CHƯƠNG 3:

Thanh minh thượng hà đồ trong bảo tàng Cố cung là giả?

Sân nhà nông bình thường đều đặt chuồng lợn chuồng gà, hoặc chất đống rau củ và nông cụ. Vậy mà sân nhà này lại chồng chất toàn những đồ gốm. Quả thực là chồng chất, không khoa trương chút nào. Đống bát chiết yêu chồng lên bát cống, cạnh đám lọ lục bình là cả mớ bình hồ lô, từng chồng đĩa sứ Thanh Hoa chân cao xếp ngất nghểu như trong chậu rửa bát ở hàng ăn, ngả nghiêng chực đổ. Góc tường còn có hai chiếc bình có nắp theo lối tháp Tứ Linh. Dưới ánh trăng chỉ thấy trắng phau một màu, trông mà lóa mắt. Từng này hàng đủ khiến bảo tàng Cố cung ở Bắc Kinh và Đài Bắc phải hổ thẹn.

“Đống… đống đồ gốm này thành tinh rồi à?” Chung Ái Hoa lắp bắp hỏi.

“Ta tìm tiếp xem.”

Sang nhà hàng xóm, cảnh tượng cũng y hệt, vẫn là đồ gốm ngổn ngang đầy sân. Hơn nữa những thứ này đều lấm lem đất cát. Cạnh đống đồ gốm dựng một cái lều sơ sài bằng vải bạt và thanh gỗ, bên trong lổng chổng nào nồi sắt, que sắt, búa, mấy tờ giấy ráp và nửa thùng bùn khô. Nực cười nhất là ba bình sứ Thanh Hoa cỡ đại in hình nhân vật nào đó không nhìn rõ, đặt trong lều, bên trên kê tấm gỗ, vắt dăm bộ quần áo bẩn và lăn lóc mấy chiếc bánh bao cứng đanh, hẳn là được trưng dụng làm bàn làm ghế.

“Mấy thứ kia để làm gì thế?” Chung Ái Hoa hoa cả mắt.

“Nồi sắt để đun axit, que sắt và giấy ráp để mài mép, búa để tạo vết sứt mẻ, thùng nhựa kia đựng bùn để bôi lên. Đồ gốm ra lò, trước tiên phải ngâm axit, sau đó mài cho cũ, nếu cần còn phải làm sứt mẻ một góc, tạo thành món đồ không hoàn chỉnh. Xong xuôi thì bôi bùn lên, vùi vào đất hầm mộ để ủ, thế là lừa được phần lớn người mua. Thế nên chúng cần rất nhiều đất hầm mộ, phải chở từng xe tới đây.”

Chung Ái Hoa há hốc miệng, không sao tin nổi. Trong tưởng tượng của cậu ta, xưởng làm đồ giả phải là phòng thí nghiệm đầy máy móc khoa học tiên tiến, hoặc là nơi thâm sơn cùng cốc đầy vẻ cổ kính được truyền lại từ ngàn xưa, đâu ngờ lại là sân một nhà nông bình thường, còn dùng toàn những công cụ và biện pháp thô sơ.

“Những đồ gốm lưu hành ngoài chợ đều được làm giả thế này à?”

“Làm cũ.” Tôi cải chính.

“Chúng ngang nhiên phơi đầy đồ giả trong sân thế này không sợ bị sờ gáy sao?”

“Người ta không gọi làm giả, mà là làm hàng mỹ nghệ phỏng cổ.” Tôi nói vẻ chế nhạo, “Nhà nước đâu cấm nung đồ gốm, cũng đâu cấm làm cũ đồ gốm.”

“Nhưng nếu đem bán cho người khác chẳng phải là phạm pháp à?”

“Chú có thể hiểu đây là chợ đầu mối đồ buôn hàng giả. Những kẻ tới đây mua hàng đều giống tên Mắt Trố, không phải mua về dùng mà là để bán sang tay lừa gạt người ta. Chúng thực hiện giao dịch buôn bán hàng mỹ nghệ phỏng cổ hợp pháp tại đây, còn mua về làm gì thì không liên quan đến chợ này. Chú bảo cảnh sát quy vào tội gì mà bắt được?”

“Đúng là đê tiện.”

Chung Ái Hoa lẩm bẩm rồi gỡ máy ảnh ra, bắt đầu chụp tanh tách. Mặc cho cậu ta chụp, tôi chỉ đút tay túi quần, nhìn ra những căn nhà ngói đen ngòm dưới trăng, đăm chiêu suy nghĩ.

Trong sân các nhà quanh đây, có lẽ đều chất đầy đồ gốm. Chung Ái Hoa còn kinh ngạc, chứ tôi đã lường trước cả rồi. Nghề làm giả đâu phải gần đây mới có, những ngôi làng thế này ít ra cũng có thâm niên trăm năm làm đồ giả, còn là nghề gia truyền, nhà nào cũng có sở trường riêng. Làng Trịnh năm xưa của Trịnh Quốc Cừ chính là nơi chuyên làm giả đồ đồng, còn ngôi làng này hẳn là chuyên làm giả đồ gốm, hơn nữa không chỉ một nhà, mà cả làng cùng làm.

Tôi áng chừng đồ gốm trong sân hai nhà này đã lên đến vài trăm món, nếu gộp cả làng lại sẽ là một con số khổng lồ. Một lò gốm cá nhân không thể có sản lượng lớn thế được, nên trong làng nhất định còn có một phân xưởng lớn, đầy đủ cả dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh nào đá mài, phôi gốm, men tráng, lò nung, thậm chí có thể còn không phải là xưởng thủ công, mà đã được cơ giới hóa một nửa.

Gớm thật, đúng là một con cá lớn. Tôi xoa xoa cằm, lòng vui phơi phới.

Quy mô sản xuất lớn thế này, hẳn là một trong các căn cứ quan trọng của Lão Triều Phụng. Quy mô càng lớn thì càng khó giấu giếm, dễ lộ sơ hở. Muốn lần ra dấu vết của lão, hẳn cũng sẽ dễ hơn.

“Chung Ái Hoa!”

“Sao thế anh?”

“Tiết kiệm phim đi, chúng ta đi tìm xưởng sản xuất của chúng.”

Nghe vậy Chung Ái Hoa hết sức hào hứng, luôn miệng hỏi tìm bằng cách nào. Tôi giậm chân một cái cho bụi đường bốc lên rồi nói, “Đây có biển chỉ đường này.”

Chung Ái Hoa cúi xuống nhìn, dưới ánh trăng, thấy mặt đường quả thật có phần là lạ, nhưng lạ ở đâu thì cậu không nói ra được. Tôi ngồi xuống, dấp nước bọt vào đầu ngón tay quệt xuống đất rồi giơ lên nhìn kỹ. Đường sá ở đây đều là đường đất vàng, hễ mưa là lép nhép bùn lầy, nếu lại có xe đạp hoặc máy kéo chạy qua, sẽ càng gồ ghề mấp mô. Song bùn đất cạnh vết bánh xe lẫn những hạt đất li ti màu trắng, trông như rắc thìa đường kính vào bát tương vậy.

Tôi bèn gọi Chung Ái Hoa lại trỏ cho xem. Muốn rèn luyện cậu ta nên tôi không nói đáp án ngay, mà bảo cậu ta phân tích thử. Chung Ái Hoa rọi đèn flash nín lặng quan sát hồi lâu, đến nỗi chóp mũi cũng lấm tấm mồ hôi.

“Đặc trưng thổ nhưỡng vàng trắng đan xen này chỉ có quanh vết bánh xe, hơn nữa phần nhiều đều nằm trên bề mặt, chú nghĩ đến cái gì nào?” Tôi hỏi.

“Ừm… Đây có lẽ là bột phấn rơi ra trong quá trình vận chuyển.”

“Đúng, sân các nhà quanh đây đầy đồ gốm, vậy thứ bột phấn trắng ấy nói lên điều gì?”

Chung Ái Hoa vắt óc nghĩ một lúc lâu rồi ré lên, “Hóa ra chúng không những làm đồ giả, mà còn buôn ma túy à?”

“…”

Tôi chỉ muốn táng cho thằng này một cái, can tội đầu đất, song vẫn nén giận giải thích, “Trong giới đồ cổ có câu rằng, làm giả phải gần thật. Xưởng làm đồ giả thông thường đều ở quanh khu vực sản sinh ra đồ thật. Có vậy mới bảo đảm chất đất và điều kiện tự nhiên giống nhau để mô phỏng được ở mức độ cao nhất. Làng này làm đồ gốm, chứng tỏ gần đây phải có lò gốm cổ nổi danh nào đó để bảo đảm chất lượng hàng đồng nhất. Bước đầu tiên khi nung gốm là nghiền mịn cao lanh ra rồi lọc, rây thành bột, sau đó mới nặn thành phôi gốm. Khâu này sẽ sinh ra một lượng lớn bột phấn, bay khắp mọi nơi. Thế nên khi xưởng cho chở đồ gốm cần làm cũ tới đây, dọc đường khó tránh bột phấn vương vãi.”

“Nghĩa là chúng ta lần theo dấu bột sẽ tìm đến được xưởng gia công của chúng?”

“Chính xác.” Tôi nhìn theo con đường nhỏ dẫn vào sâu trong làng. Đêm nay trăng sáng, chỉ cần nhìn kỹ sẽ nhận ra dấu bột phấn rắc dọc đường.

“Tìm thấy xưởng gia công rồi, chúng ta phải đi ngay để tránh nguy hiểm.” Tôi dặn trước Chung Ái Hoa. Cậu ta hơi tồ nhưng không ngốc, liền tán thành ngay.

Hai chúng tôi lần theo dấu phấn vòng vèo qua hàng loạt ngõ hẻm trong làng, có lúc thậm chí còn phải bò lồm cồm dưới đất để nhìn cho rõ. Dưới ánh trăng bàng bạc, hai bóng người lom khom đi giữa hang cùng ngõ hẻm làng cổ âm u, trông cực kỳ rùng rợn.

Càng đi sâu điều tra, tôi càng thêm ngạc nhiên và mừng rỡ. Làng xóm thông thường đều là mạnh họ nào họ nấy làm, họ nào cũng có lò riêng, có ngón nghề riêng. Song hiện giờ các dấu hiệu thu được đều cho thấy làng này lại sản xuất tập trung, quản lý thống nhất, chứng tỏ họ đã bị một thế lực nào đó cưỡng chế hợp nhất, gộp chung mối thu mua và tiêu thụ, như thế hiệu suất sẽ càng cao. Có thể làm được như vậy, ngoài Minh Nhãn Mai Hoa ra, chỉ còn mình Lão Triều Phụng.

Tôi không hy vọng tìm được Lão Triều Phụng ở đây, nhưng cơ nghiệp lớn thế này, dù lão thận trọng đến đâu, cũng nhất định để lộ sơ sót. Đột nhập vào xưởng có nghĩa là tôi lại tiến gần mục tiêu thêm một bước.

Mò mẫm trong làng một lúc lâu, lại trải qua mấy phen mất dấu, đến hơn hai giờ sáng, chúng tôi mới tìm được xưởng gia công.

Xưởng nằm trên đường nối dài với con sông nhỏ ở mé Đông làng, nhìn từ xa như một khoảnh đất hoang, tới gần mới nhận ra là vùng trũng, hình dạng như con thoi, hẹp và cao dần về phía Đông, tới khi ngang bằng mặt đất thì nối liền luôn với một góc làng. Các công trình xây dựng ở đây đều một mình một kiểu riêng. Xa nhất là mỏ khai thác đất dựa lưng vào núi, có lẽ đất sét để làm đồ gốm đều được lấy từ đây, còn có một hồ nước trong vắt vuông vắn, càng củng cố thêm suy đoán nơi này gần lò gốm nổi tiếng của tôi. Ngay sát chỗ khai thác đất là mười mấy gian nhà mái bằng, nằm xen kẽ, cách nhau không xa, mấy căn quây lại thành một khoảnh sân, trong sân rất nhiều máy móc và nguyên vật liệu chất đống. Tiếp theo là chừng mười lò bánh bao, mang tên bánh bao song thực ra kiểu lò có mái vòm và xây gạch bao quanh như vậy giống nấm mồ hơn, khác chăng là phía sau trổ thêm một ống khói, giờ vẫn đang ùng ục nhả khói.

Mấy gian nhà cạnh lò gốm vẫn sáng đèn, hẳn là có người trực đêm. Đi ra vòng ngoài là mấy nhà kho rộng và một bãi đậu xe, ấy là chưa kể những kho hàng lộ thiên, đá và màu men chồng chất, thậm chí có cả một sân bóng rổ. Khu vực này thoạt trông tưởng như thuộc về làng, thực ra lại riêng rẽ, các công trình chức năng đầy đủ, quy hoạch gọn gàng, chẳng khác nào một khu công nghiệp thu nhỏ.

Ở chỗ giáp ranh với làng có một ngôi nhà hai tầng, trông rất mới, trước cửa treo tấm biển đề “Viện nghiên cứu gốm Nhữ Thuận Châu”. Thoạt nhìn qua, tôi đã vỡ lẽ.

Thì ra đây là Thuận Châu, thảo nào.

Tôi vẫn nghi ngờ nơi này phải gần một vùng gốm nổi danh nào đó, xem ra chủ yếu bọn chúng làm giả gốm Nhữ!

Nghe người họ Dược của Huyền môn nói, nhà nước vẫn luôn có chính sách chuyên môn hỗ trợ kỹ thuật làm đồ gốm. Sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đã cho thành lập viện nghiên cứu tại các vùng gốm có tiếng, chuyên nghiên cứu phục dựng các sản phẩm gốm cổ. Gốm Nhữ đứng đầu trong năm loại gốm danh tiếng, cực kỳ quý giá, có câu “gia tài vạn quan chẳng bằng một mảnh gốm Nhữ”, nên đã trở thành mục tiêu nghiên cứu trọng điểm. Nếu tôi nhớ không lầm, năm 1958, một xưởng gốm Nhữ ở Nhữ Châu đã nung được một mẻ gốm Nhữ phỏng cổ, đến năm 1983 thậm chí còn làm ra được men thiên thanh, không kém gì gốm đời Tống. Từ sau cải cách mở cửa, những kỹ thuật này truyền ra dân gian, trở thành kỹ thuật bổ trợ cho việc làm hàng giả.

Thuận Châu nằm cạnh Nhữ Châu, chất đất gần giống nhau, đồ gốm nơi này thường cố tình nhận là gốm Nhữ. Làng này có lẽ thuộc phạm vi Thuận Châu, nên mới núp dưới danh nghĩa viện nghiên cứu gốm Nhữ, giương cao ngọn cờ hợp pháp để ngang nhiên làm hàng giả.

Chẳng biết đám sưu tầm hễ nghe nhắc đến gốm Nhữ là sáng mắt lên, gặp cảnh tượng này sẽ cảm thấy thế nào.

“Được rồi, rút thôi.” Tôi nói.

Phải biết rằng cả làng này cùng làm đồ giả, nhất định sẽ hết sức cảnh giác, không dễ để người ngoài bén mảng. Một khi trời sáng, hai kẻ lạ mặt chúng tôi sẽ bị dân làng phát hiện ngay. Dân Hà Nam hung hãn, lại liên quan đến lợi ích sinh tồn, có khi chúng tôi chẳng còn toàn mạng ấy chứ.

Lần này tôi đến Trịnh Châu đã thu hoạch vượt mức rồi. Bằng chứng về xưởng làm đồ giả này còn xác thực hơn Công ty Tân Trịnh Đồ Lương nhiều. Công ty che mắt kia bỏ của chạy lấy người rất dễ, nhưng làng xóm và nhà xưởng thì chẳng chạy đi đâu được. Sau khi quay về tôi có thể dẫn người của Minh Nhãn Mai Hoa và cảnh sát trở lại, bây giờ chẳng cần mạo hiểm làm gì.

Chung Ái Hoa giơ máy ảnh lên rồi lại hạ xuống, nói rằng chỗ này cách xưởng quá xa, đèn flash cũng không có hiệu quả, muốn lại gần hơn để chụp. Tôi hơi lo, sợ tay trực ban kia phát hiện, nhưng thấy Chung Ái Hoa đã lom khom đi về phía nhà xưởng, tôi chẳng dám gọi to, đành thở dài bám theo.

May sao Chung Ái Hoa không ngốc đến nỗi lẻn vào theo cổng chính, mà đi đường vòng, men theo con sông. Hai chúng tôi khom người nín thở rón rén đi, như bộ đội chui vào hầm trú ẩn ngày xưa vậy. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã leo lên một ngọn đồi nhỏ cạnh con sông, bên kia chân đồi chính là dãy lò bánh bao lớn có nhỏ có.

Xưởng sản xuất này của Lão Triều Phụng tuy núp bóng Viện nghiên cứu gốm Nhữ nhưng lại làm hàng giả phân phối toàn quốc, đồ loại nào thời nào cũng có, nên cách nung cũng khác nhau. Sức nóng của những lò bánh bao này thông thường vào khoảng một nghìn ba trăm độ, dù vách lò dày, hơi nóng vẫn tỏa ra xung quanh hầm hập, con người không thể quanh quẩn bên cạnh lâu được. Lẻn vào xưởng qua lối này là an toàn nhất.

Tôi thò đầu ra nhìn, thấy bên dưới không có ai, bèn ra hiệu cho Chung Ái Hoa. Gò đất này không cao lắm, nhưng rất dốc. Hai chúng tôi bám cỏ tranh trên triền dốc, đặt chân vào những chỗ lõm, khẽ khàng tụt xuống. Được nửa đường, Chung Ái Hoa thình lình trượt chân, máy ảnh đeo trên cổ đu đưa, cả người chới với. Tôi vươn tay giữ cậu ta lại theo phản xạ, kết quả cả hai đều mất thăng bằng, lăn lông lốc xuống dưới.

Thực ra chúng tôi chẳng còn cách mặt đất bao xa, ngã xuống cũng không chết được. Nhưng trong lúc ngã tôi vô tình nhìn xuống, buột miệng hét lên, “Cái đệt!” Thì ra nơi này nằm sát bên cạnh lò gốm, còn giăng bốn năm giá gỗ phơi đầy đồ gốm chờ nguội bớt, la liệt đủ hình dáng kích cỡ. Hai chúng tôi rơi vào giữa đống đồ gốm, chẳng khác nào hai con bò điên xông vào tiệm gương, lập tức xô ngã núi vàng, hất đổ cột ngọc, giá gỗ đổ sập, vô số bát sứ, bình sứ, lọ sứ, chén sứ, ly sứ vỡ loảng xoảng. Nếu tất cả đều là hàng thật, e rằng tổn thất kinh tế tôi gây ra đã đủ mua cả vùng đất rộng bằng một tỉnh rồi…

Tiếng đổ vỡ chẳng khác nào tràng pháo giữa đêm, tức thì mấy căn nhà xa xa đồng loạt sáng đèn, bóng người thấp thoáng, còn nghe văng vẳng tiếng chó sủa. Tôi và Chung Ái Hoa dáo dác tìm đường chuồn, song xung quanh trống trải, trừ chui vào lò gốm hơn nghìn độ ra thì chẳng còn chỗ nào để nấp cả.

Tôi thầm hối hận, nếu rút lui ngay lúc ở trong làng thì đâu tới nông nỗi này. Muôn nghìn dặn lòng nhủ bụng, vẫn không thắng được thói tham lam. Mặt Chung Ái Hoa cắt không còn hột máu, là phóng viên bản xứ, cậu ta biết rõ dân nơi này hung hãn nhường nào, lại dính đến lợi ích bản thân, bọn chúng có giết người diệt khẩu cũng chẳng lạ.

Hai chúng tôi lặng đi chừng mười giây, Chung Ái Hoa bỗng nhét máy ảnh vào tay tôi rồi nói, “Anh cầm máy ảnh trốn vào nhà kia đi. Đằng đó không bật đèn, chắc là không có ai.”

Đối diện cửa lò gốm, cách chừng 50 mét là dãy tường bao thấp, hai cánh cổng gỗ mở toang, bên trong là nhà gạch mái bằng, tối om. Tôi lắc đầu, “Xưởng này rộng như thế, nấp vào đó chẳng phải để chúng bắt ba ba trong rọ ư?”

Chung Ái Hoa thuyết phục, “Chúng không biết anh em mình có hai người. Anh trốn vào đó, em chạy ra ngoài, chắc chắn chúng sẽ đuổi theo em, không soát nhà đâu.”

“Đợi đã, ý chú bảo chú định chạy đi làm mồi nhử hả?” Tôi suýt kêu lên thành tiếng.

Chung Ái Hoa nhớn nhác nhìn sang phía đám người đang chạy đến, vội vàng nói, “Anh Nguyện, em là người vùng này, còn có thẻ phóng viên, chúng sẽ không làm gì quá đáng đâu. Nhưng anh không thể gặp bất trắc được!”

“Chuyện này quyết không thể được!”

“Em biết bơi, có thể nhảy xuống sông chuồn đi. Anh còn dùng dằng nữa thì chúng mình chết cả nút đấy!”

Chung Ái Hoa quát lên, xô tôi về phía căn nhà kia rồi quay người chạy theo hướng ngược lại, vừa chạy vừa cố ý đá đổ các đồ gốm sứ vỡ loảng xoảng. Tôi nhìn theo bóng cậu ta, vành mắt nóng rực. Đến nước này, tôi cũng đành tin lời cậu ta, vội vã khoác máy ảnh lên, núp bóng các lò gốm mà chạy. Xộc qua cửa gỗ, vào đến sân, tôi mới thấy nơi này trừ căn nhà gạch rộng rãi giữa sân ra, bốn bề đều là tường bao, chỉ có duy nhất một lối vào. Mà cửa vào lại nhìn thẳng ra lò gốm, bất cứ ai đứng đó nhìn sang cũng có thể quan sát được động tĩnh trong sân. Tôi chẳng dám nấn ná lâu, vừa mò được tay nắm cửa lập tức xoay nhẹ, thấy cửa không khóa, vội hé cửa lẻn vào rồi sập ngay lại.

Căn nhà này nằm sấp bóng, ánh trăng không soi vào được. Tôi vừa đóng cửa, trong nhà đã lại tối om. Tôi chẳng nhìn thấy gì, lại không dám mở đèn flash, đành thở hồng hộc giơ hai tay ra dò dẫm tìm đường. Chợt nghe keng một tiếng, chân đụng phải bát sứ hoặc đồ đạc gì đó, làm tôi giật bắn mình, đứng đờ ra tại chỗ không dám động đậy, chỉ sợ người bên ngoài phát hiện.

