Tôi mau mắn cầm lấy phong bì, nhảy lên tàu, ngay trước khi nhân viên nhà tàu hối hả sập cửa lại sau lưng.
Tôi vẫy tay với Dược Bất Nhiên qua cửa sổ, gã nói gì đó nhưng tôi không nghe được. Tàu rời ga An Dương, tôi nắn nắn phong bì thấy một tập dày cộp, hẳn bên trong có không ít tiền. Về mặt này, Dược Bất Nhiên rất đáng tin cậy.
Tàu này là tàu chậm, hễ tới ga lại dừng. Tôi cũng không ngồi lâu, đến ga Thang Âm kế tiếp thì xuống tàu, đổi sang xe khách đường dài đi Tân Hương. Như vậy dù Dược Bất Nhiên có lỡ lời tiết lộ, họ cũng không đoán được tôi đi đâu.
Từ Tân Hương tôi đổi xe đến Trịnh Châu rồi mua vé đáp xe đến Tây An ngay trong đêm. Tôi từng đến Tây An một lần hồi nhỏ, đi cùng bố mẹ, bấy giờ người ta còn chưa tìm ra tượng binh mã bằng đất nung. Lần ấy bố mẹ tôi dẫn học sinh đi khảo sát, tôi ở nhà không có ai trông nên được dắt theo luôn. Tôi chạy từ bảo tàng này sang bảo tàng kia, chẳng nhớ xem được những gì, chỉ nhớ mẹ cho ăn một bát miến thịt dê, ngon vô cùng. Tôi còn nắm tay mẹ đi thăm Càn lăng, tháp Đại Nhạn, hồ Hoa Thanh, lại được các anh chị học sinh của bố người bế kẻ đỡ, leo đến lưng chừng núi Hoa. Đó là một trong những kỷ niệm vui vẻ hiếm hoi của tôi.
Đợi đã.
Kỷ niệm của tôi về Tây An, không có bóng dáng bố. Tôi thao thức nằm trên giường, vắt óc nghĩ mãi mà không nhớ ông đã đi đâu. Tây An trong trí nhớ tôi chỉ có chơi bời cùng mẹ và đám học sinh kia, còn bố hình như chỉ lúc đến và đi mới thấy mặt.
Rốt cuộc ông đã đi đâu?
Một suy nghĩ đáng sợ lóe lên trong đầu tôi: Lẽ nào… ông đến Kỳ Sơn?
Kỳ Sơn là một địa điểm quan trọng trong câu chuyện bí ẩn về ông nội tôi.
Theo lời Trịnh Quốc Cừ, huyện Kỳ Sơn chính là điểm khởi đầu của cuộc thám hiểm năm ấy. Hơn nữa một tháng trước khi ông tôi và Kido Yuzo lên đường, Trịnh Hổ đã đến đây đúc một món đồ đồng có liên quan đến Quan Công cho Hứa Nhất Thành. Tôi không rõ Trịnh Hổ từng chạm mặt Kido Yuzo hay chưa, có điều món đồ ông ta đúc nhất định liên quan tới việc ông tôi và Kido Yuzo mất tích.
Hơn nữa tôi còn nắm trong tay một thông tin chưa ai biết. Đó là, trong lời tựa của Tố đỉnh lục có ghi cuốn sách này do một chuyên gia thuộc phòng In sách, Học viện Vị Kinh làm ra. Học viện Vị Kinh là một trong năm học viện lớn ở Thiểm Tây cuối thời Thanh đầu Dân Quốc, nằm ở Kính Dương, phòng In sách trực thuộc học viện, chính là đơn vị xuất bản thời kỳ đầu ở Thiểm Tây, đã in ấn rất nhiều sách vở truyền bá tư tưởng mới.
Tôi tra cứu tài liệu liên quan, được biết học viện Vị Kinh từ năm Quang Tự thứ hai mươi tám đã sát nhập vào học đường Hoằng Đạo, phòng In sách cũng bị dẹp bỏ. Một bộ phận trong đó chuyển đổi thành doanh nghiệp tư nhân, dưới thời Dân Quốc tiếp tục theo nghiệp in ấn, vẫn giữ tên Vị Kinh - cơ sở đặt ngay ở Kỳ Sơn.
