Tôi tựa đầu vào cửa xe, đờ đẫn nhìn ra trước mặt. Đằng trước tối đen như mực, hai ngọn đèn pha chỉ soi sáng được trong phạm vi mấy mét, có thể trông thấy từng vệt trắng không ngừng chạy lùi về phía sau. Tôi như quay trở lại lúc theo Mắt Trố đi ăn trên chiếu, so ra lúc ấy tôi hạnh phúc làm sao.
Sau khi rời biệt thự của Đới Hạc Hiên, tôi cứ nghĩ hai thằng sẽ về thành phố nghỉ ngơi trước rồi hôm sau mới lại lên đường, nhưng Dược Bất Nhiên không ngừng không nghỉ, lái xe đến thẳng núi Tử Kim ở ngoại ô phía Đông Nam Kinh. Giờ đã hơn mười giờ đêm. Trên đường gần như không thấy người xe qua lại, chỉ có chiếc xe của chúng tôi lao đi vun vút, như cô hồn chạy dưới âm ty.
Trong xe tĩnh lặng như tờ, sau khi Dược Bất Nhiên thốt ra câu nói lạ lùng kia, chúng tôi chẳng ai nói năng gì nữa. Gã lẳng lặng lái xe còn tôi đờ đẫn nhìn rặng núi cao ngất trải dài ngoài cửa sổ.
Lăng Trung Sơn mà Dược Bất Nhiên nói nằm ở ngọn Đông núi Mao Sơn trong dãy Tử Kim, được xây năm 1929, an táng quốc phụ Tôn Trung Sơn. Trước đây có một thầy phong thủy người miền Nam từng nói với tôi, phong thủy lăng Trung Sơn không đẹp lắm. Tuy có núi dựa như bình phong, tọa Bắc hướng Nam, nhưng xét toàn thể lăng tẩm thì huyệt cao mà núi dựa lại thấp, lộ hẳn ra ngoài, mở toang hoang, phạm vào cấm kỵ mộ phần phải “được gió ẩn nước”. Có điều thầy phong thủy kia nói, long huyệt đẹp nhất Nam Kinh nằm dưới chân ngọn Ngoạn Châu mé Tây lăng Trung Sơn, nhưng ở đó đã đặt lăng Minh Hiếu, tức mộ Chu Nguyên Chương rồi. Tóm lại vẫn phải theo thứ tự trước sau.
Theo lời thầy phong thủy nọ thì sau khi Tôn Trung Sơn làm cách mạng thành công, lần đầu tiên đến viếng lăng Minh Hiếu đã dùng thân phận bề tôi để dâng hương kính cáo Minh Thái Tổ. Tối hôm ấy Chu Nguyên Chương báo mộng cho Tôn Trung Sơn, nói rằng ông ta có công đánh đuổi man di, nên sẽ chia cho nửa phong thủy núi Tử Kim. Song Tôn Trung Sơn là vĩ nhân, không muốn chiếm đoạt phong thủy lăng Minh Hiếu nên trước lúc mất đã để lại di chúc chôn mình ở vị trí bề tôi, vừa che chắn cho lăng Minh Hiếu, cũng không sẻ bớt long khí. Nếu là người trung thành nửa đêm đi vào núi sẽ thấy trong thung lũng giữa lăng Trung Sơn và lăng Minh Hiếu có một con rồng trắng lượn vòng quanh, đó chính là long khí mà hai người nhường qua nhường lại cho nhau.
Những truyền thuyết dân gian này phần lớn đều là lời đồn thổi gán ghép, mê tín dị đoan, có điều giờ đi vào núi Tử Kim, tôi thực sự cảm thấy nó không giống những ngọn núi khác. Nửa đêm vào núi, thường thì sẽ thấy lạnh buốt thấu xương, không rét mà run, tựa hồ có vô vàn thứ đáng sợ đang nấp trong bóng tối dày đặc xung quanh. Song hiện giờ chẳng những tôi không thấy gì khó chịu, mà còn cảm giác giữa những ngọn núi trùng điệp có một đôi mắt lặng lẽ quan sát mình, cái nhìn ôn hòa, quảng đại mà không lấn lướt, rất khó nắm bắt, song hiện diện ở khắp mọi nơi.
Tôi chẳng biết đây có phải ảo giác hay không. Có điều dưới ánh mắt có lẽ không hề tồn tại ấy, tâm trạng tôi quả thực đã bình tĩnh hẳn.
Lẽ nào mình cũng được tính là trung thành ư? Câu hỏi nực cười này đột nhiên nảy ra trong đầu tôi. Tôi quay mặt nhìn sang Dược Bất Nhiên thấy gã chăm chú lái xe, mím chặt miệng, không huyên thuyên luôn mồm như mọi khi nữa. Gã có được coi là trung thành không? Gã có cảm nhận được luồng sức mạnh kỳ diệu bắt nguồn từ lăng Trung Sơn không?
Khép lại những suy nghĩ vẩn vơ, tôi nhanh chóng quay về với hiện thực trước mắt. Dược Bất Nhiên và Lão Triều Phụng đưa tôi đến lăng Trung Sơn định làm gì? Dược Bất Nhiên nói rằng để tôi trở lại thành Hứa Nguyện trước kia là ý làm sao? Chẳng lẽ bắt tôi ở lại đó canh lăng?
Xe chạy chừng nửa giờ thì rời đường lớn, chạy vào đường núi chừng mười phút rồi dừng lại. Tôi nheo mắt nhìn quang cảnh phía trước, dưới ánh đèn xe, có thể thấy đây là chân núi mấp mô, lưng dựa vào vách đá cao ngất, hai bên nhô lên hai dốc núi, ở giữa là một khoảnh đất bằng khá nhỏ. Giữa khoảnh đất là một ngôi nhà gạch hình chữ nhật trông như doanh trại bộ đội những năm 50, 60, trên tường hình như còn loang lổ biểu ngữ, nhưng không nhìn rõ được. Từ vị trí này nhìn ra chỉ thấy quanh nhà có rất nhiều bóng đen, song không biết là gì.
“Đi thôi.” Dược Bất Nhiên vẫy tay với tôi.
“Ở đây à?” Tôi nghi hoặc.
“Đúng rồi.” Dược Bất Nhiên không giải thích nhiều.