Nghe âm vọng của tiếng keng mà suy thì căn nhà này trần rất cao, diện tích cũng rộng, thậm chí có thể nói là thênh thang. Tôi đứng bất động trong bóng tối, thị giác hoàn toàn vô dụng, nhưng các giác quan khác lại trở nên nhạy bén lạ thường. Tôi nhắm nghiền mắt lại, bắt đầu cảm nhận. Tai tôi loáng thoáng nghe thấy tiếng hô hoán và tiếng sành sứ đổ vỡ, cùng tiếng nhịp tim mình đã dần bình ổn lại; mũi tôi ngửi thấy một mùi thoang thoảng trong không khí; thậm chí tôi còn cảm giác được da hơi ngưa ngứa, đó là do tác động của luồng khí lưu chuyển trong phòng.

Thình lình một giọng nữ nhẹ bẫng cất lên sau lưng, khiến da đầu tôi bất giác tê rần, “Ai đó?”

Tôi sởn cả tóc gáy, vội quay lại, nhưng tối như hũ nút đâu thấy được gì. Chỉ nghe loạt soạt như tiếng chân phụ nữ, lại cũng giống rắn bò qua bụi cỏ, còn có tiếng leng keng khe khẽ, tôi giơ máy ảnh lên, nơm nớp nhìn quanh. Ít ra cầm chiếc máy nặng trịch trong tay, tôi cũng vững dạ hơn. Đúng lúc này giọng nói kia lại vang lên, lần này đã ở một vị trí khác, “Đừng sợ, cậu bỏ thứ trong tay xuống đi đã.”

Tôi thầm thở phào, nhưng ngay sau đó đã thấy không ổn. Căn phòng này tối om, người bình thường sao có thể thấy động tác của tôi được? Trừ phi kẻ kia không phải… Vừa nghĩ đến chuyện kẻ kia đang bay lơ lửng sau lưng, cúi xuống nhìn chằm chằm vào mình, tôi đã sởn cả gai ốc. Tuy là người duy vật, nhưng gặp phải tình cảnh này, tôi cũng không thể không sợ hãi.

“Tôi chỉ đi ngang qua đây, không có ác ý đâu. Nếu có oan khuất gì cứ nói với tôi, có tâm nguyện gì tôi cũng sẽ giúp.” Tôi lắp bắp, tay vẫn giữ khư khư máy ảnh, mồ hôi lạnh túa ra đầy lưng. Hai chúng tôi giữ thế giằng co một lúc thì bên ngoài vang lên tiếng đập cửa, còn có tiếng gọi, nghe rõ mồn một giữa đêm. Tim tôi lại hụt mất nửa nhịp, nếu đám người kia mở cửa ra, tôi sẽ bị tóm ngay tại trận, đến cơ hội chạy cũng chẳng có. Đúng là đã nghèo còn mắc cái eo, trước sói sau hổ, phải làm sao đây?

Tôi đang trù trừ chưa quyết thì giọng nữ kia lại vang lên bên tai, “Nghe giọng hình như cậu không phải người làng Thành Tế?” Tôi thầm nghĩ hóa ra làng này tên Thành Tế, rồi gật đầu lia lịa. Kẻ kia lại hỏi, “Họ đang đuổi bắt cậu à?” Tôi lại gật đầu. Đột nhiên một bàn tay đặt lên vai tôi, may mà còn âm ấm chứ không lạnh toát, là hơi ấm của con người, “Không muốn bị bắt thì bước lên ba bước.”

Nếu là ma chắc chẳng hơi đâu để ý đến giọng tôi. Tôi bất giác thở phào, quyết định đánh liều tin kẻ kia một lần, dù sao cũng chẳng thể tệ hơn được nữa, bèn bước lên ba bước. Lại nghe giọng nọ nói, “Rẽ phải bốn bước, rồi rẽ trái hai bước, ngồi xuống.”

Đến nước này đành trông vào vận may thôi. Tôi răm rắp theo lời ngồi thụp xuống, hai tay mò mẫm xung quanh, sờ thấy mấy chiếc bình chiếc bát lớn nhỏ lộn xộn, cảm giác hơi ram ráp, như chưa được tráng men vậy. Giờ tôi mới hiểu kẻ nọ bảo mình đi như thế là để tránh đống bán thành phẩm la liệt trong nhà.

Quy trình làm đồ gốm trước tiên là thái đất sét thành từng thanh dài sau đó nặn, nén, chuốt thành hình dạng nhất định, gọi là xương gốm hoặc phôi gốm. Phôi gốm phơi cho thật khô, trang trí tráng men lên, rồi đưa vào lò nung. Trong nhà nhiều phôi gốm như vậy, hẳn là nơi trang trí và tráng men, nhưng tối thế này sao người phụ nữ kia nhìn thấy được mà làm?

Đột nhiên cánh cửa ken két hé ra một nửa, ánh sáng lờ mờ chiếu vào, rọi đúng chỗ tôi đứng vừa nãy. Tôi nheo mắt thấy bóng một phụ nữ đứng trước cửa, vừa gầy vừa bé, lưng còng gập xuống, xem chừng cũng đã có tuổi. Mấy gã thanh niên mặc đồ rằn ri ùa vào, lễ phép hỏi, “Chị Tố, vừa rồi có nghe thấy gì không?”

Người phụ nữ được gọi là chị Tố thản nhiên đáp, “Nghe tiếng ai đó đá vỡ đồ sứ, rồi chạy về phía kia.” Bà ta trỏ hướng Chung Ái Hoa bỏ chạy.

“Bọn em cử người đuổi theo rồi, chỗ chị không có chuyện gì chứ?”

“Không đâu, có trộm à?” Chị Tố dấn lên một bước, chắn luôn tầm nhìn giữa tôi và chúng.

“Ai biết được, nửa đêm nửa hôm cũng chẳng để người ta yên. Chị Tố khóa kỹ cửa vào. Thằng Trụ, mày bật hết đèn lên cho tao, phải bắt cho được đồ chó ấy!” Tên nọ oang oang ra lệnh rồi gọi những kẻ kia đi.

Cửa lại đóng vào, lần này tôi nghe rõ tiếng chân bà ta đi đến, rồi dừng lại rất gần mình. Tiếng chân ấy khá đặc biệt, chậm rãi mà đứt quãng, hơi giống cách đi của các bà các cô bó chân thời xưa.

Lúc này bên ngoài tạch tạch mấy tiếng rồi đèn cả khu xưởng bật hết lên, bốn bề sáng rực như ban ngày. Căn nhà này chỉ có một cửa sổ, nhờ ánh sáng hắt vào, tôi mới nhìn rõ được gương mặt chị Tố. Là một bà lão, tướng mạo bình thường, song trên mặt không hề thấy nếp nhăn, chỉ hiềm sắc mặt trắng bệch phát sợ. Mái tóc bà ta chải gọn gàng, quấn trong khăn vuông, người mặc áo dài tay bằng sợi tổng hợp, tuy đã cũ nhưng được giặt sạch sẽ, hai cánh tay còn đeo ống tay bằng vải hoa nhí.

Quanh chị Tố, tôi thấy la liệt những phôi gốm, cạnh đó còn mấy giá gỗ bày đầy bán thành phẩm mới được vẽ màu hoặc chưa vẽ màu. Đầu kia giá kê một chiếc ghế và một bàn làm việc, trên bàn có mười mấy ô sắt tây, đựng đủ loại phẩm màu, mỗi màu một ô, sắp thành hàng, ngay ngắn như màu vẽ trong hộp. Quả như tôi đoán, đây là nơi vẽ trang trí phôi gốm.

Bà già này nửa đêm không ngủ, một mình ở trong phòng, chẳng biết định làm gì.

“Sao bà không nộp tôi ra?” Tôi tò mò hỏi. Hành vi của chị Tố hết sức lạ lùng. Vừa rồi hai chúng tôi đứng trong bóng tối, đến mặt còn chưa thấy, chỉ nói được hai câu, sao bà ta lại bao che cho một kẻ lai lịch bất minh nửa đêm đột nhập?

“Tôi nhớ vừa rồi cậu nói sẽ giúp tôi rửa oan và hoàn thành tâm nguyện.” Giọng chị Tố cứ đều đều không lên không xuống, chẳng bợn mảy may sắc thái tình cảm, như canh rau cải không nêm mắm muối vậy.

Tôi ngượng ngập gãi đầu, “Lúc ấy tôi sợ quá nên nói lung tung, bà đừng để ý.”

Chị Tố lại tiếp, “Một lời nói ra, bốn ngựa khó đuổi.”

Giọng bà ta đều đều, khiến tôi không đoán nổi bà đang chế giễu mình hay thực sự tin vào những lời kia, đành hỏi, “Bà không sợ tôi là kẻ xấu à?”

“Cậu nói giọng Bắc Kinh. Một người từ Bắc Kinh chẳng nề vượt ngàn dặm xa xôi đến làng này, nhất định phải có mục đích, hơn nữa còn là mục đích không tầm thường. Tôi chẳng biết cậu là người tốt hay xấu, chỉ cần cậu gây khó dễ cho làng Thành Tế này là đủ.”

Phải thừa nhận rằng tư duy của bà lão này rất rõ ràng mạch lạc, chỉ nghe giọng mà đoán ra được bao nhiêu chuyện. Tôi quan sát kỹ gương mặt bà ta, cảm thấy trong vẻ bình thản phảng phất nét gì đó kỳ lạ, nhưng không sao nói rõ được lạ ở đâu.

“Vậy bà muốn tôi giúp rửa oan chuyện gì?” Tôi đánh bạo hỏi.

Song bà ta không đáp lời, mà hỏi vặn lại, “Cậu giải thích vì sao lại lẻn vào đây trước đã?” Tôi nghĩ ngợi giây lát, quyết định giấu chuyện Lão Triều Phụng đi, chỉ nói là phóng viên ở Bắc Kinh, cùng Chung Ái Hoa tới điều tra về xưởng làm giả đồ cổ. Chị Tố thản nhiên nhận xét, “Tôi nghe ra được cậu đang nói dối.” Tôi chẳng biết mình sơ hở ở chỗ nào, đành lúng túng nín lặng. Bỗng bà ta lại nói, “Tôi và cậu bèo nước gặp nhau, không biết ngọn nguồn, quả thực không nên dốc lòng nói thực. Thôi được, tôi kể chuyện của mình trước thì hơn.”

Vừa nói, chị Tố vừa chậm rãi ngồi xuống trước bàn làm việc, cầm một phôi gốm trên giá bên cạnh lên. Đó là một chiếc bát nhỏ, còn chưa tráng men. Bốn ngón tay trái chị Tố giữ đáy, xoay một vòng, tay phải cầm lấy cây bút cạnh ô màu hồng nhạt, nhúng đẫm màu rồi vẽ lên bát. Động tác của bà ta cực kỳ điêu luyện, cổ tay khẽ rung, nháy mắt đã thấy trên bát hiện ra mấy đóa hàn mai. Cuối cùng bà ta đặt chiếc bát xuống tấm ván gỗ để những thứ đã hoàn công bên phải, cả quá trình chỉ hơn một phút.

“Thế nào?” Chị Tố hỏi.

“Thật hiếm thấy ai chấm được toái mai một mạch như thế.” Tôi thán phục thốt lên.

Vừa rồi bà ta đã vẽ toái mai, một trong những hoa văn trang trí đồ gốm rất khó vẽ. Mẫu đơn, chuối, sen, cúc v.v… đều có cánh to lá rộng, chỉ riêng hoa mai là cánh nhỏ li ti, khó vẽ; hơn nữa màu vẽ lên gốm thường nặng mà dính, chỉ cần đưa bút hơi chậm, màu sẽ bị đọng thành mảng. Bởi vậy chỉ cần nhìn hoa mai trang trí có thể thấy rõ bút lực tinh tế đến mức độ nào. Có câu kẻ vụng vẽ mai, kẻ khéo chấm mai, chỉ khác một chữ, song cảnh giới đã khác xa nhau. Muốn xem nghề vẽ của một người, cứ bảo người đó vẽ hoa mai là biết.

Phòng này tranh tối tranh sáng, bà ta lại đã ngoài sáu mươi, vậy mà vẫn đưa bút thoăn thoắt, có thể liệt vào hàng cực khéo.

Nghe tôi nói vậy, chị Tố thoáng ngạc nhiên, “Ồ, xem chừng cậu cũng am hiểu về đồ gốm đấy.” Nói tới đây, bà ta lại gật đầu, như vừa nghĩ ra, “Nửa đêm dám xông vào xưởng làm gốm, dĩ nhiên phải hiểu biết ít nhiều rồi.”

Tôi lễ phép đáp, “Chỉ là chút kiến thức sơ sơ, đâu đáng lọt mắt bậc thầy như bà.”

“Đâu đáng lọt mắt à? Quả thực cậu làm gì cũng chẳng lọt mắt tôi được đâu.”

Đoạn bà ta từ từ quay sang, mở to mắt. Tôi đờ ra như bị sét đánh trúng, dưới ánh sáng lờ mờ, tôi vẫn nhận ra đôi con ngươi bà ta trắng đục, hoàn toàn vô thần.

Hóa ra chị Tố là một người mù cả hai mắt!

Thảo nào trong phòng tối om, chẳng cần bật đèn mà bà ta vẫn “trông thấy” mọi động tác của tôi. Thực ra bà ta không nhìn, mà là nghe.

Nhưng tôi thực không sao tin được thủ pháp vẽ hoa thuần thục tinh xảo vừa rồi lại do một người mù thực hiện.

Nên biết rằng người mù vẽ tranh chẳng lấy gì làm hiếm, nhưng vẽ hoa lên gốm lại là chuyện khác. Phôi gốm lập thể không giống mặt giấy Tuyên phẳng lì, bút vẽ cũng không giống bút lông bình thường, chất liệu men gốm lại càng khác mực. Vẽ trên men và vẽ dưới men là hai thủ pháp khác nhau, phối hoa văn, điều chỉnh độ uốn khúc thế nào, lên màu ra sao, đều phải tính trước khi cầm bút vẽ, tới lúc vẽ lại phải liên tục điều chỉnh.

Một người mù có thể thực hiện những điều này, chứng tỏ bà ta phải am hiểu về nghề vẽ và đồ gốm sứ đến đâu?

Thấy tôi lặng thinh hồi lâu, chị Tố lại cầm một chiếc lọ cao cổ lên, xoay mấy vòng trong tay để nhận rõ hình dạng rồi vung bút vẽ, chỉ nháy mắt, một bức hạc và tùng đã hiện ra. Thợ bình thường vẽ lên bình hoặc lọ đều đưa từng nét, vậy mà chị Tố múa bút cực nhanh, không ngừng lấy một giây, tựa như đã làm việc này cả trăm nghìn lần, quá đỗi thành thạo, thực là tuyệt kỹ.

“Tôi đã ở Viện nghiên cứu gốm Nhữ Thuận Châu mấy chục năm, chỉ chuyên tâm nghiên cứu về hoa văn trên đồ gốm. Cậu làm đi làm lại một việc mấy chục năm, có muốn quên cũng khó. Ông bán dầu nói thế nào nhỉ? Chẳng qua là quen tay thôi.”

Vừa nói, chị Tố vừa dừng bút đặt bình sang một bên, phong thái cao thâm khó dò, song vẻ mặt chẳng mảy may tự hào, trái lại còn đượm phần chua chát. Tôi kinh ngạc đến mức nói không ra lời, thực chẳng ngờ lại gặp một bậc quốc thủ như thế ở đây.

“Hoa văn trên những đồ gốm sứ phỏng cổ trình độ cao ở đây đều do bà vẽ ư?”

Chị Tố chậm rãi đáp, “Tất cả những đơn đặt hàng đồ phỏng cổ trình độ cao ở làng này đều được đưa đến chỗ tôi. Tôi không quan tâm họ nung hay tráng men ra sao, nhưng riêng về hoa văn trang trí, tôi tự tin có thể mô phỏng đến mức không còn sơ hở. Lúc cậu lẻn vào, tôi đang làm việc đấy.”

Thảo nào nửa đêm nửa hôm bà ta còn ngồi bên bàn làm việc. Với người mù thì ngày và đêm chẳng có gì khác biệt, chưa chừng đêm khuya yên tĩnh, bà ta còn dễ làm hơn. Nghĩ tới đây, tôi khẽ thở hắt ra, rũ vai xuống. Trước đây tôi đã đoán trong xưởng làm giả thế này ắt phải có cao nhân trấn giữ. Giờ xem ra báu vật giữ làng của làng Thành Tế là chị Tố này đây, hèn chi mấy tên kia lễ phép với bà ta như vậy.

Song tôi lại càng lúc càng thêm ngờ vực. Trình độ của chị Tố đã đạt đến hạng danh gia hàng đầu trong cả nước, đi tới đâu cũng sẽ được kính trọng như quốc bảo, sao lại cam lòng chui rúc trong cái xó này làm mấy món đồ giả vớ vẩn? Tuy chị Tố mù mắt, song lại như đọc được ý nghĩ của tôi, bèn rời bàn làm việc, đi qua đi lại mấy bước.

Nghe thấy tiếng lanh canh khe khẽ, tôi cúi đầu nhìn mới thấy hai mắt cá chân chị Tố tròng hai chiếc xiềng sắt, loại chuyên dùng trong trại giam. Đừng nói chị Tố, dù là một người đàn ông đang độ tráng niên bị đeo xiềng như vậy cũng không cất bước nổi, chỉ có thể lê từng bước như bà già bó chân mà thôi. Tôi kinh hoàng đứng phắt dậy, “Chẳng lẽ… bà bị giam ở đây ư? Sao lại thế?”

Bà ta kéo theo xiềng đi đến trước song cửa, áp trán vào cửa kính, thản nhiên đáp, “Người vốn vô tội, phải tội mang ngọc thôi.”

Nghe vậy, tôi hiểu ra ngay. Giam những thợ khéo có kỳ tài ở nơi kín đáo suốt đời, buộc họ làm việc cho mình vốn chẳng hiếm ở xã hội cũ. Nhưng đã giải phóng bao nhiêu năm rồi vẫn có kẻ to gan giam giữ người trái phép thế này! Hễ nghĩ tới việc một bậc thầy về hoa văn trang trí lại bị giam trong căn nhà tối tăm này, phải vẽ hoa văn lên đồ giả cho chúng, tôi lại thấy máu nóng bốc lên đầu.

“Giờ là thời đại nào rồi còn có kẻ dám làm vậy! Đây là phạm pháp! Sao chúng dám làm thế?”

Chị Tố lên tiếng, “Cậu có thấy mấy kẻ vừa rồi không? Tuy chúng kính cẩn với tôi, nhưng không cho phép tôi bước ra khỏi xưởng nửa bước. Khi nãy chúng tới gõ cửa là để xác nhận xem tôi còn ở trong này không đó thôi.”

Tôi lặng đi, thầm nghĩ ai có được bậc quốc thủ thế này đều sẽ canh giữ nghiêm ngặt, không để lọt mảy may tin tức ra ngoài cả thôi. Thấy tôi làm thinh, chị Tố lộ vẻ cay đắng, “Thế nên chắc cậu cũng hiểu vì sao tôi lại giúp một kẻ đột nhập không rõ lai lịch rồi chứ. Tôi chẳng còn lựa chọn nào cả, có lẽ đây là cơ hội duy nhất của tôi.”

Cuối cùng tôi cũng hiểu ra, lúc đầu chị Tố hỏi tôi có thể rửa oan, hoàn thành nguyện vọng cho bà ta không, hoàn toàn không phải nói đùa. Bà già này đã coi tôi là chiếc cọc duy nhất mà bà ta vớ được trong cơn tuyệt vọng. Nhiệt huyết bốc lên, tôi vỗ ngực cam đoan, “Bà yên tâm! Tôi sẽ không khoanh tay đứng nhìn đâu, nhất định phải cứu bà ra khỏi đây!”

Chị Tố lắc đầu, “Tôi từng này tuổi rồi, không đi nổi nữa, chỉ mong cậu đưa tin ra ngoài giúp là đủ rồi.”

Suy nghĩ lóe lên trong đầu, tôi sực nghĩ ra một chuyện, vội hỏi, “Ai nhốt bà ở đây vậy?”

Chị Tố đáp, “Tôi vốn là chuyên gia về hoa văn trang trí ở Viện nghiên cứu gốm Nhữ Thuận Châu. Đến tuổi về hưu, lãnh đạo viện giới thiệu với tôi một người, nghe nói là lão tiền bối trong giới cổ vật. Ông ta nói muốn phục hưng gốm Nhữ, xây dựng xưởng sản xuất, tha thiết mời tôi tới làm việc, chỉ đạo đám thanh niên, phát huy năng lực. Tôi không ngờ là lừa đảo, bị lão ta gạt đến đây, không đi được nữa.”

“Bà có biết lão là ai không?”

“Tôi mù mắt, không trông thấy mặt mũi lão, chỉ biết lão tự xưng là…”

“… Lão Triều Phụng!” Tôi căng thẳng tiếp lời bà ta.

Chị Tố bình tĩnh như vậy mà nghe thế cũng sững ra, “Cậu… Sao cậu biết cái tên đó?” Rồi chẳng đợi tôi trả lời, bà ta đã hiểu ra ngay, “Cậu đến từ Bắc Kinh, lẽ nào là…”

“Đúng, tôi là người trong Minh Nhãn Mai Hoa.” Tôi đáp khẽ.

Tin rằng chị Tố đã nghiên cứu về đồ gốm sứ, hẳn cũng biết tới Minh Nhãn Mai Hoa. Quả nhiên tay chị Tố run lên, sau đó bà ta hỏi, “Dược Lai là gì của cậu?” Dược Lai là chưởng môn Huyền môn, chuyên về đồ gốm, chị Tố nghe nói đến Minh Nhãn Mai Hoa, dĩ nhiên phải hỏi tới ông ta trước tiên.

Tiếc rằng Dược Lai đã qua đời, tôi cũng chẳng muốn kể rõ, bèn đáp ông ta là bề trên.

“Vậy cậu là người nhà nào? Hoàng Khắc Vũ? Lưu Nhất Minh? hay Thẩm Vân Sâm?”

Chẳng ngờ bà ta hiểu rõ về Minh Nhãn Mai Hoa như vậy, song tôi nhất nhất phủ nhận. Chị Tố ngạc nhiên, “Minh Nhãn Mai Hoa tổng cộng có bốn nhà, rốt cuộc cậu là người nhà nào?”

“Tôi họ Hứa, tên là Hứa Nguyện.”