Hai tin này nếu tách riêng ra thì chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng gộp chung lại sẽ thấy chúng có điểm chung là Kỳ Sơn. Họ xuất phát ở đây, Tố đỉnh lục cũng được tạo ra ở đây. Tôi cảm giác muốn khám phá bí ẩn năm xưa, nhất định phải đến Kỳ Sơn, đây cũng là lý do tôi muốn một mình hành động.
Tây An cách Kỳ Sơn không xa. Chưa chừng trước đây bố tôi đến Tây An thực ra cũng là để tới Kỳ Sơn xử lý chuyện gì đó. Tuy ông không bao giờ kể chuyện về gia tộc, nhưng tôi cảm giác những chuyện ấy vẫn canh cánh trong lòng ông khôn nguôi. Lời trăng trối “hối người, hối việc, hối lỗi, hối lòng” ắt có liên quan tới chuyện này.
Tôi tìm được một học sinh cũ của bố ở Tây An, cũng là một trong những người đến Tây An khảo sát trước đây. Anh ta kể với tôi, trong thời gian khảo sát, đúng là thầy Bình đã tách đoàn khoảng ba ngày, nói là tới Sở Di vật văn hóa huyện gặp bạn cũ, nhưng không rõ là đi đâu. Tôi lại hỏi, chuyên ngành của bố tôi không phải khảo cổ thực địa, sao tự nhiên lại đến Tây An khảo sát? Anh ta không giải thích được, chỉ nói chuyến khảo sát đó khá đột xuất, hình như là thầy Bình đề nghị, chi phí cũng tự lo, không lấy tiền của trường.
Nghe có vẻ từ đầu bố tôi đã định đến Kỳ Sơn, khảo sát Tây An chỉ là cái cớ mà thôi.
Trước khi tạm biệt, người kia còn ân cần hỏi thăm chuyện minh oan cho bố mẹ tôi, luôn miệng than rằng thầy Bình là giáo viên khiêm tốn hiền hòa nhất mà anh ta từng gặp, vậy mà lại bị hành hạ chết đi sống lại trong Cách mạng Văn hóa.
“Việc thầy Bình bị đấu tố cũng hết sức bất ngờ, chỉ trong một đêm tự dưng có báo chữ to đấu tố, lạc khoản là đội phê đấu tư tưởng Mao Trạch Đông. Bấy giờ lòng người kích động, chẳng ai chịu ngẫm kỹ. Về sau anh hỏi khắp lượt, chẳng ai nhận là mình dán cả. Tới lúc soát nhà, cũng chẳng ai biết kẻ nào đầu têu. Bởi tất cả học trò thầy Bình đều biết, thầy không giấu riêng cái gì cho mình cả.” Anh ta kể.
Tôi gật đầu, những chuyện đó tôi đều đã điều tra, nhưng chẳng có kết quả gì, đành đổ cho thời thế hỗn loạn khi ấy.
Lòng đầy nghi vấn, tôi đi từ Tây An theo hướng Tây đến Bửu Kê, sau đó lại ngoặt về mé Tây, bắt xe khách đến huyện Kỳ Sơn. Ở đây, tôi không chỉ muốn tìm kiếm dấu vết của ông nội, mà còn muốn tìm cả dấu vết của bố, nhất thời bỗng thấy trọng trách trên vai trĩu nặng.
Kỳ Sơn nằm gần núi, ngọn gió đổi mới vẫn chưa thổi đến nên vẫn giữ được cảnh sắc cổ xưa, thị trấn không có nhiều nhà cao tầng, trên phố chủ yếu là xe ngựa và xe đạp, rất ít ô tô, xa xa thấp thoáng dãy Tần Lĩnh nguy nga hùng vĩ. Giản dị là vậy nhưng nơi này được gọi là quê hương của đồ đồng, những bảo vật quốc gia như đỉnh Đại Vu, đỉnh Mao Công đều bắt nguồn từ đây, bề dày văn hóa có thể sánh ngang Hà Nam. Năm xưa Bạch môn nắm mảng kim thạch, ắt hẳn Kỳ Sơn là một trong các cứ điểm, ông nội và bố tôi tìm đến đây cũng không có gì lạ.