Đi được mấy bước, tôi bỗng khựng lại, cả người lạnh toát. Vầng trăng đã ló ra khỏi đám mây, giờ tôi có thể lờ mờ trông thấy những bóng đen kia đều là bia mộ, cao thấp dài ngắn đủ cả, san sát bao quanh doanh trại, âm trầm mà rùng rợn.
Đây lẽ nào là nghĩa địa trong núi Tử Kim? Nhưng làm gì có doanh trại nào lại xây giữa đống mồ mả thế này? Dược Bất Nhiên đưa tôi đến chỗ quỷ quái nào đây? Không phải có quỷ ám thật chứ?
Hàng loạt câu hỏi hiện lên trong đầu tôi, đúng lúc này, một gian phòng trong doanh trại bỗng sáng đèn. Ánh đèn vàng vọt chỉ soi sáng được một khu vực rất hẹp ngoài cửa sổ. Tôi còn chưa nhìn rõ bên trong có người hay không thì một con béc giê Đức đột nhiên từ trong nhà lao ra, chạy xồ về phía chúng tôi sủa váng lên. Tiếng sủa rất vang, thoắt chốc đã đánh động chim chóc trên cây bay rào rào.
Dược Bất Nhiên huýt sáo, lập tức con chó kia ngoan ngoãn ngậm mõm, vẫy đuôi chạy đến đón. Xem ra gã là khách quen ở đây. Con béc giê dẫn hai chúng tôi tới trước cửa phòng. Bấy giờ tôi mới để ý thấy tuy bốn bề đều là bia mộ, nhưng phần lớn không dựng trên mộ mà dựng trên mặt đất, kẹp giữa hai phiến đá để chống cho khỏi đổ, còn có rất nhiều bia đá ngổn ngang dưới đất, như một bàn mạt chược vừa chơi xong. Những tấm bia này đều khá lâu đời, đa phần mặt bia đều có vết nứt và lốm đốm vệt xanh, song là cổ thật hay giả cổ thì không dám chắc.
Dược Bất Nhiên hạ giọng dặn tôi, “Người lát nữa chúng ta gặp rất đơn thuần, không liên quan gì đến giới cổ vật cả, mày không cần phí công khách sáo, cứ ở đây đợi làm là được.”
“Làm gì cơ?”
“Anh ta bảo gì thì mày làm cái đó.”
Lúc này trong doanh trại có một người chắp tay sau lưng bước ra. Người này tuổi ngoại tứ tuần, mặt đầy nếp nhăn, gò má trái còn có nốt ruồi đen trông rõ mồn một. Dáng dấp anh ta thấp đậm, đứng đó trông vững vàng như một con sư tử đá.
“Anh Từ, em dẫn người đến cho anh rồi này.” Dược Bất Nhiên cười rồi đẩy tôi một cái. Anh Từ chỉ “Ừm” một tiếng, không tỏ thái độ gì. Tôi chìa tay ra bắt tay anh ta, để ý thấy bàn tay anh ta rất to, hổ khẩu có vết chai, hẳn là công nhân khai thác đá. Từ quan sát tôi chốc lát rồi im lặng dẫn theo con béc giê quay vào nhà.
Dược Bất Nhiên dặn tôi, “Được rồi, mày ngoan ngoãn ở đây đi, tao té đây.” Tôi ngớ người, mới thế đã coi như xong rồi à? Dược Bất Nhiên còn nói thêm, “Anh ta không bị câm đâu, chỉ kiệm lời thôi.”
“Thế khi nào mày quay lại đón tao? Năm ngày hay mười ngày?”
“Lão Triều Phụng nói tới lúc đó mày sẽ tự biết thôi.”
Tôi nhíu mày, “Yên Yên vẫn đang bị giam, ông Lưu ở Bắc Kinh chỉ chèo chống được nhiều nhất một tháng. Bọn tao không có nhiều thời gian đâu.”
“Nếu mày không ở đây bình ổn lại tâm trạng thì có cho mày một năm cũng vô ích.” Nói vậy nhưng câu sau Dược Bất Nhiên lại quay ra xoa dịu tôi, “Đằng Yên Yên tao sẽ nghĩ cách, dù không cứu ra được ngay, cũng sẽ không để cô ấy phải chịu khổ.”
“Quan trọng là Đới Hạc Hiên.” Tôi lo lắng. Lão là hy vọng duy nhất để cứu Minh Nhãn Mai Hoa, nhưng sau khi cược thua, trong tay tôi chẳng còn gì để trao đổi với lão nữa. Dù tôi có tu thành chính quả ở đây, thì cũng được tác dụng gì? Như nhìn thấu tâm tư tôi, Dược Bất Nhiên xoa cằm cười nhạt, “Chuyện đó mày cứ yên tâm, hôm nay chúng ta cũng không đến nỗi tay trắng về không, ở nhà tên lừa đảo ấy, tao đã để ý thấy một chuyện rất hay, có thể lợi dụng được.”
“Là gì?”
Ánh mắt Dược Bất Nhiên lóe lên sắc lạnh, không thấy vẻ cợt nhả mọi khi đâu nữa, “Mày cứ đợi mà xem, đến lượt tao ra tay rồi.”
Nhất thời tôi không biết nên cảm ơn gã, hay vẫn giữ thái độ thù địch. May sao Dược Bất Nhiên cũng chẳng hy vọng tôi đáp lại, chỉ giơ tay lên chào rồi quay người đi.
Đợi xe lăn bánh, tôi cũng quay lưng đi vào căn nhà giữa lòng núi kia. Xem ra nơi đây vốn là doanh trại quân đội, giờ được cải tạo lại, bên trong chỉ kê một giường xếp giản dị, những chỗ khác đều bị bia đá, gạch xanh, giấy đủ mọi chủng loại và vài vật dụng lạ lùng choán hết. Còn một bàn làm việc rộng, bên trên chất đống sách vở và tài liệu.
Tôi để ý thấy ngoài giường xếp ra, nơi này không hề có hơi thở hiện đại. Giấy là giấy tuyên, từng cuộn từng cuộn đặt trong sọt trúc; trên bàn chỉ có hai cây bút lông, một thỏi mực và một chiếc nghiên, không có bút bi hay bút máy, đều là đồ bán trong cửa hàng văn phòng phẩm, chẳng có gì quý giá. Bên kia phòng bắc một bếp lò, trên đặt chiếc nồi sắt to tướng, cạnh đó là đống củi xếp ngay ngắn. Trần nhà treo một cây đèn dầu, tỏa sáng leo lét.