“Ồ, nhà họ Hứa. Thì ra họ đã quay lại rồi…”

Chị Tố cảm thán, rồi không hỏi thêm nữa. Cũng dễ hiểu thôi, một người bị giam cầm bấy nhiêu năm, điều quan tâm nhất là cảnh ngộ trước mắt, chứ hơi đâu hỏi han chuyện nhà kẻ bắn đại bác mấy tầm chẳng tới. Bà ta phủi nhẹ đầu gối, lẩm bẩm, “Nhà họ Hứa cũng tốt, dù sao đều là Minh Nhãn Mai Hoa, tốt quá, tốt quá rồi. Nói vậy là Minh Nhãn Mai Hoa cuối cùng đã đối đầu với Lão Triều Phụng rồi sao?”

“Đúng thế, chúng tôi khó khăn lắm mới điều tra ra được làng Thành Tế, lão có ở đây không?” Tôi hỏi dồn.

“Cậu điều tra được đến đây cũng là giỏi rồi. Tiếc rằng nơi này tuy là sản nghiệp của lão, nhưng cả năm chưa chắc lão đã tới một lần.”

“Vậy chắc lão phải có tay chân, phải có người thay lão cai quản xưởng gốm này chứ?”

Chị Tố không đáp mà lê xiềng đi đến cửa, thận trọng lắng tai nghe ngóng. Lúc này công xưởng bắt đầu lục tục tắt đèn, chẳng biết là bắt được người rồi hay đã bỏ cuộc, gian nhà lại chìm trong bóng tối. Sau khi xác định xung quanh không còn ai cả, chị Tố mới vòng lại, hạ giọng nói, “Nếu cậu chỉ là hạng trộm cắp bình thường thì tôi định biếu cậu mấy món gốm thật, đổi lại sẽ nhờ cậu báo cảnh sát. Nhưng cậu đã là người của Minh Nhãn Mai Hoa, lại đến tìm Lão Triều Phụng thì khác. Tôi hỏi câu này đã, cậu tìm lão ta làm gì?”

“Lôi lão ra trước công lý, khiến lão thân bại danh liệt.” Tôi đáp không chút do dự, gần như rít lên căm hận.

Chị Tố nói, “Lão Triều Phụng hết sức xảo quyệt, nếu cậu muốn điều tra từ làng Thành Tế này thì khó lắm.” Thấy tôi thất vọng thở dài, bà ta xua tay, nói chậm lại, gương mặt tươi hẳn lên vì sắp báo được thù, “Có điều tôi biết vài bí mật liên quan tới lão. Những chuyện này tôi giữ trong lòng cũng chỉ tổ thối rữa ra thôi, song nếu rơi vào tay cậu, có lẽ sẽ trở thành dao sắc đâm trúng tử huyệt của lão.”

Nghe bà ta nói vậy, tôi phấn khởi vô cùng, chăm chú dỏng tai lắng nghe. Nhưng chị Tố chưa vội nói, mà quay lại ngồi xuống ghế, cầm một món đồ gốm lên, thong dong mà thành thạo trang trí cho nó. Tôi cảm thấy bà thực sự yêu thích nghề này, coi nó là sinh mệnh, là nơi gửi gắm tâm tư, bằng không đã chẳng chịu đựng được lâu đến thế trong cảnh bị giam cầm uy hiếp thế này.

Chị Tố thoắt cái đã lại vẽ xong một món, chậm rãi hỏi, “Cậu có biết Thanh minh thượng hà đồ không?”

Câu này dễ quá, Thanh minh thượng hà đồ là bức tranh khổ lớn về phong cảnh Biện Lương do Trương Trạch Đoan thời Bắc Tống vẽ, miêu tả chi tiết cảnh phố phường ở kinh đô Biện Lương vào tiết Thanh minh, tường tận tỉ mỉ, có giá trị văn hóa lịch sử cực cao, là báu vật hàng đầu của quốc gia. Ai học đến cấp ba cũng biết giá trị bức họa này.

Nhưng chúng tôi rõ ràng đang ở trong xưởng gốm, nói về Lão Triều Phụng, sao bỗng dưng chị Tố lại nhắc tới một vấn đề không liên quan thế này?

“Cậu có biết Thanh minh thượng hà đồ giờ ở đâu không?” Chị Tố lại hỏi.

Câu này tôi cũng biết. Bản gốc của Thanh minh thượng hà đồ vốn được cất giữ trong Tử Cấm Thành, về sau bị Phổ Nghi đem đến Mãn Châu quốc. Sau khi kháng chiến chống Nhật thành công, thời cuộc hỗn loạn, vô số kẻ xông vào hoàng cung Mãn Châu hôi của, tranh quý cũng lưu lạc trong dân gian. Mãi đến khi giải phóng Trường Xuân, quân giải phóng lùng sục tìm kiếm khắp nơi mới thấy bức tranh này, thoạt tiên họ bảo tồn nó trong bảo tàng Đông Bắc, sau đó đưa tới Cố cung Bắc Kinh, đến nay vẫn còn ở đó. Những lắt léo bên trong đã trở thành một câu chuyện truyền kỳ trong giới, đủ để quay thành phim.

Chị Tố gật đầu tán thưởng rồi tiếp, “Nghe đồn xưa nay bức tranh này có rất nhiều bản nhái bản phỏng, nên sau khi được đưa về Cố cung, cấp trên đã triệu tập một nhóm chuyên gia, thành lập tổ giám định để giám định toàn diện. Năm 1951 bức tranh được đưa vào Cố cung, tổ giám định chia thành hai phe, tranh luận liên miên. Sau cùng một chuyên gia đức cao vọng trọng đứng ra khẳng định bản này là thật, từ ấy mới có kết luận.” Kể tới đây, chị Tố giơ tay lên, nói chậm hẳn lại, “Kẻ này chính là Lão Triều Phụng.”

Tôi sáng mắt lên. Nếu Lão Triều Phụng cũng tham gia giám định Thanh minh thượng hà đồ thì rất dễ tra ra thân phận. Nhưng nghĩ lại thấy băn khoăn, “Làm sao có thể biến việc Lão Triều Phụng tham gia giám định bức tranh thành dao nhọn chọc trúng tử huyệt của lão được?”

“Nếu bức tranh đó có vấn đề thì sao?” Chị Tố vặn lại.

Câu này buông ra hết sức thản nhiên, nhưng tôi lại nghe như sét đánh ngang tai. Thanh minh thượng hà đồ quá nổi tiếng, nếu là đồ giả, cấp trên chủ quản ban ngành nhất định sẽ tra lại biên bản giám định, xác định người phải chịu trách nhiệm. Bất luận bấy giờ Lão Triều Phụng nhìn lầm hay có ý đồ nào khác, cũng sẽ thân bại danh liệt, không thể náu mình trong bóng tối được nữa.

Nhưng chuyện đâu có đơn giản thế.

Phải biết rằng tuy thư họa cũng là cổ vật, nhưng lại thuộc một dạng riêng, không giống những đồ cổ khác. Gốm xem men, đồng xem gỉ, ngọc xem bóng, đều là các tiêu chí khách quan. Nhưng một bức tranh chữ là thủ bút của danh gia nào đó lại không có tiêu chuẩn khách quan, chủ yếu dựa vào mắt nhìn và kinh nghiệm của người giám định, phụ thuộc cảm giác, hoàn toàn là ý kiến chủ quan. Cùng một cây trúc, anh bảo là Trịnh Bản Kiều vẽ, tôi lại bảo không phải, vậy thì chỉ có thể xem thâm niên ai cao hơn. Thế nên giám định thư họa có lúc thực ra là so uy tín và lai lịch.

Thanh minh thượng hà đồ là quốc bảo, nếu không có chứng cứ rành rành, rất khó lật lại kết luận giám định ban đầu. Chị Tố quả quyết khẳng định bức tranh này có vấn đề, lẽ nào trong tay bà ta đang nắm bí mật động trời gì đó có thể một đòn tất trúng?

“Bức tranh đó có vấn đề gì?” Tôi háo hức nghển cổ hỏi.

Chị Tố đáp, “Tôi không chắc.”

Tôi suýt gãy cổ, đợi mãi chỉ được một câu “không chắc” là sao?

Chị Tố giải thích, “Tôi chỉ tình cờ biết một nghi vấn về Thanh minh thượng hà đồ, còn nghi vấn đó có đúng hay không phải do cậu đi tìm hiểu.” Tôi thất vọng toàn tập, ngồi phệt xuống đất, nghe ngóng mãi, hóa ra chỉ là một suy đoán, cứ tưởng là bí mật long trời lở đất gì cơ đấy. Nghe tôi thở dài, chị Tố nhíu mày, gương mặt bình thản lần đầu tiên lộ vẻ giận dữ, “Cậu kia, nếu cậu thấy vô ích thì xem như tôi chưa nói. Cút về há miệng mà chờ sung đi.”

Thấy chị Tố nổi giận, tôi vội xin lỗi rối rít. Lão Triều Phụng xảo quyệt như thế, đâu thể để lộ sơ hở rành rành cho người ta đến tóm gáy, muốn đối phó với lão, chỉ còn cách nắm bắt từng chi tiết vụn vặt mà thôi. Vừa rồi tôi đã kỳ vọng quá cao nên nhất thời thất thố, phải nhận lỗi với chị Tố. Bà ta thở dài, “Cậu vừa nghe nhắc tới Lão Triều Phụng đã nôn nóng như thế, làm sao đối phó nổi lão?”

Tôi gắng nén sốt ruột, lên tiếng giục, “Tôi biết lỗi rồi, bà cứ nói đi, tôi đang chăm chú nghe đây.” Nói rồi tôi bồn chồn đi đi lại lại mấy bước, như một chú mèo thấy cá trên đĩa mà không với nổi lên bàn vậy.

“Nếu chẳng phải không còn lựa chọn nào khác, tôi cũng chẳng muốn nhờ cậu đâu…” Chị Tố cười nhạt rồi tiếp, “Năm 1951, khi Thanh minh thượng hà đồ được đưa về Cố cung giám định, tôi đang học hội họa Trung Hoa, thầy giáo tôi suýt nữa cũng được đưa vào nhóm chuyên gia. Tuy thầy không được thấy đồ thật, nhưng cũng nghe ngóng được vài tin tức. Sau khi công bố kết quả giám định, thầy vẫn luôn nghi ngờ, nhưng đắn đo nhiều chuyện, không dám nói ra, chỉ thổ lộ với tôi. Suốt đời thầy không có cơ hội kiểm chứng nghi vấn này, giờ xem ra cả tôi cũng không còn cơ hội nữa. Tôi giao lại nó cho cậu, hy vọng cậu đừng để chúng tôi thất vọng.”

Tôi không dám nhanh nhảu hỏi han nữa mà ngồi thẳng lưng, thở đều, lặng thinh lắng nghe.

Chị Tố đặt bút xuống, thong thả kể, “Muốn kể rõ việc này, phải nói từ quá trình lưu truyền Thanh minh thượng hà đồ. Cậu muốn tìm Lão Triều Phụng báo thù đúng không? Thế thì chịu khó mà nghe cho hết. Đằng sau bức tranh này cũng có một câu chuyện báo thù thê thảm, liên quan mật thiết đến hiện tại đấy.”

“Vâng.” Tôi vội gật đầu.

Chị Tố chậm rãi kể, “Thanh minh thượng hà đồ do một họa sĩ cung đình tên Trương Trạch Đoan vẽ ra dưới thời Tống Huy Tông nhà Bắc Tống, hẳn cậu cũng biết rồi. Sau khi hoàn thành, Trương Trạch Đoan dâng nó lên Tống Huy Tông. Tống Huy Tông đích thân đề năm chữ Thanh minh thượng hà đồ, đóng dấu song long lên rồi thu vào cung cấm. Tiếc rằng chẳng được mấy năm thì xảy ra nạn Tĩnh Khang, bức tranh này rơi vào tay Trương Chiêu nhà Kim. May sao Thanh minh thượng hà đồ là báu vật vô giá, kẻ nào có được cũng giữ gìn kỹ lưỡng, từ thời Kim, Nam Tống rồi đến thời Nguyên, nó đã qua tay mấy chục người, may mắn không bị hủy hoại trong chiến tranh. Đến thời Minh, bức tranh này thoạt đầu thuộc về Chu Hạc Pha, sau đó truyền đến Từ Phổ, Lý Đông Dương, rồi rơi vào tay thượng thư bộ Binh Lục Hoàn dưới triều Gia Tĩnh. Lục Hoàn yêu quý vô cùng, ngày nào cũng ngắm. Trước lúc lâm chung, ông ta trối lại với vợ rằng bức tranh này là báu vật gia truyền, phải giữ gìn cẩn thận. Ngờ đâu lời trăng trối ấy lại dẫn tới một chuyện lớn.”

Giọng chị Tố đều đều, nhưng đến đây lại đột nhiên cao hẳn lên như đang kể chuyện rong. Tôi sực nhớ vừa rồi chị Tố kể năm 1951 bà ta đang học vẽ, xem ra trước khi nghiên cứu hoa văn trên gốm, bà ta vốn là họa sĩ tài danh, chuyên môn chính là thư họa. Bị giam cầm ở đây, bao chuyện cũ trong nghề chẳng biết tỏ cùng ai, khó khăn lắm mới đợi được một người chịu nghe, nên bà ta phải nói cho bõ.

Chị Tố “nhìn” tôi rồi kể tiếp, “Lục Hoàn chết đi, Lục phu nhân theo lời trăng trối, khâu Thanh minh thượng hà đồ vào trong gối, không rời một khắc, đến con trai mình cũng không cho chạm vào. Bà ta có một đứa cháu đằng ngoại, họ Vương, cũng cực kỳ mê tranh chữ. Biết nhà họ Lục có Thanh minh thượng hà đồ, hắn đã nhòm ngó từ lâu, chỉ vì Lục Hoàn giữ quá kỹ nên không dám mở miệng đòi mượn. Mãi mới chờ được đến khi Lục Hoàn mất, hắn bèn tới tìm Lục phu nhân xin bà cho ngắm một lần. Lục phu nhân nghe hắn nài nỉ mãi cũng mềm lòng, bèn ra điều kiện chỉ được xem tại chỗ, không được cầm đi, không được đem theo giấy bút, hơn nữa còn không được tiết lộ với người khác. Tên họ Vương vâng dạ rối rít, tay không đến xem, xem liền mấy chục lần, mất khoảng hai ba tháng, sau đó dựa vào trí nhớ kinh người, âm thầm vẽ phỏng một bức y hệt.”

Tôi hít vào một hơi. Tranh phong cảnh hay chân dung nào khác còn đỡ, song Thanh minh thượng hà đồ là tranh vẽ toàn cảnh Biện Lương, đầy đủ nhà cửa, thuyền bè, cầu đường, đồ đạc, ngựa xe, cờ quạt, còn cả mấy trăm dân chúng Biện Lương chẳng ai giống ai, vậy mà tên họ Vương kia có thể âm thầm sao chép lại y hệt, trí nhớ thật không phải tầm thường.

Tới đây, chị Tố lại chuyển chủ đề, “Dưới triều Gia Tĩnh có một tên đại gian thần tên Nghiêm Tung, con trai lão là Nghiêm Thế Phiên. Nghiêm Thế Phiên tàn nhẫn hiểm độc, lại thích sưu tầm những thư họa quý hiếm, luôn khao khát bức Thanh minh thượng hà đồ. Đô ngự sử Vương Thư có việc nhờ vả nhà họ Nghiêm, bèn bỏ ra tám trăm lạng bạc mua lại bức tranh chép từ tên họ Vương, giả làm đồ thật dâng lên Nghiêm Thế Phiên. Nghiêm Thế Phiên mừng rỡ khôn xiết, vời thợ bồi Thang Thần trong phủ tới bồi tranh. Thang Thần thoạt nhìn đã nhận ra đây là đồ giả, vin cớ ấy bắt chẹt Vương Thư lấy một số tiền lớn. Song Vương Thư chẳng buồn đếm xỉa tới y, Thang Thần nổi giận bèn tố cáo với Nghiêm Thế Phiên tranh nọ là đồ giả, sơ hở rành rành.”

Kể tới đây, chị Tố cố ý kéo dài giọng, thấy tôi háo hức nghển cổ đằng hắng một tiếng, bà ta mới tiếp tục, “Thanh minh thượng hà đồ vẽ cảnh phố phường Biện Lương, bên trong từ tiệm ăn, quán rượu, nhà dân, hiệu xe ngựa, hàng tạp hóa đều được khắc họa vô cùng tinh tế. Trong đó có vẽ một sòng bạc, bốn tên cờ bạc vây quanh bàn gieo súc sắc. Súc sắc tổng cộng sáu viên, trong đó năm viên đều ngửa mặt lục lên, chỉ còn một viên xoay tít, mấy con bạc đều há miệng hò reo. Thang Thần mách với Nghiêm Thế Phiên, theo lẽ thường, mấy tên này đều phải hô ‘Lục, lục, lục’. Mà thời Tống, theo giọng Biện Lương thì ‘Lục’ là âm tròn miệng, phải chúm miệng cho tròn mới đúng, song mấy tên kia đều há miệng, nói bằng giọng Phúc Kiến. Từ đó đủ thấy đây là đồ giả.”

“Chẳng phải nói đã sao chép lại y hệt ư?” Tôi giơ tay trong bóng tối, thắc mắc.

“Thời cổ chưa có máy in, cũng không có máy ảnh, mà Thanh minh thượng hà đồ lại có vô vàn tình tiết vụn vặt. Tên họ Vương chép lại theo trí nhớ, khó tránh sai lệch chút ít, những chi tiết nhỏ nhặt này hẳn là hắn vẽ liền một lèo, không kịp suy xét kỹ.” Chị Tố giải thích qua, rồi tiếp tục kể, “Biết được bức tranh Vương Thư dâng là đồ giả, Nghiêm Thế Phiên đùng đùng nổi giận, mách với Nghiêm Tung. Nghiêm Tung ôm hận, gán cho Vương Thư một tội danh hiếm rồi hại chết. Lúc này Thang Thần lại mách với Nghiêm Thế Phiên rằng bức tranh này giống thật như thế, nhất định kẻ vẽ ra đã tận mắt trông thấy bản gốc. Nghiêm Thế Phiên lần theo manh mối ấy, tra ra tên họ Vương, rồi tra đến nhà họ Lục. Nghe ngóng được Lục phu nhân đã mất, bản gốc đã được người nhà họ Lục bán cho nhà họ Cố ở Côn Sơn, Nghiêm Thế Phiên bèn giở trò cướp trắng bản gốc từ nhà họ Cố, cất giữ trong phủ. Song hắn không ngờ Vương Thư lại có một người con trai, vẫn nuôi lòng căm hận hắn. Người này tên Vương Thế Trinh, cậu có biết không?”

Tôi vội gật đầu. Đây là một danh gia về văn học và sử học khá nổi tiếng, có thể xếp vào hàng năm người đứng đầu triều Vạn Lịch nhà Minh, song tôi không ngờ cha ông ta lại là Vương Thư trong câu chuyện này.

“Vương Thế Trinh còn trẻ, lừng danh kinh thành về văn tài. Ngoài thơ văn ra, tiểu thuyết và kịch ông ta viết cũng rất hay. Sau khi Vương Thư qua đời, một lần ông ta đến phủ họ Nghiêm, Nghiêm Thế Phiên hỏi ông ta gần đây có tác phẩm mới nào đáng đọc không, Vương Thế Trinh vô cùng căm hận hung thủ hại chết cha mình, song bản thân không quyền không thế, đành khéo léo đáp rằng không có. Nghiêm Thế Phiên không tin, gạn hỏi mấy lần, Vương Thế Trinh thấy trên bàn đặt một lọ vàng, trong cắm cành mai, bí quá hóa liều, đành đáp gần đây chỉ viết được một bộ tiểu thuyết tên là Kim Bình Mai.”

Kim Bình Mai ư? Tác giả Kim Bình Mai không phải Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh à?” Tôi càng nghe càng bối rối, sao đang từ Thanh minh thượng hà đồ lại sang Kim Bình Mai rồi?

Chị Tố đáp, “Đó là bút danh thôi, cậu cứ nghe tôi kể hết đã. Nghe nói Vương Thế Trinh về nhà ngẫm nghĩ, bèn nảy ra một ý. Ông ta căn cứ vào một hồi trong Thủy Hử, mải miết viết suốt mấy ngày mới xong bản thảo Kim Bình Mai. Vương Thế Trinh biết Nghiêm Thế Phiên dâm dật, cố ý kể rất nhiều chuyện nam nữ trong đó, còn đặt tên nam chính là Tây Môn Khánh, bởi Nghiêm Thế Phiên có hiệu là Đông Lâu. Viết xong, Vương Thế Trinh tẩm độc vào mấy trang quan trọng kia, còn cố ý để chúng dính liền nhau không rọc, rồi mang đến phủ Nghiêm. Nghiêm Thế Phiên cực kỳ yêu thích bộ sách, không hề rời tay. Đọc đến những chỗ mấu chốt, phát hiện bị dính trang, hắn bèn dấp nước bọt vào ngón tay để vê, vê một lần hai lần, độc dược trên trang sách cũng được đưa vào miệng. Chẳng bao lâu sau Nghiêm Thế Phiên phát độc mà chết, trước khi chết dặn thuộc hạ, lúc quàn chỉ cho người thân lại gần. Hôm đưa ma, bỗng đâu lại có một thư sinh áo trắng đến gào khóc thảm thiết. Người phủ Nghiêm thấy kẻ nọ khóc lóc thật tình, quên bẵng lời Nghiêm Thế Phiên dặn, cho y vào linh đường. Thư sinh nọ nhào tới quan tài còn chưa đậy nắp, kêu khóc thêm một chập, tới khi y đi rồi, phủ Nghiêm mới phát hiện một cánh tay Nghiêm Thế Phiên đã bị gã thư sinh kia lấy đi mất. Về sau phủ Nghiêm kiểm kê lại, phát hiện bức Thanh minh thượng hà đồ cũng mất nốt. Có điều họ chẳng hơi đâu điều tra, bởi sau khi Nghiêm Thế Phiên chết không lâu, Nghiêm Tung cũng bị kẻ thù chính trị đánh đổ. Lúc kê biên tài sản phủ Nghiêm, triều đình thấy có Thanh minh thượng hà đồ, bèn thu vào nội phủ.”

“Khoan đã…” Tôi cắt lời chị Tố, “Bà nhầm rồi thì phải? Chẳng phải bà nói Thanh minh thượng hà đồ bị gã thư sinh kia đánh cắp rồi sao? Sao triều đình còn tìm được ở phủ Nghiêm?” Chị Tố đáp, “Cậu nghe không kỹ thì có. Tôi hỏi nhé, phủ Nghiêm tổng cộng có mấy bức Thanh minh thượng hà đồ?”