Chỉ có điều tôi nghĩ mãi không ra, đồ đồng bản địa cũng thuộc hàng cao cấp, tại sao ông tôi phải vời Trịnh Hổ từ tận Hà Nam tới đây đúc tượng Quan Công gì đó?
Tôi tìm một quán trọ trong thị trấn, ăn một bát mì thịt Kỳ Sơn đầy ú ụ, thuê một chiếc xe đạp, định tới Sở Quản lý hiện vật văn hóa thăm thú. Song vừa đến cửa, đang định khóa xe, tôi chợt bắt gặp một bóng người quen thuộc.
Kido Kana!
Tôi hối hả khóa xe rồi lẩn ra sau một cây cột, lòng thầm kinh hãi. Cô ả này sao không ở Bắc Kinh mà lại chạy tới đây?
Lần này Kido Kana mặc bộ đồ gọn gàng màu lục nhạt, đầu đội mũ, trông như một nhà khảo cổ chuyên nghiệp, khác hẳn phong thái thanh nhã lúc ở Bắc Kinh. Theo cô ta bước ra khỏi Sở Quản lý hiện vật văn hóa còn có ba người đàn ông, trông có vẻ là lãnh đạo sở. Đôi bên cười nói sang sảng, rôm rả cùng lên một chiếc Santana.
Trước lúc lên xe, cô ta như có trực quan mách bảo, nửa vô tình nửa cố ý nhìn về phía tôi, khiến tôi hoảng hốt rụt ngay đầu lại.
“Này này, cậu nấp nom gì đấy?” Bảo vệ thấy tôi lén la lén lút bèn đi đến quát hỏi. Tôi giật bắn mình, chỉ sợ Kido Kana nghe thấy. Ông bảo vệ nhất quyết không tha, tóm lấy tay áo tôi. Thấy chiếc Santana đã đi xa, tôi mới ngoái lại phân bua rằng mình tìm người của sở. Ông già khăng khăng đòi tôi phải đưa chứng minh thư, bằng không sẽ báo cảnh sát. Tôi bí quá hóa liều, bèn lấy ngay tước đồng chạm rồng ra, “Tôi đến quyên góp văn vật.”
Ông bảo vệ nghe vậy lập tức đổi thái độ, niềm nở dẫn tôi vào phòng Thu phát, còn rót chén nước nóng mời, trên mặt chén lềnh bềnh mấy vụn trà. Ông ta than thở trước đây bà con nông dân ý thức giác ngộ cao, hễ nhặt được món gì là hiến ngay cho nhà nước, đâu như bây giờ toàn bán cho bọn con buôn, một năm sở này cũng chẳng thu được mấy món.
Tôi vâng dạ qua loa, lòng thầm suy đoán. Kido Kana nói với chúng tôi Kido Yuzo không hề để lại bất cứ tài liệu nào về chuyến đi năm 1931, vậy mà hiện giờ lại vô duyên vô cớ xuất hiện ở Kỳ Sơn, chứng tỏ cô ả nói dối. Kido Yuzo khi về Nhật nhất định đã từng nhắc đến Kỳ Sơn là khởi đầu của cuộc thám hiểm còn bỏ ngỏ năm ấy. Thế nên trong khi chúng tôi lần theo manh mối Phó Quý và Trịnh Quốc Cừ thì cô ta lén lút chạy đến đây. Ả này tính toán cũng ghê đấy.
Giờ đây, tại thị trấn bé xíu này, hai chúng tôi đã thành đối thủ cạnh tranh. Tôi không rõ cô ta còn biết bao nhiêu chuyện mình chưa hay, nhưng trong tay tôi cũng có bí mật của riêng mình, huống hồ cô ta ngoài sáng tôi trong tối, đôi bên huề nhau, cũng coi như ngang tài ngang sức.
Thấy tôi thừ ra, ông bảo vệ gọi liền mấy câu. Tôi định thần lại, hỏi ông ta huyện Kỳ Sơn này có thứ gì liên quan đến Quan Công không. Ông ta bưng bình trà lên, đắc ý khoe, cậu đừng tưởng tôi chỉ là tay bảo vệ quèn, tốt xấu gì tôi cũng thuộc biên chế chính thức của Sở Quản lý hiện vật văn hóa, danh lam thắng cảnh trong huyện này tôi làu làu như lòng bàn tay ấy.