“Cậu ngủ ở đây, sáng mai sáu giờ dậy.” Anh Từ trỏ chiếc giường xếp.
Tôi thầm nghĩ chuyện gì đến ắt phải đến, để xem họ giở trò gì, bèn hỏi, “Sáng mai làm gì đây?”
“Rập bia.” Anh Từ chẳng buồn nhướng mắt. Tôi ngẩn người, không ngờ lại là việc này.
Rập bia còn gọi là rập mực. Thời cổ không có máy in, cũng không có máy ảnh, nếu muốn phục chế lại nguyên dạng văn tự trên bia đá chỉ có duy nhất một cách là dùng mực rập lại. Nguyên lý của nó cũng giống như in bản kẽm bây giờ, tức là dán giấy ướt lên mặt bia, để nó bám vào những vết lồi lõm trên văn bia, sau đó quét mực lên trên rồi bóc giấy ra, thế là văn bia đã được rập lại nguyên trạng. Bởi vậy bản rập phần nhiều là nền đen chữ trắng, giống phim âm bản vậy.
Bia đá quá nặng, không dễ di chuyển nên phần lớn giới cổ vật chỉ trao đổi bản rập bia đá, gọi là thiếp bia. Thứ này được gọi là hổ đen, giá trị rất cao, nhưng hàng giả cũng lắm, hễ sơ suất sẽ bị hổ vồ cụt cả vốn.
Rập mực không có gì thần bí, cùng lắm chỉ là một kỹ thuật thôi, tuy tôi chưa bao giờ bắt tay vào làm nhưng vẫn hiểu được những điểm cơ bản. Chẳng lẽ rập bia có thể giúp bình ổn lại tâm trạng ư? Tôi nghi hoặc thầm nhủ, thấy hơi khó tin.
Có điều anh Từ tính lầm lì, hỏi cũng vô ích. Nghĩ vậy tôi bèn nằm xuống giường đi ngủ, để xem ngày mai họ bày ra trò gì.
Hôm sau trời vừa tảng sáng, tôi đang mơ màng ngủ thì thấy có người lay tay. Mở mắt ra liền trông thấy con béc giê của anh Từ đang kéo tay áo mình. Tôi ngồi dậy, anh Từ đã nấu xong nồi cháo, ăn kèm mấy túi dưa cải muối và vài lát thịt khô hun khói đen đúa trên đĩa. Nấu cháo bằng bếp lò ngon hơn bằng nồi cơm điện, hạt gạo mềm dẻo thơm phức, tôi ăn một hơi hết bay hai bát.
Ăn xong bữa sáng, anh Từ ra hiệu rồi dẫn tôi ra sân sau. Tôi nhìn quanh, lúc này mặt trời vừa lên, không khí trong lành, bên tai vẫn nghe rỉ rả tiếng trùng kêu và líu lo chim hót, thấp thoáng thấy cả lăng Trung Sơn xa xa, thật là một nơi thích hợp để tu tâm dưỡng tính. Tôi phóng mắt nhìn khắp sân sau, thấy ngổn ngang toàn bia đá đủ mọi kích cỡ, còn nhiều hơn trong nhà, hoặc đứng hoặc nằm, đủ để làm cả một rừng bia.
Anh Từ rốt cuộc là người thế nào mà lại sống giữa cả đống bia đá trong doanh trại bỏ hoang này?
Anh Từ dẫn tôi đến trước một tấm bia đặt nằm ngang, cao chừng mét rưỡi, bên trên khắc hơn trăm chữ. Tôi đọc qua nội dung, thấy không phải hàng giá trị gì lắm, do một hương thân ở Nam Kinh lập cho mẹ vào khoảng những năm Quang Tự thời Thanh, lời văn cũng chẳng đặc sắc mấy, giới thiệu đơn giản về cuộc đời của bà mẹ mà thôi.
Trước tấm bia đã đặt sẵn các dụng cụ như giấy rập, mực, con đập, bàn chải xơ cọ, cọ vẽ, miếng nỉ v.v… Cọ vẽ đã có phần trụi lông, miếng nỉ xơ cả mép, có lẽ đây là những thứ hằng ngày anh Từ thường dùng.
Xem ra công việc chính của anh ta ở đây là rập bia. Giờ mọi người đều chụp bằng máy ảnh, song anh ta vẫn kiên trì dùng phương pháp cổ lỗ này, lại thêm trong nhà hầu như không có phát minh hiện đại nào, có thể thấy đây là một ẩn sĩ giữ nếp xưa. Tôi liếc anh ta, chợt cảm thấy con người lầm lì này thật thú vị.
“Hôm nay cậu rập nó.” Anh Từ chỉ nói vỏn vẹn năm chữ rồi bỏ đi, chẳng buồn phổ biến trong lúc rập phải chú ý những gì.
Thôi được, không nói thì thôi. Tôi đã đọc về cách rập bia qua sách vở mãi rồi, thiếp bia qua tay cũng phải mười mấy tấm, chưa ăn thịt lợn thì thôi, chẳng lẽ còn chưa bao giờ trông thấy con lợn hay sao? Cúi đầu quan sát một hồi, tôi xắn tay áo lên, thầm nghĩ thế mà cũng có một ngày mình chính tay rập bia cơ đấy.
Lúc này anh Từ chợt quay lại, bưng một bát nước cơm nghi ngút khói. Thoạt tiên tôi ngỡ anh ta sợ tôi chưa đủ no, về sau thấy anh ta lọc hết gạo lẫn trong bát mới hiểu ra thứ này dùng để dán giấy.
Trong rập bia có một khâu quan trọng là dán giấy. Để giấy dính chặt vào bia, thông thường người ta sẽ nhúng giấy vào nước hoặc nước cơm. Nếu là thợ rập uy tín còn dùng keo đun bằng nước bạch cập, song anh Từ ở trong núi sâu, điều kiện thiếu thốn, nước cơm vừa ăn được vừa dùng được là tiện nhất.