“Một bức, à không, hai bức. Bản gốc của Trương Trạch Đoàn và bản sao của tên Vương.” Tôi sực hiểu ra.

“Đúng vậy. Thư sinh nọ cầm đi một bản, triều đình thu giữ một bản. Hai bản gần như giống hệt nhau, rốt cuộc bức nào thật bức nào giả, trừ kẻ lành nghề như Thang Thần ra, chẳng ai biết được.” Giọng chị Tố đều đều, nhưng tôi nghe ra ẩn ý của bà ta, “Bức được đưa vào nội chủ nhà Minh, chưa chắc đã là thật.”

“Những câu chuyện báo thù từ thời Minh liên quan gì tới Lão Triều Phụng?” Tôi kéo chủ đề câu chuyện về thì hiện tại. Câu chuyện của Vương Thế Trinh quả là ngoắt ngoéo, nhưng dù sao cũng từ thời Minh, đối với tôi, hiện thực mới là quan trọng nhất.

“Cậu nghe tôi kể đã. Bức Thanh minh thượng hà đồ được thu vào nội phủ, dưới thời Vạn Lịch do đại thái giám Phùng Bảo cất giữ. Sau đó chế độ chuyển từ Minh sang Thanh, nó cũng qua tay mấy người, cuối cùng rơi vào tay hoàng thất Mãn Thanh, được Gia Khánh đế xếp vào Thạch cừ bảo cấp tam biên giữ gìn cẩn mật. Sau đó nữa thì bị Phổ Nghi đưa đến Trường Xuân, lưu lạc dân gian, sau giải phóng mới được đưa về Cố cung…”

Tôi rúng động, “Ý bà là bức Thanh minh thượng hà đồ trong Cố cung hiện giờ thực ra là bản sao của tên Vương, bị Lão Triều Phụng nhìn lầm thành bản thật ư?”

Chị Tố khẽ lắc đầu, “Tôi không dám chắc, thầy tôi cũng không dám chắc, tất cả đều là truyền thuyết, thế nên mới cần cậu kiểm chứng. Theo lý, câu chuyện của Vương Thế Trinh đã được lưu truyền rất rộng, người thời đó có nhiều ghi chép nhắc đến, thậm chí còn cải biên thành kịch Một nắm tuyết, chẳng có gì là bí mật. Những chuyên gia lão luyện tham gia giám định không lý nào không biết chuyện này, rất khó bỏ qua sơ hở đó. Nhưng nghi vấn mà thầy tôi phát hiện, không chỉ có vậy.”

Chị Tố vẫy tôi lại gần ghé tai nói nhỏ mấy câu. Thoạt tiên tôi bàng hoàng, sau đó gật đầu lia lịa, cuối cùng nói đã nhớ cả. Bà ta bắt tôi lặp lại lần nữa, thấy không còn gì sai sót, mới như trút được gánh nặng, “Tự do của tôi là chuyện nhỏ, Thanh minh thượng hà đồ mới là chuyện lớn. Nếu cậu có thể từ đó mà tóm được Lão Triều Phụng thì coi như tôi không uổng công chịu khổ mấy năm nay.”

Dứt lời bà ta thở hắt ra, trong bóng tối, vóc dáng bà ta trông vô cùng võ vàng yếu ớt. Tôi ngưỡng mộ nhìn đại sư mù trước mặt, vỗ ngực cam đoan, “Bà yên tâm, rời khỏi làng Thành Tế tôi sẽ báo cảnh sát ngay, rồi lập tức quay về thủ đô tới Cố cung kiểm tra, không dám chậm trễ.”

Chị Tố giơ một ngón tay. “Tôi đề nghị, trước hết cậu đừng báo với Minh Nhãn Mai Hoa. Mấy ông già bà lão đó ai cũng có lòng riêng, cậu nói với họ, chẳng biết sẽ dẫn tới sóng gió gì nữa.”

Tôi vâng dạ, hết mực tán đồng. Lần này tôi tới Trịnh Châu cũng giấu giếm Hội, dĩ nhiên không đời nào kể với họ. Huống hồ trước giờ tôi vẫn không sao đoán được bụng dạ nhà họ Lưu. Nếu kể lại chuyện này cho họ, có lẽ Lưu Nhất Minh sẽ tìm cớ ngăn cản, thế là mọi chuyện đi tong. Chừng nào điều tra rõ ràng mọi chuyện, tôi đem khoe với họ cũng chẳng muộn, tới lúc ấy, thái độ Lưu Nhất Minh sẽ thế nào nhỉ.

“À phải, tôi còn chuyện riêng muốn nhờ cậu.” Chị Tố nói. Sau đó tôi nghe tiếng bà ta đi tới một góc khác trong phòng, mở ngăn kéo ra, rồi lại quay về chỗ. Đoạn bà ta nhét một vật nho nhỏ vào tay tôi, bề mặt hơi gồ ghề, sờ thì thấy có lẽ là một thủy trì sứ cánh sen.

“Nếu có cơ hội thì giao vật này cho Hoàng Khắc Vũ.” Chị Tố gắng giữ giọng đều đều, song tôi vẫn nhận ra vẻ ngại ngùng. Tôi thầm nghĩ, tính ra năm xưa khi Hoàng Khắc Vũ đến Trịnh Châu, chị Tố mới vừa đôi tám, chớm biết yêu, chưa chừng giữa hai người lại có một đoạn… ừm, kẻ hậu bối chúng tôi thực không nên đoán mò.

Tôi không dám để lộ những suy nghĩ lung tung ấy, ngoan ngoãn cất thủy trì vào túi ngực. Chị Tố cầm chiếc cốc cỡ đại bằng sứ Đường trên bàn làm việc, ực một ngụm trà nguội ngắt. “Những điều cần dặn tôi đã dặn cả rồi, tiếp theo đây phải xem làm sao để đưa được cậu ra ngoài.”

Tôi vỗ trán, quên khuấy vấn đề cấp thiết trước mắt. Tối qua náo động như vậy, e rằng hôm nay đám bảo vệ sẽ tăng cường cảnh giác, muốn trốn chắc chắn khó hơn nhiều. Chị Tố nghĩ ngợi giây lát, chợt hỏi, “Cậu có sợ bẩn không?”

Tôi ngẩn ra rồi đáp không sợ. Bà ta gật đầu rồi nhặt mấy túi ni lông dưới đất đưa cho tôi, tôi còn chưa hiểu đầu cua tai nheo gì thì bà ta lại cầm lên một thứ.

Tuy trong phòng tối tăm không trông rõ hình dạng, nhưng tôi vẫn thấy vật nọ lấp lóe đèn xanh, còn phát ra tiếng lẹt xẹt.

“Cậu có trốn ra được hay không, phải nhờ vào nó.”

Trong tay bà ta là một máy bộ đàm cầm tay công suất nhỏ.

Thứ này tôi cũng từng dùng, phạm vi liên lạc được đến mấy trăm mét. Xưởng gốm này không rộng lắm, không cần bắc dây điện thoại chuyên dụng, dùng cái này tiện hơn. Có điều bọn chúng cho riêng bà ta một cái, có thể thấy khá là trọng vọng.

Chị Tố cầm bộ đàm, thành thạo xoay nút rồi nói, “Xong rồi, tới nhận hàng đi.”

Bà ta nhắc lại ba lần, đầu kia mới có tiếng đáp, giọng ngái ngủ thấy rõ, “Chị Tố à, trời chưa sáng mà? Bình thường chẳng phải tám giờ mới nhận sao? Thợ tráng men chưa ngủ dậy nữa.”

Chị Tố lạnh lùng, “Các chú phải đến lấy ngay. Bằng không hoa văn bị ẩm lại biến dạng thì đừng trách tôi.” Đầu kia làu bàu mấy tiếng, cuối cùng vẫn đồng ý.

Chị Tố kể rằng bà ta thường làm việc về đêm nên sáng sớm hôm sau thợ sẽ tới lấy những đồ đã được trang trí đi, đưa sang phòng bên cạnh tráng men rồi cho vào lò nung. Bởi thế giờ bà ta gọi bọn chúng tới lấy sớm hơn, sẽ không gây nghi ngờ. Đoạn bà ta lại cặn kẽ chỉ cho tôi từng đường đi nước bước, tôi nghe xong chỉ biết bối rối nhệch miệng, gắng gượng đồng ý.

Chẳng bao lâu sau, thợ tráng men đã tới trước cửa, áng chừng bảy tám người, ngáp dài ngáp ngắn. Chị Tố mở cửa cho chúng vào, nhưng không cho bật đèn. Có lẽ chúng đã quen với tính chướng của chị Tố, cũng chẳng tranh cãi, ai nấy mò mẫm chuyển đồ trong bóng tối.

Vừa chuyển chúng vừa phàn nàn rằng phải bắt trộm đến nửa đêm, chẳng được ngủ gì cả. Chị Tố hỏi đã bắt được trộm chưa, chúng đáp rằng chưa thấy. Nghe nói Chung Ái Hoa bình yên vô sự, tôi vững dạ hẳn.

Đám thợ sắp thành hàng dài, mỗi tên ôm phôi gốm đi cách nhau vài ba bước. Đột nhiên chị Tố kéo tên cuối cùng lại nói, “Đại Xuyên đợi tí đã, tôi hỏi cái này.” Tên kia ngẩn ra rồi quay lại.

Tôi đã ôm sẵn một lọ lục bình to tướng để che mặt, thừa lúc ấy chen vào cuối hàng, thay chỗ y. Đám người này tên nào tên nấy mắt đều díp lại, trong phòng lại tối, chẳng ai nhận ra người đi cuối đã bị thay thế.

Tôi chẳng có cách nào từ biệt chị Tố, đành nhủ bụng một câu chúc phúc rồi theo đoàn người rồng rắn ra ngoài. Chị Tố nắm bắt thời gian cực chuẩn, giờ là thời khắc tốt nhất trước lúc bình minh, chẳng ai để ý tới toán người này. Chúng tôi đi được chừng 20 mét thì tới một gian xưởng mái bằng rộng rãi hơn. Đây hẳn là nơi tráng men, trước cửa chất một đống bột men màu trắng chưa hòa với nước. Tôi đi đến cạnh đống bột, thở hắt ra, khẽ trượt chân đi, cả người lẫn lọ ngã vào đống bột, tức thì dính đầy vụn men, mặt bự phấn, trông như thằng hề xiếc.

Mấy tên đi trước lũ lượt quay lại, không trông rõ mặt tôi, cứ ngỡ tôi là tên Đại Xuyên nọ, bèn cười ha hả trêu, giờ nhét luôn mày vào lò nung thế là được một con búp bê sứ. Tôi cố tình lúng búng mấy câu trong miệng, ra dấu phải đi cọ rửa cho sạch, bảo chúng cứ vào xưởng trước rồi quay người chạy về phía con kênh cạnh xưởng. Dọc đường bảo vệ thấy một kẻ cả người dính đầy bột trắng phớ cuống quýt chạy ra kênh rửa đều cười cợt, chẳng ai nghi ngờ.

Tới bờ sông, tôi nhét máy ảnh của Chung Ái Hoa, di động và ví tiền của mình vào túi ni lông, đội lên đầu rồi bơi qua. Con sông này không sâu, tôi lại bơi giỏi, chẳng mấy chốc đã sang bờ bên kia. Bột phấn bị rửa trôi hết, dĩ nhiên cả người cũng ướt sũng. Tôi chẳng còn bụng dạ nào hong khô, guồng chân chạy như bay qua bờ sông, băng qua mấy thửa ruộng mới dừng lại cạnh con kênh dẫn nước khuất nẻo, thở hồng hộc.

Từ đây trở đi, coi như tôi đã thoát khỏi phạm vi khống chế của đám người ở Viện nghiên cứu gốm Nhữ Thuận Châu. Tôi xác định phương hướng rồi men theo bờ rừng bờ ruộng đi về phía Đông hơn hai tiếng, mới tới đường huyện; chặn một chiếc xe buýt tuyến ngắn chuyên chạy qua mấy thôn làng rồi bước lên xe trong ánh mắt ngạc nhiên của hành khách và tài xế. Đến thị trấn gần đó, tôi mua mấy bộ đồ, tạt vào một nhà nghỉ chỉnh trang lại chút chút rồi tiếp tục bắt xe về Trịnh Châu.


Về tới Trịnh Châu, tôi chạy thẳng đến quán mì Lưu Ký, nơi hẹn gặp Chung Ái Hoa. Hỏi thăm ông chủ thì được ông ta đưa cho một tờ giấy ghi số điện thoại. Tôi bấm số gọi ngay, đầu kia nhanh chóng vang lên giọng mừng rỡ của Chung Ái Hoa, trò chuyện mấy câu, cậu ta bảo tôi đợi một lát rồi dập máy. Chưa đầy mười phút, Chung Ái Hoa thở hồng hộc chạy vào quán. Thấy cậu ta đầu tóc bù xù, quần áo vẫn tanh tanh mùi nước, tôi biết ngay sau khi quay về cậu ta vẫn chưa kịp tắm rửa thay quần áo, không khỏi vừa cảm động vừa áy náy.

Chung Ái Hoa gặp tôi cũng mừng như điên, nhìn trái ngó phải, thấy tôi không mất tay mất chân mới yên tâm ngồi xuống, gọi hai bát mì to, cho nhiều tỏi, nói là để trục hàn.

Chúng tôi vừa ăn mì vừa trao đổi những chuyện sau khi tách ra. Thì ra Chung Ái Hoa tách khỏi tôi, cũng chạy thẳng đến bờ sông. Cậu ta bơi rất giỏi, men theo sông chừng mười dặm mới lên bờ. Sau khi về Trịnh Châu, Chung Ái Hoa gọi điện cho tôi thấy tắt máy, đành gửi số điện thoại lại cho ông chủ tiệm mì, định rằng nếu sau hai mươi tư giờ tôi vẫn bặt vô âm tín, sẽ lập tức báo cảnh sát tới cứu người. Dĩ nhiên sau đó cậu ta cũng chẳng ngồi không, mà huy động tất cả quan hệ của mình để điều tra về làng Thành Tế. Làng này thuộc huyện Thuận Châu, nằm giữa Trịnh Châu và Lạc Dương, được coi là nơi đặt nền móng cho hàng mỹ nghệ phỏng cổ. Kẻ đứng tên ở Công ty vận tải Chấn Viễn chính là trưởng làng.

Chung Ái Hoa và tôi có thể coi là hoạn nạn có nhau nên lần này tôi không giấu giếm gì nữa, kể hết chuyện về chị Tố và Lão Triều Phụng cho cậu ta nghe. Chung Ái Hoa vừa nghe vừa ăn, nghẹn mì đến trợn ngược mắt lên. Cậu ta vốn chỉ nghĩ rằng đám người kia làm hàng giả, giờ hóa ra chúng còn dính líu tới bắt giữ người trái phép nữa.

Thình lình Chung Ái Hoa đập bàn hào hứng nói, “Tốt quá! Làng Thành Tế chẳng phải vẫn núp bóng hàng mỹ nghệ phỏng cổ ư? Thế thì chúng ta báo cảnh sát điều tra chúng về việc bắt giữ chị Tố trái phép. Tới lúc đó chỉ cần chị Tố đứng ra làm chứng thì làng Thành Tế cầm chắc tội làm giả văn vật.”

“Ừm, cách này hay đấy.” Tôi gật gù. Một mũi tên trúng hai con chim, vừa cứu được chị Tố, lại phá được ổ nhóm làm hàng giả.

“Chuyện này cứ giao cho em, thế anh định làm gì đây?”

Tôi xua tay nhìn ra ngoài cửa sổ, “Anh còn việc quan trọng, phải quay về Bắc Kinh. Anh không thể để chị Tố thất vọng được.”

Chung Ái Hoa phụ họa, “Em hiểu rồi. Ở Bắc Kinh em cũng có mấy người bạn làm báo, có cần em giới thiệu với anh không? Có lúc định hướng dư luận một cách hợp lý cũng quan trọng lắm đấy.”

Nghe Chung Ái Hoa nói, tôi bừng tỉnh. Nếu nghi ngờ của thầy chị Tố là đúng thì bức Thanh minh thượng hà đồ quả có vấn đề, sau khi tôi tìm ra chân tướng, ắt phải dựa vào sức ép dư luận xé to chuyện này ra mới có thể gây tiếng vang. Tôi không có bạn bè làm báo, cũng chẳng muốn dựa vào Minh Nhãn Mai Hoa, giờ được câu này của cậu ta, thực quý ngang tặng than trong tuyết.

Tôi bèn hỏi cách liên lạc với mấy người bạn của Chung Ái Hoa ở Bắc Kinh rồi bàn nhau khi nào nên đăng chuyên đề vạch trần hang ổ làm giả văn vật lên báo.

Theo tôi nghĩ, tốt nhất là để vụ việc Thanh minh thượng hà đồ và làng Thành Tế nổ ra cùng lúc, tạo sức ép trên nhiều mặt trận, chứng thực lẫn nhau, bảo đảm Lão Triều Phụng sẽ đi tong. Chung Ái Hoa luôn miệng khen hay, mắt sáng lên, xoa xoa tay, rõ ràng phương pháp này trúng ý cậu ta. Cũng phải thôi, bất cứ phóng viên nào có tư liệu sống về việc “Bắt kẻ đứng sau điều hành đường dây làm giả văn vật trên toàn quốc” chẳng mừng như bắt được vàng.

“Oa, anh siêu quá! Vừa có lý luận vừa có phương pháp, còn cả một bầu nhiệt huyết không bị thế tục vấy bẩn! Nếu giới giám định ai cũng như anh có phải tốt không.”

Nghe Chung Ái Hoa khen, tôi cũng phát ngượng, vội xua tay lia lịa, “Đừng nói thế, việc anh nên làm thôi mà. Trừ giả giữ thật vốn phải là gốc rễ của Minh Nhãn Mai Hoa mới đúng.” Chung Ái Hoa vội vàng rút sổ tay ra, hí hoáy ghi lại, “Câu này hay thật, em định lấy ra làm tiêu đề bài báo. À, phải rồi, nếu bài viết theo giọng kể của anh có được không?”

“Không hợp đâu…” Tôi nhíu mày.

“Báo chí yêu cầu tính chân thực, huống hồ anh làm việc đúng đắn, đâu có gì mất mặt. Chỉ ra sức tuyên dương những việc đúng đắn mới có thể phát huy chính nghĩa, thanh lọc nền nếp xã hội.” Nói tới đây, Chung Ái Hoa ưỡn ngực, cười đầy tự hào, “Đừng quên sứ mệnh của Watson là ghi lại phong thái của Holmes chứ.”

Chung Ái Hoa giỏi nói những lời đao to búa lớn hơn tôi nhiều, tôi nghe tràng “xã luận” của cậu ta mà choáng váng, thầm nghĩ chuyện này cũng chẳng có gì xấu, bèn nhận lời. Chung Ái Hoa bèn rút máy ghi âm ra, nói là muốn ghi lại, tôi bèn thuật lại lần nữa mọi chuyện từ Trịnh Châu đến làng Thành Tế.


Ăn mì xong, chúng tôi cũng đã trao đổi hòm hòm. Chung Ái Hoa xung phong đi mua vé về Bắc Kinh cho tôi còn tôi lo tìm nhà trọ thuê một phòng theo giờ, tắm nước nóng cho thoải mái, đoạn ngả người xuống giường. Tôi mơ màng chợp mắt một lúc, song không sao ngủ nổi, chợt nhớ tới thủy trì chị Tố gửi cho Hoàng Khắc Vũ bèn lấy ra mân mê ngắm nghía. Lúc bà ta đưa cho tôi, trời còn tối mịt, sau đó tôi lại mải chạy trốn, chưa có lúc nào nhìn kỹ.

Thủy trì này màu trắng sữa, vẽ hình non nước bằng men xanh bao quanh, mây lưng chừng núi, thuyền nổi giữa dòng, phong cách tổng thể vô cùng tĩnh tại, kỹ thuật cũng rất điêu luyện. Tôi lật úp nó lại, thấy dưới đáy có một lạc khoản hình vuông đề “Mai tố lan hương”, chẳng rõ có ngụ ý gì. Tôi săm soi ngắm nghía nó hồi lâu rồi ngủ thiếp đi.

Khi tôi tỉnh lại, Chung Ái Hoa đã đưa vé tàu đến. Tôi dặn dò cậu ta mấy câu rồi lên tàu về Bắc Kinh. Về đến Lưu Ly Xưởng, bước vào Tứ Hối Trai, tôi mới thở phào nhẹ nhõm, coi như đã về nhà. Yên Yên vẫn chưa về, tôi gọi điện mãi không được, có lẽ cô đang bận; Phương Chấn đi công tác, cục trưởng Lưu cũng không tới quấy rầy, cả Minh Nhãn Mai Hoa dường như đều đang bận rộn cải tổ, đến nỗi gần như quên bẵng kẻ tầm thường là tôi.

Nói thực lòng, tôi cũng thấy hơi trống trải. Rồi lại tự cười mình mâu thuẫn, chê người ta phiền phức, giờ người ta chẳng ngó ngàng đến lại thấy hụt hẫng.

Thực ra tình hình này rất đúng ý tôi, mọi người không chú ý, tôi càng dễ tập trung điều tra về Thanh minh thượng hà đồ.

Tôi nghỉ ngơi trong cửa hàng một lát rồi gọi điện cho giáo sư Trịnh. Giáo sư Trịnh là thầy Dược Bất Nhiên, lấy người của Minh Nhãn Mai Hoa nên cũng coi như một nửa thành viên của Hội. Minh Nhãn Mai Hoa không chỉ có cha truyền con nối, trừ năm dòng họ Lưu, Hoàng, Thẩm, Dược, Hứa, còn có những thành viên không chính thức như họ hàng, thầy trò, bạn bè, môn khách, huynh đệ kết bái của người trong Minh Nhãn Mai Hoa. Tới nay, Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa cũng có quan hệ với rất nhiều đơn vị nghiên cứu khoa học và trường đại học, thành viên lại càng thêm phức tạp. Người như giáo sư Trịnh, nói theo cách thời xưa là khách khanh, giờ thì mang danh cố vấn cho Hội.

Sau khi Dược Bất Nhiên làm phản, giáo sư Trịnh cũng lấy làm ân hận, lại đâm ra thân thiết với tôi. Ông cụ thường tới hiệu tôi ngồi chơi xơi nước, dạy tôi chút ít, có lúc hứng lên còn bán hộ vài món. Tôi vẫn nghi ngờ chẳng biết có phải ông đã chuyển toàn bộ tình cảm với Dược Bất Nhiên sang tôi không.