Ông ta giới thiệu, miếu Quan Công ở đây ít nhất cũng hơn mười ngôi, hỏi tôi muốn tới ngôi nào. Tôi liền hỏi có ngôi nào thờ tượng đồng, lại khá cổ xưa không.
Ông bảo vệ ngẫm nghĩ rồi lắc đầu bảo không biết.
Tôi lại thuận miệng đãi bôi thêm mấy câu rồi cầm tước chạm rồng định đi, ông ta bèn hỏi cậu định hiến tặng cơ mà? Để tôi gọi nhân viên của sở đến. Tôi nhủ bụng giao cái này ra có khác gì bố cáo toàn quốc là tôi đang ở Kỳ Sơn, mau nghĩ cớ chuồn đi thôi. Vừa ra khỏi cửa, tôi đã bị vỗ bộp một cái vào vai, giật nẩy mình, ngoái lại thì thấy một người lạ hoắc, đeo kính mát gọng to, mặc sơ mi hoa, tóc để dài bờm xờm, kiểu dân chơi nửa mùa.
Tên này cười hì hì hỏi ngay, “Đồng chí đến Sở Quản lý hiện vật văn hóa hiến tặng văn vật à?” Tôi định lờ tịt, quay phắt người đi thẳng, nhưng bị gã giữ rịt lấy, “Người ta không cho cậu vào à? Ai chà đồng chí à, thời nay ai còn hiến tặng nữa, cải cách mở cửa, kinh tế thị trường cả rồi. Cậu nghĩ mà xem, hiến tặng cho nhà nước, quá lắm được phát cho cái bằng khen với mấy trăm tệ chứ gì, cậu cho tôi nhìn một cái, tôi biếu luôn cậu bằng ấy.” Dứt lời gã giơ ba ngón tay ra, rồi ngập ngừng một thoáng, lại giơ thêm ngón nữa.
Tôi nhếch môi cười, biết ngay đây là hạng người gì. Có những lái buôn hay lân la tại các vùng nông thôn Thiểm Tây, Hà Nam, vựa cổ vật của cả nước hoặc lảng vảng trước trụ sở Sở Quản lý hiện vật văn hóa các tỉnh, thấy có người bản địa nào ôm đồ đi đến thì sấn tới bắt chuyện, gạt họ để mua với giá rẻ - nói là rẻ nhưng trong mắt người tỉnh lẻ đã là cao lắm - rồi đem tới Bắc Kinh, Thượng Hải thậm chí ra nước ngoài bán, đội giá lên mấy chục lần. Đây gọi là moi của, về bản chất không khác gì mót của.
Để khỏi gây chú ý, tôi đã cố tình mua bộ quần áo nông dân, mặc vào trông quê một cục. Có lẽ người này tưởng tôi là nông dân đến hiến tặng văn vật nên vừa bắt chuyện đã xổ ra một tràng. Tôi vốn định từ chối, nhưng lại nghĩ chi bằng nhân cơ hội này trà trộn vào giới đồ cổ Kỳ Sơn xem có thu được tin tức gì không, bèn cười với gã, “Tôi có món đồ xanh mới đào được, chẳng biết có ai mua không?”
Kẻ kia sáng mắt lên, đồ xanh không giàu thì sang, vội túm chặt cánh tay tôi, “Ở đây tai vách mạch dừng, anh em mình tìm chỗ nào nói chuyện đi.”
Tôi bèn cưỡi xe đạp, theo gã đến sân sau một quán cơm, đứng ngay cạnh vại nước gạo. Người kia tự xưng là Hai Tần, tôi cũng lấy một cái tên giả, gọi là Trịnh Trọng.
Tôi cố ý để gã nhìn qua chiếc tước chạm rồng, nhưng không cho nhìn kỹ. Hai Tần cũng tinh mắt, mới thấy một góc đã biết không phải đồ bình thường. Mắt sáng lên, nhưng gã kịp thời kìm lại ngay, làm bộ khó xử nói, “Cái này của cậu cũng tạm thôi, là đồ cổ nhưng bị lỗi.”