Anh Từ đặt bát xuống, chẳng dặn câu nào đã chắp tay sau lưng bỏ đi. Tôi thầm nhẩm lại một lượt quy trình đọc trong sách vở, làm mấy động tác khởi động khớp vai rồi ngồi xuống, chuẩn bị bắt tay vào làm.
Bước đầu tiên trong việc rập bia là làm sạch mặt bia. Tôi cầm chổi lông cỡ đại lên nhúng nước rồi chải khắp mặt bia một lượt cho sạch bụi bặm, sau đó đổi sang chổi cỡ nhỏ, chải sạch những đất cát cỏ dại bám trong khe kẽ. Chỉ riêng công tác chuẩn bị này đã mất hơn nửa tiếng. Đó là còn may, có những tấm bia cổ bám đầy rêu xanh còn phải dùng lửa đốt. Có lúc đốt mấy lần, đá khô giòn nứt cả ra, tới lúc đó muốn cứu vãn cũng chẳng kịp.
Nói cũng lạ, lúc chải mặt bia, những tạp niệm trong đầu tôi ít hẳn. Xem ra khi chăm chú làm việc gì đó, con người ta sẽ không dễ bị phân tán.
Làm sạch mặt bia xong, tôi cầm một tờ giấy lên, anh Từ đã xén sẵn để giấy lớn gấp đôi mặt bia. Tôi vê ngón tay, nhận ra đây là giấy Liên Sử mỏng của Uông Lục Cát. Uông Lục Cát là thương hiệu lâu đời có từ đầu thời Minh, hai năm trước còn được giải bạc của bộ Công nghiệp nhẹ. Giấy Tuyên của họ mỏng vừa phải, vê trong tay thấy dẻo quánh. Giấy dùng rập bia phải dẻo, từ đây có thể thấy anh Từ rất có mắt nhìn, quả là lành nghề.
Tôi gấp tờ giấy lại thành hình chữ nhật, nhúng vào nước cơm rồi lấy ra phủ lên vải ướt, lại đặt chồng một tờ giấy khô lên. Đoạn tôi ấn tay lên để bảo đảm giấy ướt đều. Xong xuôi đâu đấy lại cầm bút lên chấm nước cơm quét thêm lượt nữa lên mặt giấy rồi dán vào bia, căn cho bốn góc khít nhau. Sau đó lấy miếng nỉ tỉ mỉ thấm bớt nước, thay sang bàn chải xơ cọ, quét cho giấy dính chặt vào mặt bia, không hở lỗ khí nào. Cả quá trình kể ra thì phức tạp nhưng làm lại rất nhanh. Tôi vừa nghĩ đây đúng là trình độ thủ công của học sinh tiểu học, tay sơ ý dùng lực hơi mạnh, bàn chải lập tức cào rách mặt giấy.
Bản rập bia chỉ cần rách một chỗ là vứt đi cả tờ. Tôi rầu rĩ lắc đầu, bóc giấy ra, thay tờ khác. Lần này làm thật cẩn thận, chải giấy dính sát vào bia.
Dán giấy xong, tiếp theo phải đập cho giấy ăn chữ. Việc này cực kỳ tỉ mẩn, phải dùng bàn chải và chày gỗ đập vào kẽ hở giữa các nét bút, để giấy Tuyên ăn vào miệng chữ, dán chặt vào những chỗ lõm trên mặt bia. Tấm bia đá này có hơn trăm chữ, thể chữ cũng không lớn, nếu đập lần lượt từng chữ một thì phải rất kiên nhẫn. Tôi bò ra đập được chừng hai ba chục chữ đã sốt cả ruột. Tới chữ thứ năm mươi, tôi thở hồng hộc đứng dậy, mệt đến váng đầu hoa mắt.
“Lao động tay chân vô nghĩa thế này có thể bình ổn tâm trạng ư? Sao lại thấy càng lúc càng cáu kỉnh thế nhỉ?” Tôi bắt đầu oán trách Dược Bất Nhiên. Đúng lúc này, một mối nghi ngờ nảy ra trong đầu tôi, con cáo già Lão Triều Phụng không phải định cầm chân tôi ở đây để chúng rảnh tay bày ra âm mưu quỷ kế gì đó chứ?
Dược Bất Nhiên chẳng cũng nói đấy ư? Tới lúc gã ra tay rồi. Rốt cuộc là ra tay với Đới Hạc Hiên hay với tôi?
Tôi nghĩ mà sốt cả ruột, bèn bỏ chổi xuống, định rời sân sau. Lúc này anh Từ từ trong phòng đi ra, thấy tôi định đi thì lẳng lặng đặt tay phải lên vai tôi. Tay anh ta đặt lên rất từ tốn, nhưng lại như Thái Sơn đè xuống, khiến tôi không sao cử động được, tức khắc khòm cả người.
“Làm việc phải đến nơi đến chốn.” Anh ta nói.
Xem ra anh Từ còn kiêm cả nhiệm vụ giám sát tôi. Tôi tức tối quay người ngồi xuống trước tấm bia, tiếp tục đập từng chữ. Hì hục mãi đến trưa mới xong tất cả. Tôi mỏi nhừ lưng đứng dậy, định đi ăn, nào ngờ vào nhà mới thấy anh Từ đi đâu mất, chỉ để lại một tờ giấy, trên là nét bút đẹp đẽ thể tiểu khải, nói rằng anh ta vào thành phố một chuyến, bảo tôi tự nấu cơm.
Tôi cầm tờ giấy đứng thần người ra, lẽ nào không phải anh ta giám sát tôi sao? Sao lại tự dưng bỏ đi thế này? Đi tới trước bàn làm việc của anh ta, tôi thấy một xấp giấy dày cộp, đều là văn bia rập lại và những tài liệu khảo chứng về bia cổ. Từng nét bút nắn nót rõ ràng, chỗ nào viết sai thì dán giấy trắng lên, hết sức kỹ càng tỉ mỉ. Đủ thấy Từ đã bỏ nhiều tâm huyết vào đó. Bên cạnh xếp toàn thiếp bia, có những bức in từ ảnh ra, có bức Từ tự rập, góc dưới bên phải đánh số, ghi thời gian địa điểm và tên đầy đủ của Từ - Từ Thư Xuyên.