Thấy tôi gọi tới, giáo sư Trịnh vui vẻ hỏi mấy hôm nay tôi làm gì. Tôi úp mở đáp rằng đi lấy hàng, rồi hỏi ông có cách nào để chiêm ngưỡng tận mắt bức Thanh minh thượng hà đồ không. Giáo sư Trịnh ngẩn ra hỏi, sao cậu lại đổi sang nghiên cứu thư họa thế. Tôi bèn giải thích rằng muốn nâng cao trình độ văn hóa nên đang phải học thêm, thấy nhắc tới bức tranh này thành thử muốn xem tận mắt. Giáo sư Trịnh nói việc này rất khó, Thanh minh thượng hà đồ là quốc bảo cấp cao, được bảo tồn nghiêm ngặt trong phòng tranh ở Cố cung, không mở cho dân thường. Trừ phi có triển lãm quan trọng, bằng không muốn mở phòng tranh phải qua mười mấy lượt thủ tục và mấy ban ngành phê duyệt, còn cần lý do cực kỳ thuyết phục.

“Đừng nói cậu mà ngay Lưu Nhất Minh muốn xem cũng chưa chắc được phê duyệt. Cậu bỏ ý định ấy đi.” Giáo sư Trịnh chốt lại.

Tôi đã lường trước chuyện này nên cũng chẳng lấy gì làm thất vọng, cầm ống nghe hỏi tiếp, “Thế hồi trước khi đưa tranh về Cố cung, có những ai tham gia tổ giám định ạ?”

Giáo sư Trịnh ngờ vực hỏi lại, “Cậu hỏi chuyện này làm gì?”

“Tôi tò mò thôi.” Tôi viện cớ.

May mà giáo sư Trịnh không gặng tiếp, chỉ nghĩ ngợi một lát rồi đáp, “Nếu tôi nhớ không lầm thì danh sách đó được bảo mật.”

“Có gì mà phải bảo mật?” Tôi thắc mắc.

“Cậu đã nghe chuyện Văn Cơ quy Hán đồ chưa?” Rồi như đoán chắc tôi không biết, chẳng đợi trả lời, giáo sư Trịnh đã nói luôn, “Trước đây Cố cung từng thu được một bức Văn Cơ quy Hán đồ, lạc khoản đề Nam Tống, nên cho là tranh của Lý Đường, một trong bốn danh gia thời Nam Tống. Về sau bức tranh này lưu lạc đến Đông Bắc, được nhà nước thu lại giao cho Quách Mạt Nhược cầm đầu nhóm thẩm định. Lão Quách phát hiện thấy trên bức họa có mấy chữ ‘Chì Ứng ty Trương X vẽ’, X là chữ gì thì không nhìn rõ. Sau khi xem xét kỹ lưỡng, ông ta cho rằng đó là chữ Vũ. Thế là bức tranh này lại được quy thành tác phẩm của Trương Vũ thời Kim. Cậu nên biết giám định thư họa có tính chủ quan rất cao nên kết luận này đã gây ra nhiều tranh cãi gay gắt, rất nhiều người khăng khăng cho là Lý Đường vẽ, thậm chí có kẻ còn mang cả ba lô tư liệu đến tận Bắc Kinh tìm Quách Mạt Nhược tranh luận, ngày nào cũng có khách đến tận nhà tìm, phiền phức hết chỗ nói, khiến ông ta không sao chịu thấu.”

“Thế nên phải giữ kín danh sách các thành viên tham gia giám định Thanh minh thượng hà đồ?”

“Đúng vậy, họ không nêu tên chuyên gia cụ thể nào cả, mà chỉ công bố kết luận dưới danh nghĩa tổ giám định. Chỉ có cục trưởng Cục Quản lý hiện vật văn hóa bấy giờ là ngài Trịnh Chấn Đạc để lộ tên thôi, ông ấy là tổ trưởng tổ giám định.”

“Dù là người trong Minh Nhãn Mai Hoa cũng không được xem danh sách này ư?” Giọng tôi đầy thất vọng.

“Cũng chưa chắc… Thôi được, để tôi hỏi giúp cậu. Cậu cứ ở nhà đợi, đừng đi đâu nhé.” Giáo sư Trịnh nói như đang dỗ trẻ con vậy.

Đặt điện thoại xuống, tôi nghĩ ngợi một lát rồi liên lạc với một người bạn làm báo của Chung Ái Hoa ở Bắc Kinh. Tôi gọi tới, thấy ông ta rất vồn vã, xem ra Chung Ái Hoa đã có lời gửi gắm trước, thằng này làm việc đúng là chu đáo. Người nọ tên Lạc Thống, là phó tổng biên tập Tin chiều thủ đô, lượng in ấn cực lớn, rất có sức ảnh hưởng. Lạc Thống ít nhiều cũng biết về vụ việc đầu Phật nên rất tò mò về tôi, nói rằng chỉ cần tôi lấy được chứng cứ xác thực, ông ta sẽ cho đăng báo ngay.

Sắp xếp mọi chuyện xong xuôi, tôi quay ra dọn dẹp nhà cửa. Tôi có thói mỗi khi gặp phải việc lớn cần bình tĩnh suy xét, sẽ xoay ra dọn nhà để bình tâm lại, sắp xếp phân loại đồ đạc trong nhà đâu ra đấy có thể khiến tâm trí bình ổn thông suốt, khỏi lơ là sơ sót.

Giờ chỉ cách Lão Triều Phụng một bước, tôi không muốn để xảy ra sơ suất gì.

Tôi lấy từng món cổ vật trong nhà ra lau sạch rồi lại bọc vào, sau đó quét sạch sàn nhà, bỏ áo khoác và quần vào máy giặt. Nghe coong một tiếng, tôi mới nhớ ra trong túi áo khoác còn thủy trì của chị Tố, vội lấy nó ra, đắn đo giây lát, quyết định chưa đưa cho Hoàng Khắc Vũ vội. Lỡ như giữa hai người có nghiệt duyên thật, thấy tín vật hẹn ước ông ta lại xúc động phát bệnh tim, chẳng phải Yên Yên sẽ chém chết tôi sao. Đợi xong xuôi mọi chuyện, Yên Yên trở về, nhờ cô đưa cho ông ta thì hơn. Nghĩ vậy tôi tiện tay đặt sang một bên, tiếp tục công việc.

Dọn dẹp một lượt, hết hơn hai tiếng. Làm xong, tôi nằm lăn ra giường thở hồng hộc, chợt nghe bên ngoài có tiếng gõ cửa. Ngỡ là khách, tôi uể oải đáp hôm nay không bán hàng, nào ngờ bên kia quát lên, “Hứa Nguyện cậu giỏi lắm! Mau ra đây!” Ngẩng lên nhìn, hóa ra giáo sư Trịnh đích thân đến, còn xách hai chai bia và một túi lạc cay Tứ Xuyên.

Tôi vội chạy ra đón, tươi cười đỡ lấy bia và lạc. Giáo sư Trịnh vào đề ngay, “Tôi hỏi hộ cậu rồi, danh sách bảo mật, muốn xem cũng được, cứ lấy thư giới thiệu của Quốc vụ viện đem đến.”

“Thế cũng ngang bằng không cho xem rồi… Thấy giáo sư đến tận đây, tôi cứ tưởng có tin vui cơ đấy.” Tôi bốc một nắm lạc trong túi, xát vỏ rồi nhai lai rai.

Giáo sư Trịnh nhíu mày, “Ý cậu là tôi không làm được việc thì không được đến đây đúng không?” Tôi vội phân trần đầu có, hoan nghênh giáo sư ngày nào cũng đến, được giáo sư đại học trông hàng hộ lợi hết chỗ nói. Giáo sư Trịnh hừm một tiếng, tự bê ghế ra ngồi. Tôi lấy đĩa đổ lạc vào, rồi lấy thêm hai cái cốc, khui bia ra.

Giáo sư Trịnh hớp một ngụm nhỏ, nhón hai viên lạc lên, “Chuyến này cậu đi mất mấy ngày làm tôi chẳng có ai nói chuyện.”

“Những người khác đâu ạ?”

“Ôi chao, ai cũng bận bịu cả. Hội định cải tổ, đâu phải chuyện vừa, giờ mọi người đều xoay như chong chóng quanh việc này, chỉ có tôi rảnh rỗi thôi.” Giáo sư Trịnh nói vẻ tự trào rồi lại uống thêm hớp nữa, mặt bắt đầu đỏ lên. Ông mê rượu nhưng tửu lượng rất kém, đành uống ít bia cho đỡ nghiền. Thấy ông có vẻ buồn, tôi hỏi dò, “Họ không cho giáo sư tham gia ư?”

Giáo sư Trịnh đặt cạch cốc bia xuống bàn, nhìn tôi, “Cậu đừng nghĩ tôi oán trách vì bị xem nhẹ, chẳng qua có vài chuyện tôi nghĩ không thông thôi. Tôi xem phương án của ông Lưu rồi, cảm thấy nếu hội cải tổ theo hướng đó, tính chất cũng sẽ khác đi nhiều. Minh Nhãn Mai Hoa vốn làm gì hả? Trừ giả giữ thật! Nhưng sau khi cải tổ, lại định mở sàn đấu giá.”

“Đấu giá ư?” Tôi kinh ngạc, không ngờ hội lại muốn thay đổi theo hướng này.

Giáo sư Trịnh thao thao xổ ra một tràng. Bấy giờ tôi mới biết Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa cải tổ là để xây dựng sàn đấu giá cổ vật tư nhân đầu tiên trong nước. Sàn đấu giá vẫn còn khá mới ở trong nước, gần đây chính sách quốc gia lại vừa nói lỏng, với tầm nhìn và tham vọng của Lưu Nhất Minh, nhất định ông ta muốn nắm bắt cơ hội lần này để chiếm lấy thị trường, trở thành Sotheby’s hay Christie’s. Với thị trường cổ vật, sàn đấu giá nghĩa là gì? Là bản tuyên ngôn, là đội tuyên truyền, là máy gieo hạt. Nó là chiếc mô tơ công suất cực mạnh, có thể mở rộng thị trường cổ vật cao cấp, thay đổi hoàn toàn diện mạo giới cổ vật Trung Quốc. Chỉ cần đưa ra đấu giá một hai món văn vật giá trên trời, cả thị trường sẽ bị kéo theo, tới lúc đó anh muốn món gì nổi lên, nó sẽ gây sốt trên thị trường; anh bảo món nào bao nhiêu tiền, nó sẽ có giá bấy nhiêu. Nắm được xu hướng và giá cả thị trường, ắt thu được lợi ích khổng lồ.

Dựa vào thanh danh bao nhiêu năm trong giới của Minh Nhãn Mai Hoa, mở sàn đấu giá ắt sẽ khẳng định ngay được địa vị. Có Minh Nhãn Mai Hoa chống lưng, còn sợ sàn đấu giá bán đồ giả hay sao? Có điều sàn đấu giá liên quan tới rất nhiều thứ, vô cùng phức tạp, quan hệ, chính sách, vốn liếng, chuyên gia, đều không được thiếu, càng không thể không có sự ủng hộ của cả giới cổ vật. Khối lượng công việc khổng lồ như thế, hèn nào Minh Nhãn Mai Hoa luôn chân luôn tay.

“Mở sàn đấu giá sẽ kiếm được hơn trước đây nhiều, song lợi ích chồng chéo trong Minh Nhãn Mai Hoa quá rộng quá phức tạp, cũng không hề đơn giản. Giờ xã hội luôn hô hào phải nhắm đến kinh tế, nhưng Hội ta không thể nhất thời hăng lên, tham cái lợi trước mắt mà hủy hoại danh tiếng, phải không nào? Minh Nhãn Mai Hoa làm thế này sẽ trở thành trọng tài bóng đá, sớm muộn cũng xảy ra chuyện. Ai ai cũng bảo chế tạo tên lửa đạn đạo còn chẳng bằng bán trứng luộc trà, tôi nghe mà bực cả mình. Không ngờ Minh Nhãn Mai Hoa chúng ta cũng định nhắm đến kinh tế…” Giáo sư Trịnh lắc chai bia, “Ôi thôi, không nói chuyện đó nữa, nói về cậu đi, sao cậu tự dưng lại quan tâm tới Thanh minh thượng hà đồ vậy, nó đâu thuộc chuyên môn của cậu?”

“Tôi nói rồi đấy thôi, định học hỏi nâng cao trình độ văn hóa mà.”

Giáo sư Trịnh nhìn tôi rồi dằn mạnh chai bia xuống bàn, bực dọc, “Tôi bảo thủ thật, nhưng không ngu. Nếu cậu muốn nghiên cứu thì sách vở tài liệu đầy ra đấy, việc gì phải khăng khăng hỏi danh sách tổ giám định?”

“Ài… việc đó…” Tôi nhất thời cứng họng, cuối cùng đành thở dài nhìn ông, “Tôi không muốn dối giáo sư, giờ tôi chưa thể tiết lộ chuyện này được.”

“Có liên quan tới Hứa Nhất Thành à?” Giáo sư Trịnh nghiêm mặt hỏi.

Tôi gật đầu, đây không phải dối trá, nhưng tôi không thể nói gì thêm. Chị Tố đã dặn dò tôi tạm thời đừng đánh động Minh Nhãn Mai Hoa. Chẳng biết Lão Triều Phụng đã cài cắm bao nhiêu kẻ nằm vùng vào đó, nên tôi không thể hoàn toàn tin tưởng ai cả.

Giáo sư Trịnh có lẽ cũng hiểu nỗi niềm khó nói ấy. Ông lặng thinh nhìn tôi, khóe miệng mấp máy, song cuối cùng vẫn không hỏi gì thêm, chỉ vỗ vai tôi khàn khàn nói, “Tôi không hỏi nữa, khi nào thích hợp cậu cho tôi biết vậy.” Tôi biết ông lại nhớ tới Dược Bất Nhiên, gã là học trò ông yêu quý nhất, song cuối cùng lại phản bội, khiến ông sốc nặng, không thể mở miệng nói với tôi rằng cậu cứ tin ở tôi. Tôi áy náy nhìn ông rồi giơ cốc lên.

Hai chúng tôi lẳng lặng chạm cốc uống cạn, lại nhai thêm mấy viên lạc. Có lẽ thấy không khí có phần gượng gạo, giáo sư Trịnh bèn nói, “Thực ra cũng chưa hẳn không lấy được danh sách.” Nghe vậy, tôi cảm động ngước lên nhìn ông. Dù tôi không chịu nói rõ, song ông vẫn định giúp một tay. Chẳng rõ đây là chuộc tội, hay là tin tưởng nữa.

“Giáo sư đâu cần miễn cưỡng…”

Giáo sư Trịnh giơ tay ngăn tôi lại, tỏ ý không cần để tâm rồi nói, “Muốn biết danh sách có những ai thì khó. Nhưng nghĩ ngược lại, nếu cậu đã nhắm trúng ai đó, muốn biết người ta có trong danh sách không, thì khá dễ.”

Tôi sáng mắt lên, giáo sư Trịnh nói chí phải. Nếu tôi đã có mục tiêu xác định, muốn biết người đó có tham gia giám định Thanh minh thượng hà đồ không thì có thể chứng thực bằng nhiều cách, không cứ gì phải thông qua danh sách. Đơn giản nhất là đi hỏi chính người đó, hoặc tìm hiểu xem thời gian đó y đang ở đâu làm gì, hay hỏi han người bên cạnh y, tóm lại là có rất nhiều đường.

“Thế cậu nhắm được ai chưa?”

Tôi nghĩ ngợi rồi đáp, “Ừm… Chưa xác định được cụ thể, nhưng có lẽ là người của Minh Nhãn Mai Hoa.” Giáo sư Trịnh đặt cốc xuống, trầm tư giây lát, “Giám định tranh chữ là nghề của nhà họ Lưu, mà kẻ có tư cách tham gia tổ giám định Thanh minh thượng hà đồ cũng chỉ vỏn vẹn mấy người thôi. Cậu không phải lo, để tôi đi nghe ngóng cho. Có điều nếu cậu muốn tận mắt chiêm ngưỡng Thanh minh thượng hà đồ bản gốc thì tôi chịu.”

“Chuyện này tôi sẽ tự tìm cách, đâu thể phiền giáo sư mãi được.” Tôi vội nói. Song trong lòng vô cùng thất vọng. Lần này về Bắc Kinh, tôi muốn moi ra thân phận Lão Triều Phụng, cũng muốn chứng thực suy đoán của chị Tố. Hai việc không được thiếu việc nào. Bài báo của Chung Ái Hoa còn đang ghim lại ở Trịnh Châu, không thể chờ tôi quá lâu được.

“Nhất định phải xem bản gốc à? Trong hiệu sách chắc cũng bán tập tranh chất lượng cao chứ? Hay kiếm một bản sao cùng tỉ lệ ở Lưu Ly Xưởng, có khó gì.”

Tôi lắc đầu, việc này cũng như giám định, không thể xem ảnh mà kết luận được, phải tận mắt nhìn thấy mới phán đoán được thật giả. Huống hồ sách tranh chất lượng cao và bản sao đều không rõ lắm, khó quan sát các chi tiết, mà thông tin quan trọng thường lại ẩn giấu trong các chi tiết.

“Không phải bản gốc thì sao nhìn rõ được.” Tôi lẩm bẩm. Đây là khâu mấu chốt trong kế hoạch của tôi, không thể xảy ra lầm lẫn.

Thấy tôi tiu nghỉu, giáo sư Trịnh uống cạn cốc bia, ợ một hơi rồi cười khà, “Cậu đã thử tìm Thư Viện chưa?”

“Thư viện nào ạ? Thư viện đại học Bắc Kinh hay thư viện Quốc gia?”

“Đều không phải, Thư Viện là một người.”

Vẻ mặt giáo sư Trịnh đầy bí hiểm.


Trước mặt tôi là con đường nhỏ vắng vẻ mà lộn xộn, hai bên đường toàn quán gội đầu, tiệm tạp hóa và mấy quán cơm, bên cạnh còn có nhà vệ sinh công cộng xây bằng gạch, dùng vôi viết nguệch ngoạc hai chữ “nam” và “nữ”, mùi theo kẽ gạch bay ra, hòa với tiếng cassette rè rè từ quán gội đầu, thành một bản giao hưởng thum thủm. Mặt đường lỗ chỗ ổ gà, trong ổ gà còn lổn nhổn những rác rến đủ màu, xe chạy qua tung bụi mù mịt. Xa xa, đoàn tàu sơn xanh hú còi rồi xình xịch lướt qua những căn nhà lúp xúp này.

Đây là một làng nhỏ nằm phía Nam Bắc Kinh, gần Phong Đài. Bắc Kinh có câu Đông sang Tây giàu Bắc nghèo Nam mạt, có kẻ nói là truyền từ thời Thanh, người lại nói là phong thủy Tứ Cửu thành. Giờ phía Bắc đã thay đổi, chỉ có phía Nam thành vẫn chẳng phát triển là mấy, đi về Nam mấy kilomet, tự nhiên bộ mặt thủ đô giàu đẹp trôi đi đâu hết, chỉ còn hai chữ nhếch nhác.

Nơi tôi tìm nằm cuối con hẻm nhỏ này. Ở đó có một căn nhà, cửa bọc tôn gỉ hoen gỉ hoét, rõ ràng chủ nhà chẳng mấy để tâm lau dọn. Trong sân trừ cái xe ba gác ra chỉ có sách, ngồn ngộn sách là sách, gần như không có chỗ đặt chân. Tôi liếc qua thấy sách cũ sách mới trong nước ngoài nước gì cũng có, nhìn mà hoa cả mắt.

“Thư Viện có nhà không?” Tôi cao giọng gọi to.

“Có.”

Một người ló ra từ trong đống sách ngổn ngang. Y mặc jacket nâu, miệng ngậm điếu thuốc, eo thắt túi đeo hông du lịch. Tôi nhìn kỹ thấy kẻ này cũng trạc tuổi mình, cả người trông như một bài hình không gian cấp ba, mặt tròn vành vạnh, hai mắt tam giác, mũi hình thang, môi mỏng như đường thẳng.

“Ông là Thư Viện à?”

“Có gì thì nói đi, tôi đang bận.” Thư Viện sốt ruột giục, tiện thể kéo một đoạn dây bên cạnh, cúi xuống, trở tay một cái, nháy mắt đã buộc xong một chồng sách.

Hôm qua giáo sư Trịnh đã kể, người này khó tính, nhưng là một bậc kỳ nhân. Nghe biệt danh Thư Viện cũng đủ biết, chỗ y toàn sách là sách. Tên này mua bán sách cũ, chỉ cần là sách cũ thì bản đẹp bản lẻ hay bản thường gì y cũng mua, thể loại cực tạp, không có sách nào y không tìm được cả. Dân học thuật ở Bắc Kinh đều biết Thư Viện, có lúc muốn tìm những tư liệu hiếm mà thư viện trường đại học không có, lại phải đến hỏi y, thông thường đều sẽ thu được kết quả bất ngờ. “Chỉ cần cậu hỏi đúng câu là được.” Giáo sư Trịnh dặn tôi trước lúc ra về.

Thế nên tôi cũng chẳng hơi đâu vòng vo tam quốc, mà vào đề luôn, “Chỗ ông có Thanh minh thượng hà đồ không?”

Thư Viện dừng tay, đứng trên đỉnh núi sách khinh khỉnh nhìn xuống tôi, “Hỏi cũng không biết đằng hỏi. Chỗ tôi đây có mấy trăm loại Thanh minh thượng hà đồ, trong sách, trong tạp chí, trong tập tranh, rồi áp phích, ông cần cái gì?”

“Tôi muốn bản gốc Thanh minh thượng hà đồ.”

Thư Viện nhìn tôi như nhìn thằng thần kinh rồi xua tay đuổi, “Đi đi, chỗ tôi không có, ông đến Cố cung mà ăn cắp.”

Tôi bèn đổi cách hỏi, “Vậy ông có bản sao giống hệt bản gốc không?”

“Không.” Y đáp ngay không buồn nghĩ.

Tôi thất vọng tràn trề, nhưng chợt nhớ tới lời giáo sư Trịnh dặn, lại hỏi lượt thứ ba, “Tôi có xem bản gốc ở chỗ ông được không?”

Lần này Thư Viện cũng đáp ngay không hề do dự, “Được.”

Tôi ngớ ra, ba câu hỏi này vốn mâu thuẫn nhau mà. Chỗ y không có bản gốc thì sao có thể cho tôi xem bản gốc được? Đang lúc bối rối, Thư Viện đã từ đỉnh núi sách nhảy xuống, phủi áo rồi chìa tay về phía tôi. Tôi cũng chìa tay ra nắm lấy tay y. Thư Viện trước là ngạc nhiên, sau đó bực bội văng ra, “Mẹ kiếp ai thèm nắm tay ông? Tiền! Tôi bảo là tiền!”