Đây là chiêu quen thuộc của đám moi của. Thoạt tiên chúng sẽ cố ý bới móc một khiếm khuyết vu vơ nào đó, nếu non gan lôi đồ ra phân bua là mắc bẫy. Tới lúc đó chúng sẽ ép giá, uốn ba tấc lưỡi nói cho người ta xoay mòng mòng, cuối cùng bán cho chúng với giá rẻ, còn rối rít cảm ơn chúng đã rước hộ một món phế phẩm.
Tôi cũng phối hợp với gã, làm bộ sốt ruột lôi tước đồng ra cãi: “Sao thế được, tôi mới đào ra đấy, lau sạch bóng thế này cơ mà!”
Thấy thái độ của tôi, nét mặt gã dịu hẳn lại, làm bộ tha thiết thuyết phục, “Trọng à, cậu làm thế có chết không cơ chứ, đồ xanh chôn dưới đất mấy nghìn năm, trên mặt toàn gỉ đồng xanh biếc. Đồ cổ, người ta mua là mua lớp gỉ cổ này cơ mà. Cậu lau sạch bách rồi còn ai mua nữa? Thử nghĩ vớt hết thịt dê ra để mỗi miến suông thì bán cho ai?”
Nghe gã bốc phét, tôi vờ hoảng hốt, vội hỏi phải làm sao bây giờ. Gã thở dài đáp, vốn dĩ không định mua nữa, nhưng nể tình tôi thực thà, lại thấy đôi bên có duyên nên thôi đành mua với giá một trăm. Tôi thầm rủa gã mất dạy ăn dày, nhưng ngoài mặt vẫn tỏ vẻ mừng rỡ, cảm ơn rối rít. Gã chìa tay định cầm lấy tước, song tôi ngăn lại.
“Anh dẫn tôi đi gặp những người khác được không?”
Thấy miếng ăn sắp đến miệng lại bị rụt lại, mặt gã hơi đanh, “Có gì mà gặp, bọn họ đều là gian thương, chỉ tổ ép giá cậu thôi.”
Tôi ôm khư khư lấy tước, “Trước lúc đi, chú tôi bảo đây là văn vật, không được bán lấy tiền, chỉ đổi đồ thôi.”
Hai Tần tức đến phì cười. “Được được, cậu muốn đổi cái gì?”
Tôi đáp, “Sách cũ, sách cũ cuối thời Thanh đầu Dân Quốc, không thì tượng đồng Quan Công cũng được.”
Phòng In sách Học viện Vị Kinh có liên quan tới ba cuốn sổ tay, tượng đồng Quan Công thì liên quan đến hành tung của ông tôi, hai manh mối này đều phải tra xét tận tường.
Hai Tần nghi hoặc nhìn tôi, hẳn là cảm thấy một tay nông dân cục mịch không thể nói ra lời này được. Tôi vội lấp liếm. “Chú tôi bảo thế đấy. Ông ấy là giáo viên tiểu học, biết nhiều lắm.”
“Thế cậu cứ nghe lời ông ấy, giữ lấy cục đồng nát này đi!” Gã vờ tức giận, quay người bỏ đi. Tôi đứng ngây ra tại chỗ. Quả nhiên chưa đầy một phút, gã lại vòng về, “Ôi thôi, coi như tôi mềm lòng, giúp cậu thêm lần này vậy! Thế này nhé, tôi giúp cậu tìm sách cũ, đổi lấy cái tước này, cậu không được bán cho ai đâu đấy!”
“Vâng, vâng!” Tôi gật lấy gật để.
Đây chính là chiêu ‘mượn lưỡi câu cá’ Kido Kana từng dùng. Giờ tôi cũng dùng tước chạm rồng của nhà họ Hoàng để câu con cá Hai Tần này vậy. Hễ tước còn trong tay tôi, gã sẽ ngoan ngoãn làm theo lời tôi bảo.