Tôi đếm kỹ thấy phải đến hơn hai trăm bản rập, trong vòng bảy tám năm, không khỏi lấy làm kinh hãi. Muốn tìm được, rập được, khảo chứng được những tấm bia cổ này đều phải mất rất nhiều thời gian, mấy năm nay e rằng anh ta chỉ vùi đầu làm chuyện này, không nghĩ tới việc gì khác.
Một mình ẩn cư giữa núi rừng, cách xa nhân thế, một lòng một dạ khảo cứu và rập lại bia cổ gần mười năm nay, phải có tinh thần sắt đá đến đâu? Giờ là thập niên 90 của thế kỷ XX rồi mà! Ai lại bỏ công đi làm một việc vừa vô nghĩa vừa không đem lại tiền bạc gì như thế chứ!
Tôi nhắm mắt lại, hình dung ra cảnh anh Từ lẻ loi ở đây, khom lưng cúi đầu, một mình một bóng. Giữa những hàng chữ trên các bản rập này, có thể cảm nhận được tinh thần bền bỉ khiến người ta phải kính nể, anh Từ cũng như luồng sức mạnh đêm qua tôi cảm nhận được ở lăng Trung Sơn, đều toát lên ý chí mạnh mẽ, nguyện hiến dâng cả bản thân cho sự nghiệp mình hằng đeo đuổi.
Tôi không xem trộm tập tài liệu kia viết gì mà cung kính lui ra khỏi “phòng đọc sách” của anh ta, vô cùng hổ thẹn vì mình từng coi anh ta là một tên cai ngục. Tin rằng người có quyết tâm và ý chí mạnh mẽ như thế, không thể bị kẻ khác ràng buộc hoặc khống chế được. Xem ra Dược Bất Nhiên nói thật, anh Từ là một người đơn thuần đến cực điểm, không thuộc về giới nào cả, mà chỉ đắm chìm trong thế giới của riêng mình.
Giờ tôi đã hơi hiểu vì sao Dược Bất Nhiên đưa mình tới đây rồi.
Tôi nhìn ra cổng, cuối cùng vẫn không bỏ đi.
Bữa trưa tôi chỉ rán qua loa quả trứng ăn tạm rồi trở lại sân sau, đứng trước tấm bia quan sát. Chữ đã đập xong, việc tiếp theo là vỗ mực. Nhìn xuống tờ giấy Tuyên trắng phau trên mặt bia, tôi cố gạt bỏ mọi tạp niệm trong đầu, tập trung tinh thần vào hơn một trăm chữ này.
Anh Từ đã chuẩn bị sẵn con đập. Đó là hai cục bông trông như củ tỏi, bên ngoài bọc hai lớp vải lụa, đáy phẳng. Tôi dùng bút lông quết mực vào lòng đĩa, đây là loại mực Tùng Yên, chất lượng thượng hạng, còn được anh Từ thêm vào nửa bát lòng trắng trứng, trông óng ánh đẹp mắt. Kế đó, tôi phết mực lên con đập, xoa vào nhau cho thật đều, sau đó cầm vỗ lên mặt giấy.
Theo sách miêu tả thì khi vỗ cần nhẹ tay, trước nhẹ sau nặng, làm đi làm lại ba bốn lần, tới khi đen bóng lên như than đá, đen trắng rõ ràng mới coi là được. Nhưng tôi chẳng mấy chốc đã nhận ra trò vỗ mực này cũng như trượt băng, nói thì đơn giản, thực ra chẳng dễ dàng gì. Tôi siết chặt con đập, cầm thế nào cũng thấy ngượng tay, đừng nói là vỗ.
Trong sách còn nói rập mực phải “trước nhẹ sau nặng”, khiến tôi càng lúng túng tợn. Thế nào là nhẹ, thế nào là nặng? Tôi cầm con đập chà từng mảng, không mờ quá thì lại bị đọng thành vũng. Loay hoay mãi mới rập được một hàng, nhìn lại thì thấy vết mực lem nhem, tệ không tả nổi. Định vỗ thêm mấy cái, không ngờ lại hơi quá tay, làm giấy dúm cả, phải vỗ cho phẳng mới làm tiếp được. Tôi nghiến răng vỗ quần quật được một lượt, cúi đầu xem lại, khoan bàn đến việc mực có đều hay không, chỉ nhìn chữ nào chữ nấy đậm nhạt loang lổ đã chẳng muốn đọc. Ngẫm kỹ lại có lẽ là do ban sáng tôi đập chữ chưa đến nơi đến chốn, giấy chưa ghim chặt vào mặt bia, không thể hiện được những nét lồi lõm của con chữ nên lúc rập mới tệ thế này.
Tôi loay hoay cả buổi chiều, bỏ đi đến bảy tám tờ giấy tuyên, mệt hoa cả mắt mà vẫn chưa rập được bản nào. Bấy giờ mới biết kỹ thuật này nhìn thì dễ, thực ra còn khó hơn cả khiêu vũ.
Gần tối, anh Từ khệ nệ vác một bao gạo to tướng về. Ra sân sau, thấy tôi hì hục toát mồ hôi mà chẳng nên cơm cháo gì, anh ta nhìn tôi một lát rồi cúi xuống làm mẫu một lần. Đúng là dân chuyên có khác, rập nhẹ như không, điêu luyện tựa mây trôi nước chảy, chưa kịp nhìn xem anh ta thao tác thế nào thì mặt bia đã được quét một lớp mực đen đều.
Từ đặt con đập xuống, buông nhẹ tênh chín tiếng, “Đừng dùng ngón tay, dùng sức cổ tay thôi.” Tôi làm theo, quả nhiên khá hơn hẳn. Đang định cúi xuống rập tiếp thì anh Từ ngăn tôi lại.
“Trời tối rồi, mai làm tiếp.”
Hai chúng tôi thu dọn đồ đạc, chuyển hết vào nhà. Cơm nước đã xong xuôi, cơm ăn với rau xào, còn có mấy cây nấm.
Chúng tôi ngồi cạnh bếp lò, im lặng ăn cơm. Tôi đặt bát xuống, quẹt miệng, thốt ra câu hỏi đã ấp ủ từ lâu, “Anh ở đây bao lâu rồi?”
“Tám năm.” Anh Từ đáp cụt lủn.
“Chỉ rập bia thôi à?”