Tôi biết muốn xem bản gốc ắt phải có cái giá của nó nhưng không ngờ y lại thẳng thắn nhắc chuyện tiền nong như vậy.

“Bao nhiêu?”

“Hai mươi nghìn, sẽ cho ông xem bản gốc.” Thư Viện nhả ra một con số.

Tôi suýt nữa đã vơ quyển sách đập cho y một trận, định cướp đường chắc? Hai mươi nghìn tệ, còn chỉ được xem, có ra giá trên trời cũng không tới mức này. Thấy tôi tần ngần, Thư Viện gãi mũi, “Có tiền thì lấy ra đây, không tiền thì biến, đừng lằng nhằng mất thời gian tôi bán hàng.”

“Đắt thế? Ông giảm giá tí được không?”

“Thứ ông muốn xem chỉ chỗ tôi có, mà ông không xem không được. Tôi không bắt chẹt ông thì bắt chẹt ai nữa? Xin lỗi nhé, đừng hòng giảm một xu.” Thư Viện chẳng chút kiêng dè, hùng hổ nói. Thấy tôi tái mét mặt, y móc từ túi đeo hông ra một xấp tiền giấy rồi thè lưỡi dấp nước bọt đếm soàn soạt. Đếm một hồi, y rút dây chun ra buộc lại, phe phẩy trước mặt tôi, “Đám người đọc sách các ông hằng ngày cứ ra vẻ thanh cao, tưởng như sách vở hễ dính đến tiền là thành dung tục hết, nhưng nói trắng ra chẳng phải vẫn keo kiệt không muốn bỏ tiền ư? Tôi bảo cho mà biết nhé, trên đời này tiền là tốt đẹp nhất, đám sưu tầm sách rặt một bọn đầu đất.”

Trong ấn tượng của tôi, những người tiếp xúc với sách vở, hoặc sẽ nho nhã như Cơ Vân Phù, hoặc hơi gần như giáo sư Trịnh, dù tham phú quý cũng thường giấu giếm, không thể hiện trắng trợn. Trước lúc đến, tôi nghĩ Thư Viện am hiểu về sưu tầm sách như vậy, chưa chừng cũng là một gã điên coi sách như mạng, ngờ đâu lại thế này.

Thư Viện lườm tôi rồi nói, “Tôi biết thừa ông không dám nói ra mồm chữ trong bụng chắc khinh tôi lắm. Chẳng sao, miễn ông chịu bỏ tiền thì dù có chửi như tát nước vào mặt tôi, tôi vẫn làm.”

“Dù làm ăn cũng phải trao đổi giá cả chứ. Ông ra giá hai mươi nghìn rõ là vô lý.”

Thư Viện nhún vai, “Tôi chỉ biết tiền không có nghĩa là tôi không biết hàng. Thanh minh thượng hà đồ đâu phải thứ tầm thường, đưa sang nước ngoài, muốn bán giá mấy triệu chẳng được.”

“Nhưng tôi chỉ xem một lần thôi mà.”

“Thế nên tôi mới chỉ thu hai mươi nghìn.”

“Ông phải cho tôi biết làm sao xem được đã.” Tôi vẫn không chịu. Thư Viện phì mũi rồi quay người toan vào nhà, không đếm xỉa tới tôi nữa. Tôi vội gọi với theo, “Nếu ông không nói rõ, tôi đi trình báo đấy?”

Thư Viện dừng chân ngoái lại, “Trình báo cái gì? Sách báo tôi đều mua từ nguồn đàng hoàng cả đấy.”

“Cuốn này thì sao?” Tôi cầm một cuốn Long Hổ Báo trong đống sách lên. Cuốn tạp chí này cũng giống cuốn tìm được dưới gầm giường Diêm Sơn Xuyên, bị nhét lẫn vào đống báo dày cộp, có lẽ sau khi thu mua, Thư Viện vẫn chưa có thời gian lọc lựa.

“Đây là người khác bán theo tải cho tôi.” Thư Viện dán mắt vào cái bìa rồi lại nhìn lảng đi.

“Ông bảo tôi tới đồn công an trình báo ông tàng trữ sách báo khiêu dâm thì cảnh sát sẽ tin ai? Nói cho mà biết nhé, dạo này họ đang làm ngặt đấy.”

Thư Viện không ngờ tôi lại giở trò này, cặp mắt tam giác sắp biến thành tứ giác vì trừng nhiều quá. Hai chúng tôi thi gan một phút, cuối cùng y điên tiết giậm chân, “Ông được lắm, đi theo tôi!” Quả nhiên muốn đối phó với hạng thấy tiền sáng mắt này, phải tóm trúng điểm yếu của chúng. Tôi theo y vào nhà, thấy trong nhà cũng toàn sách là sách, bốn bức tường thì ba bức là giá sách lớn chạy dài từ dưới đất lên, bên trên chất ngồn ngộn sách vở.

Thư Viện cũng chẳng buồn mời tôi ngồi, xăm xăm đi đến trước giá sách, lắc lư cái đầu, ngón tay dò theo từng hàng sách, miệng lẩm bẩm. Hỏi y làm gì vậy, y đáp rằng đang dò.

Tôi nhìn theo ánh mắt y, thấy trên giá hầm bà lằng đủ cả từ tạp chí đến Danh ngôn Mao chủ tịch, từ Thôi Bối đồ lem luốc đến sách giáo khoa tiểu học thời Dân Quốc, từ danh tác do nhà sách Thương Vụ dịch đến Giới tử viên họa truyện. Ở giữa có bốn giá sách lớn, xếp bên trên đa phần đều là các ruột sách màu đen, vàng, nâu v.v… không có bìa, bám đầy bụi bặm.

“Chỗ ông đúng là sách nào cũng có nhỉ…” Tôi cảm thán.

“Sách có gì báu, nói cho mà biết, chỗ tôi hơn các chỗ khác là vì ngoài sách ra, tôi còn thu mua cả hồ sơ.” Thư Viện nói.

“Hồ sơ à?”

“Người ta thường chỉ coi trọng sách vở, xem nhẹ hồ sơ, hễ loạn lạc là quăng vung bỏ vãi. Thịnh Tuyên Hoài có oách không nào? Để lại cả đống hồ sơ Thịnh, quý báu là thế, vậy mà giờ đã tan tác chim muông, mười phần chẳng còn một. Tôi chuyên thu mua thứ này, ông muốn tìm sổ sách hiệu bạc, hồ sơ hải quan của Robert Hart, bản mã điện báo của Trương Học Lương v.v…, tôi đều có hết. Thoạt đầu đống hồ sơ này chẳng ai nhòm nhỏ đến, giờ lại thành ra đáng tiền, mấy ông già nghiên cứu lịch sử đều phải đến nhờ vả tôi đấy. He he, dĩ nhiên không tính rẻ được.”

Y vừa huyên thuyên vừa dò đi dò lại, cuối cùng ánh mắt cũng dừng ở đỉnh một giá sách. Y nhanh nhẹn bưng mấy chồng sách đến, bắc thành một cái cầu thang để leo lên bới tìm trên giá. Thình lình bụi bặm bốc lên mù mịt, rồi cả đống đồ phía trên rơi rào rào xuống. Có lịch treo tường năm tám mấy, có bản rập bia đen sì, thậm chí còn hai tờ Nhật báo Nhân dân ố vàng. Thư Viện nhảy từ “thang” xuống, lục trong đó ra một túi giấy xi măng to.

Túi giấy nọ to bằng túi hồ sơ tiêu chuẩn, màu hơi xỉn, có lẽ lâu lắm chẳng ai mở ra. Thư Viện chìa ra, tôi thấy trên bìa in một hàng chữ ngay ngắn “Cục Quản lý hiện vật văn hóa - Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” bên dưới còn một hàng chữ viết tay bằng bút lông “(Thanh) Hồ sơ ảnh giám định lưu trữ B-1”. Bên trên đóng dấu đỏ Cục Quản lý hiện vật văn hóa to tướng, nhưng đã hơi phai màu.

Tim tôi đập thình thịch, xem ra đây là hồ sơ công tác của tổ giám định Thanh minh thượng hà đồ. Chẳng biết trong này có thứ tôi muốn tìm không nữa.

“Này, ông thấy chưa hả?” Thư Viện sốt ruột vẩy túi hồ sơ.

“Trong này có gì vậy?”

“Ông mù chữ à? Đây là hồ sơ lưu về Thanh minh thượng hà đồ ở Cục Quản lý hiện vật văn hóa, bên trong đều là ảnh chụp bản gốc.”

“Lại là ảnh à…” Tôi thở dài, xem ra chuyến này công cốc rồi. Ảnh chụp Thanh minh thượng hà đồ nhan nhản ngoài chợ, nếu dùng được thì cần gì tới tận đây tìm?

Thư Viện rụt lại túi hồ sơ, khinh khỉnh mắng, “Ông hiểu đếch gì? Hồ sơ tôi thu mua đâu có như người khác? Bảo cho mà biết, đây là tư liệu gốc dùng khi giám định. Tranh cổ không thể phơi ra ngoài lâu được, nên trước khi giám định phải dùng thiết bị chuyên môn chụp mấy chục tấm ảnh độ phân giải cao từ nhiều góc độ, thấy rõ từng chân tơ kẽ tóc. Phần lớn công tác giám định đều làm trên ảnh cả. Sau khi giám định xong, những tấm ảnh này cũng được lưu giữ lại, cất trong Cục Quản lý hiện vật văn hóa làm hồ sơ lưu. Mấy năm trước Cục thanh lọc hồ sơ, chẳng biết đồ ngu nào lại vứt nó đi, thế là tôi vớ bở. Mấy bản sao ngoài chợ làm sao tinh xảo được bằng bản gốc của tôi?”

Bấy giờ tôi mới hiểu vì sao Thư Viện nói rằng không có bản gốc nhưng lại có thể cho tôi xem bản gốc. Nếu số ảnh gốc này đáp ứng được yêu cầu của các chuyên gia trong tổ giám định thì cũng đủ với tôi rồi. Tôi mừng rỡ định với lấy túi hồ sơ bóc ra, nhưng Thư Viện đã nhẹ nhàng giật lại.

“Tôi chỉ đồng ý cho ông biết xem bằng cách nào, chứ đâu bảo sẽ cho ông xem. Giờ thấy hàng rồi, ông yên tâm chưa? Hai mươi nghìn tệ, tôi bán đứt cho ông luôn.”

“Nhưng hai mươi nghìn thì nhiều quá.”

“Thế ông đừng xem nữa.” Thư Viện cười khì đặt tập hồ sơ ra đằng sau, ánh mắt lóe lên vẻ hung tợn, “Ông đừng nghĩ đến chuyện trình báo, hễ ông bén mảng đến đồn công an, tôi sẽ mang nó đi nhóm lửa nướng thịt.”

Tôi rơi vào thế lưỡng nan. Không phải tôi tiếc hai mươi nghìn tệ, nhưng cái giá này thực quá vô lý.

Mấy tấm ảnh đó chỉ để kiểm chứng một suy đoán chưa được xác định mà thôi. Nhìn ánh mắt tham lam của Thư Viện, tôi sực nhớ mình chưa từng đề cập tới mục đích tìm mấy tấm ảnh này. Sở dĩ y dám hét giá hai mươi nghìn là bởi quan sát thái độ khẩn thiết của tôi lúc đến, cảm thấy có thể bắt chẹt được tôi.

Trong giới cổ vật, hành vi này gọi là xem mặt kính trà. Những chủ tiệm dày dặn kinh nghiệm, dù không biết gì về khách, chỉ cần quan sát thái độ khi xem đồ, cũng đoán được người này thật lòng muốn mua hay chỉ xem cho vui. Dựa vào đó mà ra giá, không trật lần nào.

Nghĩ tới đó, tôi giơ hai ngón tay ra, “Hai mươi nghìn thì tôi không có. Hai nghìn đi, tôi xem luôn ở đây rồi ông lại cất đi, thế nào?”

Lần này đến lượt Thư Viện do dự. Hai nghìn tệ không phải ít, đủ mua mấy xe sách, huống hồ tôi chỉ yêu cầu xem tại chỗ, coi như y được biếu không. Song y vẫn hơi tiếc của, từ hai mươi nghìn tụt xuống hai nghìn thì chênh lệch quá. Có điều thấy tôi tỏ thái độ “không đồng ý thì thôi”, y cũng chùn bước. Tính đi tính lại thì thà lấy ngay hai nghìn tệ tiền tươi còn hơn hét giá cao ngất khiến người mua chạy mất.

Thư Viện lưỡng lự mãi, cuối cùng cũng miễn cưỡng chấp nhận. Pha cò kè này đôi bên đều vận hết tâm sức, rốt cuộc vui vẻ cả làng. Y vớ bở món tiền, còn tôi bỏ hai nghìn tệ ra để bắt thóp được Lão Triều Phụng, cũng rất hời.

Tôi không đem theo chừng ấy tiền, bèn ra ngân hàng rút. Cầm tiền về, Thư Viện đã bày ra một cái bàn nhỏ, trên đặt túi hồ sơ, có cả dao rọc giấy, kính lúp và đèn bàn, thậm chí còn pha cho một cốc nước quýt. Gã này tham thì tham thật, song tinh thần phục vụ quả là rất tốt.

Thư Viện hất hàm, “Ông tự ngồi đây mà xem nhé, tôi không làm phiền nữa, muốn xem bao lâu thì xem. Cốc nước quýt kia tôi tặng, nếu đói muốn ăn gì thêm thì bỏ tiền.” Dứt lời y đẩy cửa bước ra ngoài, để lại tôi một mình trong nhà.

Căn nhà yên tĩnh lại, vô số cuốn sách cũ nát vây quanh, tạo nên cảm giác “vùi đầu viết lách ngõ Ô Y”. Tôi vặn bật đèn bàn, tỉ mỉ lấy dao rọc túi hồ sơ, đổ ra mấy chục tấm ảnh màu. Phần lớn những tấm ảnh này đều là khổ mười hai inches, chỉ có vài tấm khổ bảy inches, giấy ảnh dày cộp, sờ còn hơi ram ráp.

Bấy giờ ở Trung Quốc vẫn rất hiếm ảnh màu, năm 1949 khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Đồng Tiểu Bằng là thư ký trưởng ủy ban trù bị kiếm được một cuộn phim màu ở Hồng Kông, chụp được duy nhất một tấm ảnh đại lễ rồi lại phải gửi sang tận Hồng Kông để rửa. Vậy mà năm 1951 giám định Thanh minh thượng hà đồ lại dùng ảnh màu, đủ thấy nhà nước coi trọng bức tranh này nhường nào.

Bộ ảnh này chụp dưới ánh sáng tự nhiên, góc dưới bên phải mỗi tấm đều đánh số bằng mực nước. Tôi sắp xếp theo thứ tự, thấy tấm thứ nhất là toàn cảnh Thanh minh thượng hà đồ; mười mấy tấm tiếp theo chụp riêng từng khung cảnh nhỏ trong tranh, rõ ràng chi tiết, thể hiện rõ bút pháp, bên cạnh còn kèm thêm một cây thước. Ghép những tấm ảnh này lại sẽ tạo thành một bức Thanh minh thượng hà đồ hoàn chỉnh. Tiếp theo đó là những tấm đặc tả dưới đủ mọi góc độ, đầy đủ cả những thứ râu ria bên ngoài như lời bạt, đường cách, lề trên, lề dưới, thậm chí còn mấy tấm giơ cả bức tranh lên cho ánh mặt trời chiếu qua để thấy rõ hoa văn trên cuốn lụa.

Người chụp hiển nhiên là hiểu sâu về tranh chữ, chụp đầy đủ không sót thứ gì. Xem xong bộ ảnh, tôi cũng đã nắm được tình hình tranh gốc. Bức họa trong ảnh thể hiện được trạng thái nguyên thủy, màu lụa đã ngả xám, phần trên bị thiếu, còn dăm ba nơi thủng lỗ chỗ và loang lổ vết ố, đủ thấy lúc ở Đông Bắc không được giữ gìn cẩn thận.

Tiếc rằng tôi không phải người Hồng môn, hiểu biết về thư họa cũng có hạn. Xem ảnh, ngoại trừ trầm trồ khen thì không nhìn ra được điểm gì khác thường cả. May là tôi không phải giám định mà chỉ đến chứng thực vài điểm đáng ngờ theo lời chị Tố hướng dẫn thôi.

Tôi nhanh chóng chọn ra một tấm ảnh chụp căn nhà ngói khang trang đằng sau phố phường Biện Lương sầm uất, trông có vẻ giống sòng bạc, bốn tên cờ bạc đang xúm quanh bàn gieo súc sắc. Nhớ chuyện Vương Thế Trinh, tôi cầm kính lúp lên soi, nào ngờ hột súc sắc trên bàn rõ mồn một mà gương mặt bốn con bạc lại mờ nhòe hoen ố, khó mà phân biệt được miệng há hay ngậm.

Tôi cầm bức ảnh săm soi hồi lâu rồi rút trong túi ngực ra một bản sao Thanh minh thượng hà đồ. Đây là một trang trong Tuyển tập danh họa Trung Hoa tôi mua ở hiệu bán tranh, in trên giấy tráng phủ. Bản này rất phổ biến trên thị trường, được dùng rộng rãi trong sách giáo khoa lịch sử cấp ba, chuyên san mỹ thuật, sử học hay sách du lịch. Bên dưới có một dòng ghi chú, viết rằng tranh này được sao lại từ bản gốc trong Cố cung. Dĩ nhiên, nó còn xa mới được chi tiết như bộ ảnh kia.

Di kính lúp đến vị trí tương ứng trên bức họa, tôi sững người ra. Bởi gương mặt cả bốn con bạc trong tranh đều rõ mồn một, miệng chúm lại tròn vo.

Miệng tôi thoắt khô rang.

Năm xưa sở dĩ Thang Thần nhận ra bức Thanh minh thượng hà đồ giả, là nhờ nhìn khẩu hình bốn con bạc. Bản gốc miệng bốn người hơi chúm lại, còn bản nhái thì há ra.

Trong ảnh chụp giám định bản gốc năm 1951, nét mặt bốn con bạc đã bị ố; song trong bản lưu hành, cùng một vị trí lại được khôi phục nguyên trạng, thành khẩu hình tròn miệng. Điều này về kỹ thuật thì không khó, Cố cung có kỹ sư chuyên tu bổ tranh vẽ. Nhưng lại tu bổ đúng chỗ mấu chốt, có phải là trùng hợp quá không? Cứ như cố tình bưng bít gì đó vậy.

Trước khi tu bổ, rốt cuộc khẩu hình của đám con bạc đó thế nào? Chúm hay há miệng?

Thấy họng khô rang, tôi uống ừng ực hết nửa cốc nước quýt rồi tiếp tục lật giở, chẳng mấy chốc đã giở đến ảnh chụp lời bạt.

Các nhà sưu tầm Trung Quốc thời xưa có thói quen đóng dấu hoặc đề lời bạt lên tranh chữ mình sưu tầm được, ghi lại những cảm nhận của bản thân, cũng tương tự như dân du lịch hiện giờ tới điểm thăm quan tiện tay khắc lên mấy chữ “XX đã từng đến đây” vậy. Người đời sau chỉ cần xem những con dấu ấy có thể biết được đại khái tranh này đã qua tay những ai, lai lịch từng người thế nào.

Chủ nhân đầu tiên của Thanh minh thượng hà đồ là Tống Huy Tông, ông đã chính tay đề tên bức tranh và đóng dấu song long. Tiếc rằng phần đó đã bị người ta cắt mất, không xem được nữa. May mà những lời bạt khác đều còn, lần lượt từ Trương Chiêu đến đại học sĩ Lý Đông Dương thời Minh, rồi tới Lục Hoàn, Nghiêm Tung, cho tới ba con dấu Phổ Nghi đóng, sờ sờ trước mắt, rõ ràng rành mạch, ghi lại chặng đường chìm nổi lênh đênh của một quốc bảo.

Nhưng tôi dò từ đầu tới cuối ba lần vẫn không tìm thấy lời bạt của một người. Mà người này vốn không thể thiếu được.

Chính là tác giả bức tranh, Trương Trạch Đoan.

Nói chính xác ra, tên Trương Trạch Đoan cũng có xuất hiện trên tranh. Nhưng đó là trong lời bạt của Trương Chiêu dưới triều Kim: “Hàn lâm Trương Trạch Đoan, tự Chính Đạo, người Đông Vũ, thuở nhỏ đi học, đến kinh đô theo đèn sách, về sau lại tập vẽ, vốn chuyên ‘vẽ thước’ , nhất là thuyền bè, xe cộ, phố phường, cầu cống, thành quách, đường sá, có phong cách riêng, Bình luận đồ họa ký của họ Hướng nói: ‘Kim Minh trì tranh tiêu đồThanh minh thượng hà đồ đều là thần phẩm, được cất giữ như của báu.’ Năm Đại Định, tháng Bính Ngọ, một ngày sau Thanh minh.”

Theo lời thầy chị Tố thì tổ giám định đã dựa vào điểm này để nhận định rằng Trương Trạch Đoàn là tác giả, tiến tới xác nhận bức tranh nọ là bản thật. Nói chính xác ra, thủ pháp này thiên về luận chứng tuần hoàn. Trương Chiêu nói tác giả là Trương Trạch Đoan, nên bức tranh này là thực; vì bức tranh này là thực, nên tác giả mà Trương Chiêu nói là đúng.

Bản thân tác giả dốc hết tâm huyết vẽ ra bức tranh mà không đề tên tuổi, lại phải đợi trăm năm sau một người Kim công bố lai lịch hộ, chẳng lạ lắm sao?

Huống hồ trước đây tôi từng tra cứu biết được, trong Cố Cung Đài Bắc cũng giữ một cuốn Thanh minh thượng hà đồ, do năm họa sĩ sao chép lại dưới triều Càn Long nhà Thanh, trên có lời bạt “Hàn lâm họa sứ Trương Trạch Đoan kính dâng”. Bản sao còn có, sao bản gốc lại thiếu được?

Tôi đặt cả ảnh lẫn kính lúp xuống bàn, ngả người ra lưng ghế, nhắm mắt nghĩ ngợi.

Chị Tố nói không sai, hai điểm này mới chỉ là nghi vấn, chưa đủ để kết luận Thanh minh thượng hà đồ là giả. Nhưng những nghi vấn này đã đủ gây ra một trận sóng to gió lớn, thu hút toàn bộ giới truyền thông cả nước. Chỉ cần tác động để nhà nước cho giám định công khai Thanh minh thượng hà đồ một lần nữa, coi như tôi đã đạt được mục đích, tới lúc đó Lão Triều Phụng cùng những tội ác của lão sẽ bị lôi ra ánh sáng.