Cũng như năm phái, trên thị trường văn vật đồ đồng và thư họa cũng chia ra thành hai nhánh khác nhau, mỗi nhánh có một bộ quy tắc riêng. Hai Tần chuyên về đồ đồng, không quen biết nhiều trong giới thư họa. Gã dẫn tôi tới mấy khu chợ đồ cổ nhỏ, định tìm bừa mấy quyển sách lấp liếm cho qua chuyện, nên toàn giới thiệu cho tôi những chủ quầy lìu tìu. Mấy cuốn sách cũ thì toàn là tạp chí những năm đầu giải phóng, cái gì mà Võ lâm, Điện ảnh đại chúng, Sổ tay nuôi lợn ở nông thôn v.v… Tượng Quan Công cũng có hai ba pho, tiếc rằng toàn là đồ giả.
Tôi chẳng nói gì, chỉ lắc đầu quầy quậy. Hai chúng tôi đi suốt nửa ngày, Hai Tần cũng mệt lử, bực bội hỏi rốt cuộc cậu muốn tìm cái gì? Tôi đáp chú đã đưa ra hai điều kiện: sách thời cuối Thanh đầu Dân Quốc, và phải là bản in ở Kỳ Sơn. Gã vất vả lắm mới tìm được một tiệm thư họa khá khẩm hơn đôi chút, hỏi ra mới biết sách vở phù hợp với cả hai điều kiện trên chỉ có sách của phòng In sách Học viện Vị Kinh, gọi tắt là sách bản Vị, rất quý, lại hiếm thấy trên thị trường. Hai Tần liếc xéo tôi nói, chú cậu cũng biết hàng quá nhỉ, tôi gật đầu lia lịa.
Hai Tần hỏi han khắp lượt mới quay lại bảo tôi, cả Kỳ Sơn này chỉ có một người chuyên thu mua sách bản Vị, tên là Cơ Vân Phù, danh nhân văn hóa bản địa. Nghe họ đủ biết nhà ông ta là gia tộc lớn ở Kỳ Sơn. Đã giải phóng bấy nhiêu năm nay, nhưng nhà họ Cơ vẫn có vai vế ở đây. Hai Tần cắn răng, vẻ khó nghĩ. Tôi đi guốc trong bụng gã, nếu tới tìm Cơ Vân Phù mua sách bản Vị, ắt phải lấy tước chạm rồng ra - một khi để lộ tước này thì đâu đến lượt gã phỗng tay trên nữa.
“Nhà họ Cơ có phải Sở Quản lý hiện vật văn hóa, muốn đến là đến đâu. Lỡ chọc giận ông ta, cảnh sát sẽ ập đến bắt cậu ngay. Hay tìm quyển khác đi?” Hai Tần định dọa tôi, nhưng tôi chẳng hề nao núng, ôm tước khăng khăng đòi tìm Cơ Vân Phù.
Gã hết cách, đành mời tôi đi ăn tối trước. Tôi chọn một bát mì kéo cỡ đại, ăn ngốn ngấu miệng bóng nhờn những mỡ, chóp chép luôn mồm. Ăn uống xong xuôi, Hai Tần vừa bước ra đã biến sắc mặt, kéo tôi chạy thục mạng. Tôi ù ù cạc cạc chạy theo gã, mới được vài bước đã bị mấy tay lực lưỡng chặn lại. Đám này trông lấc cấc lưu manh nhưng thái độ hết sức khách sáo, vui vẻ chào hỏi Hai Tần, chẳng mấy chốc đã dẫn chúng tôi tới một xưởng bảo dưỡng gần đó.
“Chú Tần này, rốt cuộc bao giờ chú mới trả tiền?” Tên cầm đầu ngồi trên một chiếc lốp máy cày to đại tướng, tay quay quay cái cờ lê, cổ đeo một miếng ngọc. Hắn nói năng từ tốn, giọng điệu ôn hòa, nhưng đầy áp lực.
Hai Tần cúi đầu khom lưng, mồ hôi túa ra như tắm, luôn miệng phân bua, “Anh Hồ, khéo quá, em đang tìm anh đây.” Anh Hồ cười nhạt, gõ cờ lê vào mép bánh xe, đợi gã nói tiếp. Hai Tần đảo mắt, thình lình chỉ vào tôi, “Anh xem, em dẫn đến cho anh thằng này này.”