“Ừ.” Lúc rập bia anh Từ phóng khoáng bao nhiêu thì khi nói chuyện lại kiệm lời bấy nhiêu.
“Tại sao?” Tôi đánh bạo hỏi.
Từ đặt đũa xuống nhìn tôi, “Vì bia ở đó.”
Câu trả lời này đầy tính triết học, nhưng thực ra là hỏi một đằng trả lời một nẻo. Hình như anh ta đang né tránh nên tôi cũng không tiện gặng tiếp… Cả hai lẳng lặng ăn cho xong bữa. Tôi xung phong nhận chân rửa bát anh Từ cũng chẳng buồn khách sáo, quay người vào phòng thắp đèn dầu lên rồi bắt đầu viết lách. Tôi dọn dẹp xong bát đũa, thấy cơ thịt căng cứng, không nằm nổi, đành đi dạo lòng vòng trong cánh rừng gần nhà. Vừa được nhàn nhã, những ý nghĩ lộn xộn lại kéo đến. Tôi chẳng biết Yên Yên trong tù thế nào rồi, cũng không biết Lưu Nhất Minh và Minh Nhãn Mai Hoa giờ ra sao, rúc trong núi rập bia thế này rốt cuộc là rèn luyện hay trốn tránh? Vô vàn câu hỏi hiện lên trong đầu tôi.
Tôi biết phải gạt bỏ những suy nghĩ lung tung, nhưng đây không phải suy nghĩ lung tung.
Tôi đi lang thang bên ngoài mấy vòng, càng đi càng sốt ruột, mấy lần thậm chí định bỏ đi quách. Nhưng hễ nghĩ tới hai gương mặt đắc ý của Chung Ái Hoa và Đới Hạc Hiên, tôi lại gắng nín nhịn, quay về căn nhà kia. Vừa bước vào, tôi đụng ngay phải anh Từ từ phòng đọc sách đi ra. Anh ta chăm chú nhìn tôi rồi chìa ra mấy miếng vải lụa và cục bông, “Làm mấy con đập đi.” Tôi nhận lấy, thoạt đầu là ngạc nhiên, rồi hiểu ra ngay. Bông thấm mực không rửa sạch được nữa nên một con đập chỉ rập được một hai tấm bia, phải liên tục làm cái mới. Có nhân lực miễn phí là tôi đây, đời nào anh Từ lại chịu bỏ qua.
Con đập nhìn thì đơn giản, nhưng làm cũng chẳng dễ tí nào. Vải và bông chất liệu khác nhau, muốn bó lại thành một nắm hình củ tỏi, mặt vỗ phẳng như bàn là thì phải chia vải và bông ra từng lớp để mực thấm đều. Một dụng cụ đơn giản như vậy mà tôi làm nửa buổi tối chỉ bó được sáu cái. Sờ lên đầu mới thấy mướt mải mồ hôi.
Tôi cầm đi khoe với anh Từ song anh ta chẳng coi vào đâu, chỉ bảo tôi bỏ vào hòm dụng cụ rồi đi ngủ sớm. Cả tối vật lộn với mấy con đập, tôi đã mệt nhoài, đặt lưng xuống giường là ngủ thiếp đi, chẳng còn “suy nghĩ lung tung” gì nữa.
Một đêm yên ả trôi qua. Sáng hôm sau tôi dậy sớm, tiếp tục vật lộn với tấm bia kia. Rút kinh nghiệm từ hôm qua, hôm nay tôi làm tốt hơn nhiều. Anh Từ ở trong nhà lúi húi viết lách, thỉnh thoảng bước ra hướng dẫn mấy câu. Thầy dẫn vào cửa, còn mình tự tu, câu này quả là chính xác. Ngón rập bia này thực ra có rất nhiều phương pháp, anh Từ dạy tôi vài bí quyết, còn lại tôi phải tự làm cho quen. Như lời ông bán dầu nói, “là do quen tay thôi”.
Giờ tôi bắt đầu hiểu tại sao Lão Triều Phụng lại để mình học rập bia. Môn này cực kỳ chú trọng chuyên tâm, nhịp điệu của mắt, tay và tâm trí phải ăn khớp, không được sai lệch. Chỉ cần lơ đãng một thoáng là có thể hỏng cả bản rập. Biết bao lần tôi đã vỗ đến mảng cuối cùng, vậy mà chỉ hơi thả lỏng tinh thần đã nghe xoạch một tiếng, thế là toi công. Trong trạng thái tập trung cao độ, hai tay tôi cầm con đập, chăm chăm nhìn bia và giấy, chẳng có lúc nào rảnh mà nghĩ ngợi vẩn vơ.
Trước khi mặt trời xuống núi, cuối cùng tôi đã thành công gỡ được giấy ra khỏi tấm bia đầu tiên. Lần rập này tuy không hoàn hảo nhưng đại khái cũng không lầm lỗi, coi như đạt chuẩn. Tôi bưng bản rập còn chưa ráo mực, không nỡ rời tay, lòng phơi phới như lần đầu làm thủ công hồi tiểu học vậy.
Vui vẻ chưa được bao lâu, anh Từ đã chỉ cho tôi một tấm bia khác, “Mai cậu rập tấm này đi.”
Vừa nhìn, mắt tôi đã tối sầm. Tấm này kích cỡ cũng bằng tấm trước nhưng khắc chi chít, ít nhất phải hơn ba trăm chữ, lại còn là chữ nhỏ. Văn bia nói về một cử nhân thời Thanh, hiển nhiên là viết theo lối biền ngẫu, lời lẽ hoa mỹ, còn dùng nhiều chữ hiếm. Về mặt rập bia thì chữ hiếm không đáng ngại, hiềm nỗi quá nhiều nét, tha hồ đập chữ mệt nghỉ.
Lúc rập mực, giấy phải giữ được độ ẩm vừa phải, nếu ngừng giữa chừng để thêm nước thêm mực, màu mực sẽ hơi biến đổi. Thế nên rập bia phải rập một lèo, không được nghỉ giữa chừng. Hơn một trăm chữ tôi rập mất hai ngày, giờ lại còn hơn ba trăm chữ, chẳng biết làm đến ngày tháng năm nào đây.