Chuyện này cũng giống như cảnh sát chưa chắc đã có bằng chứng phạm tội của nghi phạm, song chỉ cần tìm một cái cớ bắt hắn lại, từ từ thẩm vấn, thế nào cũng tìm ra chân tướng.

Tôi gắng nén nỗi hoan hỉ trong lòng, ngàn dặm bôn ba, cuối cùng cũng đi tới bước cuối cùng rồi.

Nghĩ đoạn tôi mở bừng mắt, rút chiếc máy ảnh du lịch nhỏ nhắn trong túi áo ra - đây là Kido gửi từ Nhật sang cho tôi - lách tách chụp lại mấy tấm ảnh mình nhặt riêng ra, rồi cầm túi hồ sơ lên, chụp cả con dấu đỏ trên đó.

Xong xuôi tôi cất lại ảnh vào túi hồ sơ rồi gọi Thư Viện vào. Thư Viện cầm túi hồ sơ lên dán lại đặt lên giá rồi xòe tay ra trước mặt tôi. Tôi vừa móc tiền ra trả vừa hỏi, “Sao ông không xem lại bên trong túi hồ sơ, nhỡ tôi thó mất mấy tấm thì sao?”

Thư Viện nhìn chằm chằm xấp tiền mới trong tay tôi, tôi tủm tỉm cười chìa ra, y giật ngay lấy rồi mới đáp: “Tôi tin ông.” Nói xong y chẳng chút ngại ngần dấp nước bọt đếm loạt soạt ngay trước mặt tôi. Nhìn dáng điệu ấy, tôi chợt nhớ tới Nghiêm Thế Phiên cũng dấp nước bọt lật sách, thầm nghĩ gã này không phải Nghiêm Thế Phiên đầu thai đấy chứ.

Thư Viện đếm tiền xong, mãn nguyện cất vào túi đeo hông. Nhìn quanh thấy cốc nước quýt còn phân nửa, y cầm lên uống cạn sạch, không quên chóp chép miệng. Vừa đút túi được một món tiền, Thư Viện vui vẻ hẳn, nói cũng nhiều hơn, “Này, tôi thấy ông cũng đâu có ngu, sao lại chịu bỏ hai nghìn tệ chỉ để xem mấy tấm ảnh một lần?”

“Cùng một thứ nhưng trong mắt những người khác nhau sẽ có giá trị khác nhau.” Tôi thản nhiên đáp.

“Cần gì phức tạp thế? Tôi bảo ông hay, đừng bị mấy tư tưởng vớ vẩn tẩy não. Thứ gì không đáng tiền tức là đồ bỏ, đáng tiền là đồ tốt, đáng nhiều tiền là hàng cực tốt.”

“Vớ vẩn!” Dù sao tôi cũng xem xong ảnh rồi, không sợ động chạm y nữa.

Thư Viện cười ha hả, trỏ ra góc sân, “Thấy đống sách bìa xanh kia không? Gia tài sưu tầm cả đời của một ông già đấy, còn đóng bìa riêng, làm mục lục nữa chứ. Nhưng ông ta vừa mất, thằng con đã bán tất cả cho tôi, lấy tiền mua một đống đồ điện gia dụng Nhật về nhà. Nói thật nhé, sách tư nhân sưu tầm trên toàn Bắc Kinh, có hai phần qua tay tôi đấy. Mấy con mọt sách ấy giữ gìn cả đời, trân quý cả đời, không nỡ bán đi, còn đổ thêm tiền vào đấy. Kết quả thế nào? Tới lúc nhắm mắt xuôi tay, đám sách sưu tầm đó đều bị lũ con cháu bất hiếu đem bán cho tôi. Nói dễ nghe là sưu tầm sách, nói khó nghe là dốc cạn tâm tư cả đời chỉ đổi được chức thủ thư. Ông bảo thế thì sưu tầm sách còn ý nghĩa gì nữa? Chẳng bằng đổi quách ra tiền mà tiêu.”

Y nói rất khó nghe, nhưng tôi chẳng cách nào phản bác, đành bĩu môi tỏ ý không tán đồng. Thư Viện vỗ vai tôi bồm bộp, lên mặt bề trên khuyên nhủ, “Này, tôi thấy ông rộng rãi mới nhắc nhở mấy câu. Thời thế giờ khác rồi, kiếm tiền là quan trọng nhất, sao ông vẫn chưa hiểu à? Lỗ Tấn nói thế nào ấy nhỉ? Lịch sử nghìn năm viết đầy nhân nghĩa đạo đức, xem kỹ mới nhận ra ẩn ý qua câu chữ, trang nào cũng đầy hai chữ ‘kiếm tiền’.”

Tôi chẳng hơi đâu đấu khẩu với đồ hám tiền này, đằng nào cũng đã mua đứt bán đoạn, bèn đẩy cửa đi ngay. Thư Viện gọi với theo, “Lần sau nếu ông muốn xem lại, tôi sẽ giảm giá 20%.”

Tôi cười nhạt không đáp. Khi nào chuyện này bị phơi ra, hẳn sẽ có người tới chỗ y tìm ảnh gốc, tới lúc đó quyền quyết định không nằm trong tay y nữa rồi.


Tôi hối hả quay về Tứ Hối Trai, đóng kín cửa chính cửa sổ lại rồi lấy giấy bút ra cắm cúi viết. Văn tôi không trôi chảy lắm, tối đa cũng chỉ được coi là “diễn đạt rõ ràng”, vừa viết vừa sửa, mất cả lọ mực, tới hơn mười hai giờ mới xong, đặt tên là “Vạch trần Thanh minh thượng hà đồ”. Tài liệu này tôi định gửi cho Lạc Thống nên không nhắc gì tới Lão Triều Phụng, chỉ nêu ra nghi vấn mang tính kỹ thuật về sự thật giả của bức Thanh minh thượng hà đồ, còn đính kèm vài tấm ảnh làm bằng chứng, cuối bài tôi còn ký tên thật.

Tuy nhà họ Hứa chúng tôi thuộc Bạch môn, chuyên về kim thạch, giờ lại quay ra nghi ngờ Thanh minh thượng hà đồ có hơi trái khoáy, nhưng đó chỉ là quy tắc trong giới cổ vật, người thường không biết được. Trong mắt họ, chuyên gia cổ vật phải am hiểu về mọi loại đồ cổ. Trước đây nhờ vụ án đầu Phật nên tôi cũng có chút tiếng tăm, giờ lôi cái mác họ Hứa ra, có thể tăng thêm sức nặng.

Móc xong nét cuối của chữ Nguyện, tôi đặt bút máy xuống, cả người lâng lâng. Dưới ánh đèn vàng nhạt, mấy tờ tài liệu ánh lên sắc khô vàng, như đã trải cả nghìn năm lịch sử. Mấy năm trước tôi cũng ngồi trong Tứ Hối Trai thế này, bật ngọn đèn bàn thế này, lúi húi viết đơn minh oan cho bố mẹ. Về chuyện đó, Lão Triều Phụng cũng góp một phần lớn. Nhà họ Hứa chúng tôi và kẻ này đã có quá nhiều ân oán giăng mắc, ông tôi, bố tôi, giờ lại đến đời tôi, đã kết thành mối nghiệt duyên hai đời rưỡi, rối rắm như canh hẹ.

“Ông ơi, bố ơi, hy vọng lần này con có thể chặt đứt vận mệnh đeo đẳng nhà họ Hứa chúng ta.”

Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ khẽ lẩm bẩm, như đợi họ khích lệ hoặc hỏi han mình, dù chỉ là chút ám hiệu thôi cũng được, song bên ngoài vẫn lặng phắc như tờ. Tôi cười tự giễu, dập tắt hy vọng viển vông, đứng dậy sửa sang lại bài viết rồi cất vào ngăn tủ, bấy giờ mới lên giường.

Kê đầu trên gối mút, tôi nhìn lên trần nhà, tay chân bải hoải song tinh thần lại phơi phới. Trằn trọc quá nửa đêm, tôi mới mơ màng thiếp đi, trong đầu toàn chuyện về Lão Triều Phụng và gia đình mình. Lúc thì cả nhà tôi dắt díu nhau đi xa dần, lúc lại là minh đường cháy rừng rực, ông nội tôi và một người đàn ông lạ mặt liều mạng đánh nhau. Đột nhiên Lão Triều Phụng từ trên trời rơi xuống, cười ha hả nói ta đã biết tỏng thủ đoạn của ngươi rồi, khiến tôi kinh hoàng bật dậy, cả người đầm đìa mồ hôi.

Lúc này tầm ba giờ sáng, tỉnh rồi tôi mới thấy toàn thân nóng hầm hập, cổ họng buốt nhói, dạ dày đau thắt, ga giường in vết mồ hôi ướt đẫm hình người. Tôi vừa tức vừa buồn cười, thầm nghĩ ở làng Thành Tế vừa chui vào đống đất nhà mồ vừa bơi qua sông thì chẳng sao, về Bắc Kinh chỉ tới chỗ Thư Viện uống nửa cốc nước quất lại đổ bệnh.

Việc đã sắp thành, vào lúc mấu chốt thế này không thể lăn ra ốm được. Tôi gắng gượng trở dậy, tìm mấy viên thuốc dạ dày nuốt vào rồi lấy chăn bông trong tủ ra, định chữa theo cách dân gian: xông hơi! Đoạn tôi mở ti vi, định phân tán chú ý, tiếc rằng nửa đêm chẳng còn kênh nào, đành tắt đi, đang chuẩn bị lên giường thì chợt nghe thấy coong một tiếng bên ngoài Tứ Hối Trai.

Nửa đêm nửa hôm, tiếng động nghe rõ mồn một. Tôi kinh hãi nghĩ, chẳng lẽ Lão Triều Phụng biết tôi sắp vạch trần bí mật của mình nên sai người đến khử? Vội đặt chăn xuống, tiện tay vơ một cây chổi cán dài. Côn đứng đầu các loại binh khí, tuy tôi chưa từng luyện Ngũ lang bát quái côn, nhưng cũng võ vẽ mấy chiêu cơ bản.

Tôi nén mệt mỏi đẩy cửa ra, thấy bên ngoài tối om, hình như không có người. Đi thêm mấy bước, dưới chân đá phải thứ gì đó lộc cộc, tôi cúi đầu nhìn, không khỏi phì cười.

Dưới chân tôi lăn lóc một món đồ gốm hình hổ phục, to chừng bằng con mèo béo, lưng có quai, cổ ngẩng cao, miệng há ra tròn vo, bên trong rỗng ruột. Người chơi cổ ngoạn gọi thứ này là hổ tử, để đàn ông đi tiểu đêm, hổ đồng âm với hồ, nói trắng ra là dạ hồ, tức bồn tiểu đêm. Món này từ thời Dân Quốc, không đáng bao nhiêu tiền. Nhưng nửa đêm ai lại ăn no rửng mỡ đến ném một cái hổ tử trước cửa nhà tôi? Đánh thức người ta chắc cũng không dùng cách xa xỉ thế này đâu nhỉ? Tôi ngồi xuống xách hổ tử lên lắc lắc, thấy bên trong không có nước, vậy mà tự dưng lại đem vứt trước cửa nhà tôi, cứ như trên trời rơi xuống vậy.

Vắt óc nghĩ mãi không ra ai có thể làm vậy, cuối cùng tôi đành ném nó sang một bên, quay người trở vào nhà. Song vừa kéo cửa, tôi bỗng thấy lưng sởn gai ốc, cơ bắp giần giật như bị rút gân. Kinh hoàng quay phắt lại, nhưng xung quanh tối om im phắc, chỉ có con hổ gốm nhìn tôi chằm chằm, miệng há hốc đen ngòm. Gió lạnh thốc tới giúp tôi trấn tĩnh lại đôi phần, sực nhớ tới một quan niệm cũ.

Người xưa rất kiêng không đặt hổ tử trước cửa. Hổ đêm tới cửa, ắt sẽ hại người, xui xẻo cực kỳ. Nếu ghét ai, người ta sẽ đặt hổ tử đầy nước tiểu trước cửa nhà, sáng sớm ngày ra mở cửa đạp phải, cả người sẽ khai mù nước tiểu. Nên mới có câu nói nửa chừng là “hổ tử đêm tới cửa”, không trêu vào được, ý nói đừng ra ngoài gây chuyện. Giờ dạ hồ đã thành văn vật, cách nói này cũng dần bị lãng quên. Chẳng biết kẻ nào thù tôi đến nỗi bỏ cả một món đồ cổ, nửa đêm bày ra trò lưu manh cũ rích này. Tôi nhìn bóng đêm phía trước, thấy đầu nóng hầm hập thì chẳng buồn nghĩ nữa, tiện tay cầm hổ tử quăng vào góc tường rồi quay lại giường ngủ tiếp.

Nhưng suốt đêm tôi cứ chập chờn không ngủ say được. Sáng hôm sau, bệnh càng thêm nặng, cơ hồ không dậy nổi. Tôi gắng gượng gọi điện cho Lạc Thống, kể rõ tình hình. Lạc Thống lịch sự động viên mấy câu rồi nói sẽ cho người đến tận nhà lấy. Hơn tiếng sau, một cô gái tới, nói là biên tập viên của Tin chiều thủ đô, còn mang cả hoa quả và thuốc bổ, xăng xái gọt táo cho tôi, rồi pha cả sữa lúa mạch. Nom cô em xinh ra phết, nhưng tôi đang ốm nặng, chẳng còn sức đâu mà à ơi nên chỉ đưa bài viết cho xong. Cô nàng hỏi tôi có cần tới bệnh viện không, tôi thầm nghĩ vào viện một bước sâu như biển, việc lớn chưa thành, chẳng nên tự tiện bỏ đi, đành từ chối ý tốt của cô. Đến chiều Lạc Thống điện thoại tới nói đã đọc bài viết của tôi, thấy rất hay, nhanh thì sáng mai sẽ đăng báo, chừng đó sẽ lại hẹn tôi để khai thác sâu hơn.

Lát sau, Chung Ái Hoa cũng gọi đến báo tin mừng rằng đã liên hệ với cảnh sát, hôm nay cảnh sát sẽ xông vào làng Thành Tế giải cứu chị Tố, cậu ta cũng đi theo. Chỉ cần cứu được chị Tố ra, loạt bài vén bức màn đen làng Thành Tế sẽ lên báo.

Bấy giờ tôi mới yên tâm. Trong bản thảo gửi cho Lạc Thống, tôi có nói qua về chị Tố, giới thiệu là một nhân vật quan trọng đã nêu ra nghi vấn, nhưng không viết rõ về chị, để lại một nút thắt. Đợi loạt bài ở Trịnh Châu được đăng tải, sẽ xâu lại với nghi vấn này. Trước thì Thanh minh thượng hà đồ nghi là giả, sau đến nội tình làm giả đồ cổ ở làng Thành Tế, lại thêm việc giam giữ một bậc thầy thủ công mỹ nghệ cấp quốc gia, cả ba điều gộp lại chẳng khác nào một quả bom, sức công kích liên miên bất tuyệt. Độc giả như được xem phim dài tập, từng bước chứng kiến Lão Triều Phụng bị lột da, để lộ gương mặt thật. Khoái quá đi mất!

Hễ nghĩ lão già đó sắp cùng đường, lòng tôi lại lâng lâng, thấy bệnh đỡ đi mấy phần. Bỗng đâu tôi chợt nảy sinh khao khát dốc bầu tâm sự, muốn gọi điện nói chuyện với Yên Yên, song chẳng thấy ai nghe; định gọi Phương Chấn, nhưng vừa nghĩ tới bản mặt nghiêm nghị ấy, tôi lại mất hứng; bấy giờ mới nhận ra mình chẳng tìm được ai để chia vui cả.

Thế là tôi nằm dài trên giường cả ngày, đơn độc đợi thời khắc ấy đến, như một khán giả đợi xem kết cục của bộ phim. Người xưa có câu: sáng được nghe đạo thì tối chết cũng chẳng tiếc, chỉ cần tôi tóm được Lão Triều Phụng thì dù đổ bệnh chết ngay cũng đáng.

Lại thức trắng một đêm. Sáng hôm sau, tôi mở mắt ra, thấy ngoài cửa sổ nắng chan hòa, thầm nghĩ cuối cùng cũng đến ngày này. Tôi gượng dậy định đi mua báo, song cả người cứ rũ ra, không cử động nổi, đầu óc choáng váng. Cố lắm tôi mới nhấc được người lên, uống ực một ngụm nước lạnh, nhét mấy miếng bánh quy vào miệng, chợt thấy bụng nôn nao, ọe một tiếng, nôn hết ra sàn.

Tôi thầm giận mình, hơn ba mươi tuổi đầu, đến cảm cúm tôi còn chưa từng bị, vậy mà đúng lúc then chốt lại lăn ra ốm, sao mà duyên thế? Tôi dựa vào đầu giường, nuốt nước bọt, dịch vị còn sót lại rát bỏng trong thực quản, khiến tôi khó chịu khôn xiết. Lúc này bên ngoài lại có người gõ cửa, tôi chẳng buồn ngó ra, chỉ nghe tiếng gõ đều đặn cũng biết là ai. Bèn liêu xiêu xuống giường, kéo then mở cửa ra, quả nhiên là Phương Chấn.

“Hứa Nguyện.” Hiếm lắm mới thấy giọng Phương Chấn hơi gấp gáp. Tôi hỏi, “Có việc gì thế?” Thấy mặt tôi tái mét, y nhíu mày, giơ tay sờ trán tôi rồi khoác tay tôi lên cổ y, đi thẳng ra ngoài. Nghe tôi hỏi đi đâu, Phương Chấn nhìn tôi như nhìn đứa thiểu năng, “Bệnh viện.” Tôi vội xua tay, “Tôi không sao đâu, buông ra đi.” Nhưng vừa giãy nhẹ, tôi đã nổ đom đóm mắt, choáng váng ngã xuống…


Mở mắt ra lần nữa, tôi thấy ngay chai dịch truyền lủng lẳng trước mặt, nối với tay mình qua ống nhựa, chẳng biết đang tí tách truyền cái gì vào. Mùi thuốc sát trùng xộc thẳng vào mũi, tôi ngóc cổ lên, nhận ra mình đang nằm trong phòng bệnh đơn, trên người còn mặc áo bệnh nhân kẻ sọc xanh.

Phương Chấn đang ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế nhựa đầu giường, hai tay đặt trên đầu gối. Thấy tôi tỉnh lại, y nhanh nhẹn đứng dậy bấm nút gọi y tá. Y tá trẻ ôm hồ sơ bệnh án đi vào, kiểm tra tình hình của tôi, viết mấy dòng rồi quay người trở ra.

“Tôi đang ở đâu thế?”

“301.”

Phòng đơn bệnh viện 301 á? Thế chẳng phải hưởng chế độ của cán bộ cao cấp rồi? Tôi lại hỏi, “Bị sao vậy?”

“Viêm loét dạ dày, thêm cái tội ngu.” Phương Chấn mắng người chẳng buồn chớp mắt.

Tôi nghĩ ngợi, muốn xem giờ là mấy giờ, nhưng phòng bệnh không có đồng hồ. Đang định hỏi chợt nghe trước cửa có tiếng xôn xao như cãi vã. Phương Chấn đẩy cửa bước ra, tiếng ồn mới nhỏ bớt. Lát sau cửa lại bị đẩy ra, giáo sư Trịnh và cục trưởng Lưu người trước kẻ sau bước vào. Tôi loáng thoáng trông thấy ngoài cửa còn mười mấy người của Minh Nhãn Mai Hoa, ai nấy đùng đùng tức giận, bộ dạng như muốn xông thẳng vào nếu không có Phương Chấn đứng chặn ở đó.

Cục trưởng Lưu tiện tay khép cửa lại, vẻ mặt nghiêm nghị. Giáo sư Trịnh chẳng buồn hỏi han bệnh tình tôi, sải bước đi thẳng tới bên giường, tay vung vẩy tờ báo, “Nguyện, đây là cậu viết à?”

Tôi đón lấy, là Tin chiều thủ đô số ra hôm nay. Quả nhiên Lạc Thống đã giữ lời, đăng tải toàn bộ bài viết của tôi, còn đính kèm rất nhiều tư liệu bổ trợ, có điều nhan đề bài báo khá xốn mắt: “Kỳ tài trong vụ đầu Phật lại phá kỳ án, danh họa trong Cố cung hóa ra là hàng dỏm”. Nguyên văn tôi chỉ nói là có nghi vấn, vậy mà họ đã khẳng định ngay là hàng dỏm, chắc muốn giật tít gây sốc?

“Tôi viết đấy.” Tôi đặt tờ báo xuống, tươi tỉnh hẳn lên. Cuối cùng mũi tên này cũng rời cung, cứ theo như lượng tiêu thụ của Tin chiều thủ đô thì ít nhất phải có mấy triệu người đọc được câu chuyện này.

Thấy tôi nhơn nhơn, giáo sư Trịnh càng giận, giọng lạc cả đi, “Cậu dò hỏi về Thanh minh thượng hà đồ là vì việc này à?”

“Chính xác.”

“Chuyện lớn thế này, sao cậu lại tự quyết định thế!” Giáo sư Trịnh quát lên. Cơ quai hàm ông giần giật, hẳn là đang nổi trận lôi đình.

Tôi hiên ngang nhìn thẳng vào mắt ông, “Tôi không định tự quyết, nhưng Hội còn đang bận cải tổ, đâu có thời gian để mắt mấy chuyện vụn vặt này. Tôi muốn báo thù nhà, đành tự lực cánh sinh thôi.” Rồi như sực hiểu ra, tôi mỉm cười kỳ dị, “Tôi hiểu rồi, Lão Triều Phụng xưa nay vẫn náu mình trong Minh Nhãn Mai Hoa, các vị sợ mọi chuyện bại lộ sẽ ảnh hưởng đến danh tiếng Hội nên e dè tránh né, đúng không?”

Chính xác, nhất định là thế! Chẳng trách ngay từ đầu nhà họ Lưu đã trăm phương nghìn kế ngăn tôi đi sâu điều tra, Lão Triều Phụng và Minh Nhãn Mai Hoa có quá nhiều quan hệ chồng chéo, nhổ bật lão lên thì Minh Nhãn Mai Hoa cũng tổn thương trầm trọng. Họ “lấy đại cục làm trọng”, dĩ nhiên không muốn tôi bắt được lão.