Nhà anh Từ không có đồng hồ nên tôi phải trông mặt trời để ước lượng thời gian. Tấm bia thứ hai, tôi mất tròn ba ngày mới tạm coi như xong. Một ngày đập chữ, hai ngày vỗ mực, quần quật từ sáng đến tối, làm hỏng vô số giấy mực, nhìn chằm chằm đến đau cả mắt.
Anh Từ lại kiệm lời nên tôi chỉ biết lủi thủi làm một mình. Ba ngày nay tôi sức cùng lực kiệt, chẳng khác nào chạy marathon, nằm xuống là ngủ.
Tôi nghiến răng tỉ mẩn gỡ thiếp bia ra khỏi bia, cầm tới cho anh Từ xem. Anh ta đón lấy vuốt qua một lượt, khẽ gật đầu, “Cậu bắt đầu học rập bia chính thức được rồi.” Nghe vậy mắt tôi tối sầm lại, suýt ngã lăn ra đất, khiến con béc giê giật mình sủa toáng lên, vừa sủa vừa rụt lại.
Lúc ăn cơm tối, anh Từ vẫn lầm lì như thường, tôi xới hai bát cơm, không nhịn được lên tiếng hỏi, “Sao anh lại rập bia?”
Anh Từ không đáp. Tôi cứ ngỡ đã chạm trúng chỗ đau của anh ta, cầm chắc bị ăn mắng. Nào ngờ anh Từ không nổi giận mà cúi xuống và nốt miếng cơm cuối cùng trong bát, nhai nuốt xong mới lên tiếng, “Bia là do con người viết, con người khắc, con người rập. Thế nên trong bia có hồn, là vật sống. Máy ảnh và máy quay phim lưu giữ được hình dạng chứ không lưu được thần thái, không rập thì chẳng có cách nào kế tục ý tứ của chúng.”
Đây là câu dài nhất anh Từ từng nói với tôi, cũng đầy triết lý. Nhưng tôi cảm thấy anh ta vẫn lảng tránh câu hỏi.
Hôm sau, anh Từ lại chỉ cho tôi một tấm bia nữa. Tấm này còn kinh hơn, là chiếu thư của nhà vua khen ngợi một quan viên ở Nam Kinh, người nhà bèn vời thợ khắc lên bia đá để khoe khoang. Chiếu thư thiên tử, chữ nào cũng là lời vàng ý ngọc, dĩ nhiên không dám lược bỏ nét nào, lại thêm phần viết về cuộc đời và con đường làm quan của người được khen ngợi, dày đặc toàn chữ là chữ, nhìn đã hoa cả mắt. Tôi chẳng dám đếm xem có bao nhiêu chữ nữa.
May mà kinh qua hai tấm bia trước, tôi đã từ quen thành khéo, chỉ cần kiên nhẫn và tỉ mỉ hơn thôi.
Lần rập mực này thành công chưa từng có, trước nay tôi chưa bao giờ tĩnh tâm, chuyên chú làm một việc đến vậy. Mọi thứ xung quanh dường như đều không liên quan gì tới tôi. Tôi chỉ nhìn vào tấm bia trước mắt cùng những con chữ trên bia, đó là tất cả của tôi.
Trong thế giới không có đồng hồ ấy, tôi rập xong rồi ăn, ăn xong lại rập, cuối cùng chẳng nhớ đã bao nhiêu ngày trôi qua. Rốt cuộc tôi cũng rập xong tấm bia ấy như một kỳ tích, phần nền đen bóng tựa than đá, đen trắng rõ ràng, có thể coi là bản rập đẹp nhất của tôi trước nay. Anh Từ nghiệm thu, nhả ra hai chữ, “Không tồi.”
Thấy cơ hội đã đến, tôi lặp lại câu hỏi lần thứ ba, “Sao anh lại ở đây rập bia?”
Anh Từ liếc nhìn tôi rồi chẳng nói chẳng rằng, xoay người đi thẳng. Tôi thầm nhủ sao hai lần trước hỏi anh ta không giận mà lần này lại nổi cáu?
Lúc đi anh Từ không dặn tôi tiếp theo phải rập tấm nào, tôi ăn không ngồi rồi tự dưng thấy không quen. Sợ mình rảnh rỗi lại nghĩ lung tung, tôi đi quanh sân một vòng, quyết định tới hỏi anh Từ xem tiếp theo đây phải rập cái gì, vừa bước vào nhà thì thấy anh ta từ phòng đọc sách đi ra, tay còn cầm một tập tài liệu.
Tôi ngẩn người, định làm gì đây? Anh Từ đưa tập tài liệu cho tôi, “Sửa đi.” Đoạn chắp tay sau lưng đi mất.
Hay lắm, tôi từ thợ rập bia đổi ngành thành biên tập viên rồi.
Tập tài liệu này chính là thứ lần trước tôi bỏ qua không xem lén của anh Từ. Giờ được anh ta cho phép, tôi tha hồ đọc. Có điều bảo tôi sửa thì thật là hổ thẹn, bởi chữ tiểu khải của người này cực đẹp, mặt giấy sạch tinh, không một vết mực thừa. Ở thời phong kiến, có thể đi thi trạng nguyên ấy chứ, còn cần tôi “sửa” hay sao?
Tôi nằm xuống giường, chọn một tư thế thoải mái, rồi vừa xoa đầu con béc giê vừa đọc từng trang. Tài liệu này được đặt tên là Khảo sát bia Nam Kinh, thoạt trông đã biết là nói về thiếp bia Nam Kinh. Mới đọc lời tựa, tôi đã bàng hoàng.
Trong phần lời tựa, Từ Thư Xuyên viết rằng Từ Niên cha anh ta năm xưa là vệ sĩ của Tôn Trung Sơn. Sau khi Tôn Trung Sơn được chôn cất ở Nam Kinh, cha anh ta xung phong làm lính canh lăng. Năm 1949 Nam Kinh giải phóng, quân giải phóng và lính canh lăng bàn giao hòa bình, Từ Niên cũng giải ngũ. Nhờ tài rập bia, Từ Niên được điều đến cửa hàng văn vật thành phố Nam Kinh phụ trách thiếp rập bia. Từ Thư Xuyên từ nhỏ đã đi theo cha, chịu ảnh hưởng sâu sắc nên cực kỳ mê mẩn bia cổ.
Thảo nào anh Từ lại giam mình trong doanh trại bỏ hoang này, thì ra anh ta có quan hệ mật thiết với lăng Trung Sơn như vậy.