Có điều họ không ngờ tôi lại tự tiện quyết định. Hừm, lần này tôi làm đúng rồi!

Thấy tôi vẫn cãi cố, giáo sư Trịnh đau đớn đập xuống thành giường, “Cậu có biết lần này mình làm bậy đã gây ra họa lớn thế nào không!” Thấy ông ta câu trước “tự quyết” câu sau “làm bậy”, tôi cũng cáu lên, vặc lại, “Tôi chỉ thực hiện chức trách của một người giám định, có gì sai chứ?”

Giáo sư Trịnh nổi điên, “Cậu thành ra tự tin mù quáng từ khi nào thế! Cậu tưởng trình độ giám định thư họa của mình cao hơn được mười mấy chuyên gia kia chắc? Định múa búa qua cửa nhà sấm chắc?”

“Hai chỗ đáng ngờ sờ sờ ra đấy, dĩ nhiên tôi có quyền nghi ngờ. Trừ giả giữ thật há chẳng phải tinh thần của Minh Nhãn Mai Hoa sao?” Tôi gân cổ, trợn tròn mắt nhìn ông.

“Nhảm nhí!” Giáo sư Trịnh suýt nữa thì lật giường bệnh, “Thường ngày cậu thông minh là thế, sao chuyện này lại lú lẫn vậy? Đây không phải chuyện riêng của cậu, mà còn liên quan tới sự tồn vong của Minh Nhãn Mai Hoa. Dù sao cũng phải bàn bạc với người trong nhà đã chứ!”

Không dằn nổi cơn giận, tôi ngồi thẳng dậy quát tướng lên, “Người nhà tôi bị Lão Triều Phụng hại chết cả rồi! Ông bảo tôi bàn bạc với ai hả?” Nhà họ Hứa tan nát trong tay Lão Triều Phụng, mấy người kia chỉ khoanh tay đứng nhìn, vậy mà giờ còn mặt mũi tự nhận là người nhà với tôi, đúng là vô lý hết sức!

Giáo sư Trịnh bị quát sững cả ra, lùi lại hai bước rồi vịn mép giường thở dài, “Ôi, tôi hối hận quá, lẽ ra phải sớm điều tra xem người nào trong Minh Nhãn Mai Hoa đã tham gia tổ giám định. Nếu biết được, hẳn cậu đã không gây ra chuyện ngu ngốc này.”

“Giáo sư biết là ai rồi à?” Tôi gặng hỏi.

Giáo sư Trịnh nhìn ra cửa, “Năm 1951, chỉ có một người trong Minh Nhãn Mai Hoa tham gia giám định Thanh minh thượng hà đồ. Người này cậu chẳng những biết, mà còn chịu ơn sâu nặng, chính là cụ Lưu Nhất Minh”.

Nghe cái tên này, cơ bắp toàn thân tôi cứng lại, đờ ra trên giường.

Sao lại thế được! Hai tay tôi siết chặt ga giường, nội tâm sóng dồi gió dập.

Lão Triều Phụng là Lưu Nhất Minh ư?

Tôi nảy ra một ý nghĩ hoang đường, rồi lại phủ định nó ngay. Đừng nói tuổi tác không khớp, mà Lưu Nhất Minh là chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa, sao có thể tự chống đối mình? Nhưng nếu ông ta không phải Lão Triều Phụng thì rốt cuộc là ai?

“Minh Nhãn Mai Hoa chỉ có một mình ông ta tham gia giám định thôi sao?”

“Đúng, chỉ có mình ông ấy thôi.” Giáo sư Trịnh quả quyết.

Kết quả bất ngờ này khiến tôi nhất thời bối rối, chỉ biết lẩm bẩm, “Tôi không tin, các vị lừa tôi, chắc chắn là các vị lừa tôi.”

Giáo sư Trịnh rút trong túi áo ra một tấm ảnh đen trắng, chụp mười mấy người mặc áo đại cán, đứng thành hai hàng, phía trên viết một hàng chữ: “Các chuyên gia trong tổ giám định Thanh minh thượng hà đồ”. Thời gian là ngày mười lăm tháng Tư năm 1951. Trong đó có một người trung niên ngồi hàng đầu tiên bên trái, đeo kính gọng đen, lông mày lốm đốm bạc, thoạt trông đã biết là Lưu Nhất Minh.

Tôi nhìn chằm chằm bức ảnh, run rẩy.

Theo lý luận báo thù của tôi thì Lão Triều Phụng là kẻ giám định Thanh minh thượng hà đồ, tất cả cạm bẫy, lưới giăng đều được cài cắm trên cơ sở đó. Vậy mà giờ giáo sư Trịnh lại nói với tôi rằng người giám định là Lưu Nhất Minh, há chẳng phải tôi dốc hết toàn lực tung ra một đấm, đánh trúng người mình ư.

Kế hoạch loạn hết lên rồi.

Cảm giác tự tin và đắc thắng bắt đầu sụp đổ tan tành, tôi luống cuống, chợt nảy ra một linh cảm không lành.

Cục trưởng Lưu nãy giờ vẫn lạnh lùng đứng nhìn cuối cùng cũng bỏ điếu thuốc xuống, lên tiếng, “Cậu Nguyện, chuyên môn của cậu là đồ kim thạch, sao tự dưng lại quay ra nghi ngờ Thanh minh thượng hà đồ? Ai bảo cậu người giám định Thanh minh thượng hà đồ là Lão Triều Phụng?” Giọng ông ôn tồn, nhưng ánh mắt lại sắc lạnh.

Đến lúc này thì chẳng giấu giếm gì được nữa, tôi rầu rĩ buông mép ga giường, thú nhận với họ là chị Tố nói.

Nghe cái tên này, cục trưởng Lưu và giáo sư Trịnh đưa mắt nhìn nhau, tôi để ý thấy ánh mắt cả hai hơi là lạ. Cục trưởng Lưu lại hỏi, “Chị Tố có phải tên là Mai Tố Lan không?” Tôi nghe cái tên này quen quen, nghĩ lại mới nhớ dưới đáy thủy trì chị Tố gửi Hoàng Khắc Vũ chẳng đề “Mai tố lan hương” đó sao? Bèn gật đầu.

“Cậu gặp bà ta ở đâu?” Cục trưởng Lưu hỏi tiếp, giọng bắt đầu hơi giống hỏi cung.

“Tôi đem theo bằng chứng Mắt Trố cung cấp đến Trịnh Châu, tìm thấy hang ổ làm đồ giả của Lão Triều Phụng tại làng Thành Tế. Ở đó tôi đã gặp chị Tố, được bà ta kể cho nghe chuyện về Thanh minh thượng hà đồ.”

Ánh mắt cục trưởng Lưu sắc lẹm như dao, “Tay nhà báo đi cùng cậu tên Chung Ái Hoa đúng không?”

“Phải, cậu ta là thanh niên nhiệt huyết, khao khát vạch mặt đám làm đồ giả, làng Thành Tế cũng là hai chúng tôi cùng nhau điều tra ra.”

“Cậu nói với cậu ta những gì rồi?”

“Tôi nói nhà họ Hứa chúng tôi có thù sâu với Lão Triều Phụng, tôi phải bắt được lão để báo thù.”

“Còn gì nữa không?”

“Hết rồi.”

Cục trưởng Lưu rút trong cặp ra một tờ giấy đưa cho tôi, mặt sa sầm, “Nhưng cậu ta lại nói khác.”

Tôi cầm lên xem, là bản fax một bài báo, tác giả Chung Ái Hoa. Chuyên đề kỳ này tên là “Truyền nhân Minh Nhãn Mai Hoa đại nghĩa diệt thân, vạch trần kẻ đứng sau đường dây làm giả cổ vật”.

Đợi đã? Đại nghĩa diệt thân cái gì chứ? Câu này dùng có vẻ sai?

Tôi vội đọc xuống nội dung bên dưới. Chung Ái Hoa tường thuật cặn kẽ quá trình tôi và cậu ta điều tra ở Trịnh Châu, còn đính kèm ảnh chụp dọc đường, các tình tiết cơ bản xác thực. Trong bài còn nhắc tới việc cảnh sát thuận lợi phá hủy hang ổ làm hàng giả, cứu Mai Tố Lan bị giam giữ ra. Đến đây, mọi thứ đều không vấn đề gì. Nhưng khi đọc tiếp, tôi lại được một phen bàng hoàng. Bài báo dùng giọng của tôi, nói rằng ổ làm hàng giả ở làng Thành Tế là sản nghiệp của Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa. Hội vốn giữ vai trò cầm cân nảy mực trong giám định cổ vật, nhưng giữa dòng chảy kinh tế thị trường đã đánh mất bản thân, bị lòng tham che mờ mắt, không chỉ làm hàng giả mà còn bắt giữ bậc thầy về kỹ thuật vẽ trang trí đồ gốm. Hứa Nguyện là người của Minh Nhãn Mai Hoa, không muốn thấy hội bị tiền bạc bào mòn lương tâm, đã anh dũng đại nghĩa diệt thân, thề trả lại sự minh bạch cho thị trường cổ vật.

“Toàn là bịa đặt!” Tôi nổi giận, suýt xé tan bản fax, đúng là dối trá từ đầu đến cuối, tôi nói thế bao giờ!

“Cậu dám chắc mình không nói những lời này chứ?” Cục trưởng Lưu hỏi.

“Tuyệt đối không!”

Cục trưởng Lưu thở dài, “Thế thì chúng ta gay to rồi.”

Thấy ông ta gõ ngón tay vào mép bản fax, tôi cúi đầu nhìn, bài báo này cũng mới ra hôm nay, nhưng tòa báo không phải ở Trịnh Châu hay Hà Nam, mà là một tờ báo nổi tiếng ở Thượng Hải, lượng phát hành và sức ảnh hưởng không thua gì Tin chiều thủ đô.

Ngồi giữa phòng bệnh có điều hòa hai mươi ba độ mà cả người tôi lạnh buốt như rơi xuống hầm băng.

Tất cả những điều này đều là âm mưu được ấp ủ từ lâu!

Lời dối trá đáng sợ nhất là bảy phần thật ba phần giả, trong thật có giả. Bài báo của Chung Ái Hoa có ảnh có chi tiết có trích dẫn, chỉ đến kết bài mới đưa ra một kết luận dối trá, làm độc giả tin sái cổ. Thế là tôi bị Chung Ái Hoa khéo léo xây dựng thành “anh hùng đánh hàng giả”, còn đổ vấy tội cho Minh Nhãn Mai Hoa nữa.

Vừa hay cùng lúc đó, tôi lại công khai bày tỏ nghi ngờ Thanh minh thượng hà đồ là hàng giả. Kết hợp hai bài báo, mọi người đều sẽ cho rằng đây lại là chứng cứ xác thực chứng minh Minh Nhãn Mai Hoa đã thối nát, một lần nữa bị anh hùng đánh hàng giả vạch trần. Bài báo này còn không đăng trên báo Trịnh Châu mà cố tình chọn một tờ báo ở Thượng Hải, một Nam một Bắc, một tung một hứng, sức ảnh hưởng sẽ tăng lên gấp mấy lần.

Để lọt hàng giả, làm giả, giam giữ trái phép. Những điều này ảnh hưởng thế nào tới việc cải tổ chuyển đổi của Hội, khỏi cần nghĩ cũng biết.

Chung Ái Hoa lừa tôi, chị Tố cũng lừa tôi, hai người bọn họ đóng kịch từ đầu đến cuối. Tất cả đều là âm mưu của Lão Triều Phụng. Chung Ái Hoa tiếp cận tôi rõ ràng có mục đích. Vẻ ngoài ngây ngô bộp chộp chỉ là vỏ bọc, con người thực của cậu ta vốn nham hiểm khó lường. Thảo nào cậu ta luôn miệng tâng bốc phụ họa tôi, khích lệ tôi điều tra chân tướng, hóa ra đều là mật ngọt chết ruồi. Chị Tố có lẽ cũng là con cờ sắp sẵn. Bà ta nhận lấy cây gậy tiếp sức Chung Ái Hoa chuyền, lái tôi chú ý đến Thanh minh thượng hà đồ. Nực cười nhất là tôi còn mừng rỡ tưởng mình đang trên con đường truy tìm chân tướng, nào hay lại rơi vào cạm bẫy kẻ khác dày công giăng sẵn.

Bằng thủ đoạn hèn hạ xảo quyệt, Lão Triều Phụng đã dạy cho tôi một bài học nhớ đời.

Xem ra ông Lưu nói chẳng sai, tôi quá nóng nảy bộp chộp. Thường nghe nói nhìn đồ dễ, nhìn người khó. Ngay chiếc nghiên cũ trên bàn ông Lưu tôi còn không phân biệt được thật giả thì sao nhìn thấu nổi lòng người. Tôi đặt bản fax xuống, lòng trĩu nặng ăn năn, tự thấy mình đúng là ngu hết chỗ nói.

“Ông Lưu nói sao ạ?” Tôi áy náy hỏi.

Cục trưởng Lưu chỉ ra cửa, “Ông ấy nằm phòng đối diện cậu.”

Tôi bàng hoàng, lẽ nào ông cụ tức quá ngã bệnh rồi?

Cục trưởng Lưu giải thích, “Dạo trước ông cụ lao lực quá độ nên phải vào viện điều dưỡng một thời gian. Tôi đã phong tỏa tin tức rồi, ông cụ chưa biết chuyện này.”

Nghe vậy, tôi thầm thở phào. Cục trưởng Lưu lại tiếp, “Nhưng tôi không giấu nổi những người khác trong họ.” Thảo nào vừa nãy thấy cả đám người của Minh Nhãn Mai Hoa phẫn nộ đứng trước cửa phòng tôi. Trong mắt họ, tôi là kẻ phản bội, quân ăn cháo đá bát. Nếu không có Phương Chấn và cục trưởng Lưu, chưa chừng họ sẽ lôi tôi ra giã cho một trận.

Tôi chẳng còn lời nào để biện minh, đành im lặng. Thực lòng tôi cũng thấy mình đáng ăn đòn lắm.

Cục trưởng Lưu nghiêm nghị nhìn tôi, “Giờ đang là lúc mấu chốt để cải tổ, tự nhiên lại bung bét ra hai chuyện thế này, ảnh hưởng quá nghiêm trọng. Tôi đã cho người đi cố gắng giải quyết rồi. Chúng tôi sẽ thay mặt cậu đăng bài thanh minh, cậu đừng tiếp nhận bất cứ cuộc phỏng vấn nào nữa, mà, tạm thời cũng đừng gặp ai cả, ngoan ngoãn ở đây tĩnh dưỡng, hiểu chưa?”

Tôi gật đầu lia lịa, như đứa trẻ phạm lỗi. Đột nhiên, tôi sực nhớ ra một chuyện, vội hỏi cục trưởng Lưu và giáo sư Trịnh, “Vậy hai điểm đáng ngờ trên Thanh minh thượng hà đồ rốt cuộc là thật hay giả?”

“Chuyện này cậu đừng quan tâm, sẽ có chuyên gia lo.” Giáo sư Trịnh trừng mắt.

Tôi ấm ức ngậm miệng, nhưng lòng vẫn băn khoăn. Tuy Thanh minh thượng hà đồ là quả đạn pháo Lão Triều Phụng bắn vào Minh Nhãn Mai Hoa, nhưng ảnh giám định không thể là giả được, rõ ràng bản trong Cố cung và bản lưu hành khác nhau. Nếu bức Thanh minh thượng hà đồ này có sơ hở thật, há chẳng phải Minh Nhãn Mai Hoa để lọt hàng giả ư?

“Tóm lại giai đoạn này cậu phải làm tảng đá, không được nói, không được nghe, cũng không được động đậy.”

Cục trưởng Lưu ra lệnh rồi cùng giáo sư Trịnh bỏ đi.

Còn lại tôi một mình nằm trong phòng bệnh vắng tanh, từng chuyện ở Trịnh Châu vùn vụt lướt qua tâm trí. Tôi bàng hoàng nhận ra, thoạt nhìn bề ngoài là tôi hăng hái điều tra, đạp bằng chông gai, song thực ra mọi quyết định đều bị Chung Ái Hoa âm thầm dắt mũi. Hắn lấy danh nghĩa “người hâm mộ”, biến tôi thành con rối, bảo tôi đi tới đâu tôi bèn đi tới đó, muốn tôi làm gì tôi sẽ làm nấy.

Đáng giận hơn là, trong suốt quá trình, rõ ràng Chung Ái Hoa đã để lộ nhiều sơ hở. Chỉ cần lưu tâm một chút thì chẳng khó nhận ra. Nhưng tôi chỉ chăm chăm tóm cho được Lão Triều Phụng, hễ ai can ngăn là khùng lên như chó thấy xương, cắm đầu xông vào cắn. Chấp niệm của tôi với Lão Triều Phụng, cuối cùng lại hóa thành miếng mồi nhử tốt nhất của lão.

“Thằng chết toi…” Tôi nghiến răng. Tên khốn kia đóng kịch quá giỏi, thủ hạ của Lão Triều Phụng đúng là toàn bọn quái thai.

Nghĩ đến đó, tôi bỗng nhớ tới một kẻ lừa đảo khác.

Chị Tố.

Đến giờ tôi vẫn nghi hoặc chẳng rõ chị Tố là một trong những kẻ tham gia hay một quân cờ bị lợi dụng nữa, bà ta lừa tôi, nhưng ai dám bảo đảm bà ta không bị lừa gạt? Hai mắt chị Tố mù thật, thủ pháp vẽ tranh trong bóng tối cũng không phải ngày một ngày hai mà luyện được; còn cả thủy trì bà ta gửi cho Hoàng Khắc Vũ nữa. Nếu chỉ muốn lừa tôi vào tròng thì cần gì bày ra lắm tình tiết rườm rà phức tạp thế. Tôi nhớ khi nhắc tới cái tên Mai Tố Lan, cả cục trưởng Lưu lẫn giáo sư Trịnh đều biến sắc. Chắc hẳn bà ta là một nhân vật không đơn giản.

Chưa chừng bà ta bị giam cầm trong làng Thành Tế thật, và bị Lão Triều Phụng ép lừa gạt tôi. Bất luận thế nào, tôi cũng không ghét nổi người phụ nữ cầm bút vẽ trong bóng tối ấy. Có lẽ chỉ còn cách đi hỏi Hoàng Khắc Vũ mới biết được câu trả lời.

Song tôi gây họa lớn thế này, Hoàng Khắc Vũ không tuốt xương tôi ra đã là khoan dung lắm rồi.

“Mẹ kiếp…”

Tôi đấm mạnh vào tường, đau thấu tim gan.


Mấy ngày tiếp theo, tôi ngoan ngoãn nằm trên giường sám hối, chẳng ai tới thăm nom. Mỗi ngày ba bữa chỉ có Phương Chấn ghé đưa cơm, nhưng hầu như không nói năng gì.

Viêm loét dạ dày chẳng phải bệnh gì nghiêm trọng, chỉ mấy hôm tôi đã khỏe lại, nhúc nhắc xuống giường đi lại được. Có điều tôi không dám thò ra khỏi phòng, bởi ông Lưu ở ngay phòng đối diện. Tuy ông ta nói chuyện vòng vo tam quốc, nhưng vẫn có ơn với tôi. Tôi tự cho mình là đúng, gây họa lớn thế này, nếu ông cụ hay tin bị sốc, xảy ra chuyện gì đó thì tôi sẽ ân hận cả đời.

Trái với tôi, người đến thăm Lưu Nhất Minh cứ nườm nượp. Cục trưởng Lưu đã cấm họ không được tiết lộ với ông cụ, nhưng hễ ra đến hành lang, họ lại nôn nóng thảo luận với người khác về khủng hoảng lần này của Minh Nhãn Mai Hoa. Nghe lỏm họ nói chuyện, tôi mới biết tình hình Minh Nhãn Mai Hoa hiện giờ quả là không ổn.

Thời gian này, các tổ chức trực thuộc Minh Nhãn Mai Hoa liên tục xảy ra chuyện. Nào là tiệm đồ cổ bị người ta đập bảng hiệu, rồi đến cơ quan nghiên cứu bị thẩm tra, thậm chí công xưởng chính quy còn bị ban ngành công thương địa phương tra xét, nhất thời nguy cơ trùng trùng. Xem ra Lão Triều Phụng đã cài cắm nhiều đòn hiểm chờ sẵn, lần này giở ra một lượt, muốn đẩy cao những luồng dư luận bất lợi cho Minh Nhãn Mai Hoa.

Hội bị đánh cho xiểng liểng, phải huy động đủ mọi quan hệ để thanh minh, nhưng đã trót mắc tiếng xấu, dân tình xôn xao bàn tán, người trong nghề cũng ngờ vực không thôi. Chuyện ở làng Thành Tế còn dễ giải thích, vấn đề giám định Thanh minh thượng hà đồ mới khó. Bức họa này quá nổi tiếng, thôi thì đủ các thành phần từ giới sưu tầm, giới văn hóa, giới khảo cổ, giới nghệ thuật đến giới sử học đều nhìn vào, nhao nhao đòi Cố cung mở kho lưu trữ ra giám định lại, nghe nói cấp trên chủ quản ban ngành còn gọi cục trưởng Lưu đến giảng cho một bài.

Một tổ chức sống nhờ uy tín lại vấp phải khủng hoảng niềm tin, thật gay go hết sức.

Mỉa mai nhất là danh tiếng của tôi lại lên như thuyền theo nước. Xã hội coi tôi là anh hùng đánh đồ giả, nhiều phóng viên lượn lờ cả ngày quanh Tứ Hối Trai, một dạo còn có tin đồn tôi bị Minh Nhãn Mai Hoa hãm hại bắt giam. Nói thực lòng, tất cả những điều này đều là sự sỉ nhục tàn nhẫn nhất dành cho tôi. Giữa tình thế rối ren, lại thêm ông Lưu ngã bệnh nằm viện, tuy kế hoạch mở sàn đấu giá vẫn được tiến hành, song hết sức bấp bênh.

Tôi vốn muốn trở thành lưỡi dao giết chết Lão Triều Phụng, cuối cùng lại bị lão biến thành thanh kiếm chĩa vào Minh Nhãn Mai Hoa.

Hơn nữa còn một kiếm xuyên tim.

Càng nghe ngóng, tôi càng buồn bã, càng buồn bã lại càng tự trách, rốt cuộc chỉ biết cam chịu vùi mặt vào gối, chẳng còn mặt mũi gặp ai nữa.

“Nếu đây là ác mộng thì mau mau chấm dứt đi thôi.” Tôi lẩm bẩm giữa đêm khuya thanh vắng.

Nhưng tôi không bao giờ ngờ được, đó chỉ là mở màn.