Anh Từ nói, Nam Kinh là kinh đô cũ của Lục Triều, bề dày lịch sử hơn hai ngàn năm, nhưng chưa hề có cuốn sách nào tổng hợp các tấm bia ở Nam Kinh, càng không ai xúc tiến mở rừng bia Nam Kinh, quả là đáng tiếc. Di tích Cố đô trải bao phen chiến loạn đã bị hủy hoại khá nhiều, trong giai đoạn Cách mạng Văn hóa lại bị đập phá phần lớn, tới cải cách mở cửa mọi thứ đổi mới, nhiều nơi động thổ xây dựng, chẳng biết lại phá hỏng bao nhiêu nữa. Chứng kiến văn hóa Nam Kinh cứ bị mất mát, lãng quên từng chút một, hồn phách không có nơi nương náu, anh ta đã thề còn sống ngày nào sẽ tìm kiếm bia khắc khắp Nam Kinh rồi rập lại từng tấm, để tâm huyết người xưa khỏi mai một.
Bấy giờ tôi mới hiểu ra anh ta không có ý bảo mình chỉnh sửa, con người vụng ăn nói ấy đang thông qua phương thức này để trả lời câu hỏi của tôi.
Câu trả lời của anh ta thực khiến tôi bàng hoàng. Người thời nay được mấy ai có suy nghĩ dốc cả đời ra để tìm kiếm những tấm bia cổ? Chỉ có mình anh ta không hề do dự lựa chọn con đường đơn độc mà chật hẹp này thôi. Thái độ kiệm lời, hành vi lánh đời của anh Từ có lẽ cũng vì sự cô độc cố chấp ấy. Đây mới thực là vị ẩn sĩ có phong phạm thời xưa.
Có lẽ anh ta ngốc nghếch, nhưng ai dám nói cuộc đời anh ta không hạnh phúc? Ôm tâm trạng ấy, tôi lật sang nội dung chính. Phần đầu tiên là văn bia trên các loại bia cổ, phần còn lại là khảo chứng nội dung văn bia, thời gian lập bia và địa điểm cũng như lý do đào được. Phần này không dài nhưng tôi biết bất cứ đoạn nào cũng được khảo chứng kỹ càng và viết bằng vô vàn tâm huyết. Kiến thức trong đó rất khô khan nhưng logic chặt chẽ, suy luận tỉ mỉ, còn dẫn chứng nhiều nguồn tư liệu. Chẳng rõ sống trong căn nhà nhỏ này, anh ta lấy đâu ra bằng ấy tư liệu mà tra cứu, rồi phải mất bao nhiêu công sức mới chuyển được những tấm bia kia tới đây. Càng đọc tiếp, tôi càng phục sát đất.
Tôi đọc suốt một đêm, tới khi mặt trời mọc mới hết. Không phải tôi đọc chậm, mà là không dám lướt qua đoạn nào vì bái phục. Trở dậy, tôi dụi cặp mắt đỏ ngầu, trả lại tập bản thảo cho anh Từ đang ngồi bên bếp nấu cháo. Từ chẳng buồn nhìn, tiện tay đặt xuống cạnh nồi cháo, khá gần ngọn lửa. Anh ta không để tâm, song tôi lại giật nẩy, cầm ngay lên, mang vào phòng đọc sách đặt lên bàn.
“Anh Từ, tôi có câu này muốn hỏi.” Tôi quay lại ngồi xuống bên cạnh, nhìn anh ta bỏ thêm củi vào lò. Anh Từ không đáp, tiếp tục coi lửa.
Tôi bèn hỏi, “Tôi hỏi anh cùng một câu đến ba lần, sao mỗi lần anh lại trả lời mỗi khác?”
Từ đặt thanh củi xuống, “Tấm bia thứ nhất, cậu lấy sức rập bia, tôi cũng trả lời bằng sức võ biền; tấm thứ hai, cậu dùng kỹ thuật để vỗ mực, thì tôi trả lời bằng kỹ xảo, đến tấm thứ ba, tuy kỹ thuật của cậu thô sơ, nhưng đã cảm nhận được tâm ý và hồn phách trong đó nên tôi trả lời bằng tâm hồn.”
Tôi không ngờ anh ta lại nói một mạch ngần ấy chữ, ngẫm kỹ mới thấy thấm thía, không khỏi cảm khái, “Người xưa nói lấy văn chứng đạo, lấy lòng chứng đạo, chẳng ngờ anh cũng nâng việc rập bia lên một tầm cao mới.”
Anh Từ dửng dưng trước lời tán thưởng của tôi, lại ném thêm một thanh củi vào lò, “Cậu thấy những tấm bia quanh sân không?” Tôi gật đầu. Từ thở dài, “Đều là tôi cứu được từ khắp nơi trên đất Nam Kinh đấy, tổng cộng hai trăm lẻ bảy tấm, tám năm nay tôi đã rập đến sáu lần.”
Tôi sững sờ trước con số này, chẳng rõ anh ta phải bỏ ra bao nhiêu tâm huyết và nghị lực nữa? Trước là khâm phục, nhưng nghĩ kỹ lại, tôi chợt nảy ra một suy nghĩ, trước đây anh Từ đã trải qua chuyện gì mà lại quyết định lựa chọn công việc vừa khổ sở vất vả vừa không quá cần thiết này? Nếu chỉ đơn thuần là say mê bia cổ, anh ta có thể sống trong thành phố, chẳng phải dễ tìm bia hơn sao? Huống hồ chỉ cần rập một hai bản là đủ để lưu giữ nguyên trạng rồi, sao anh ta phải rập đến sáu bản, đằng sau hành vi gần như tự ngược đãi này, hẳn phải có động cơ quyết liệt.
“Tôi hỏi lại lần thứ tư nhé, sao anh lại ở đây rập bia?” Tôi nghiêm trang hỏi.
Lần đầu tiên hỏi, được trả lời bằng sức võ biền, lần thứ hai dùng kỹ xảo, lần thứ ba dùng tâm hồn, vậy lần thứ tư có lẽ sẽ dùng lòng thành nhỉ?
Thấy anh Từ chẳng ừ hử gì, tôi bèn kể chuyện mình trước. Kể từ ông nội Hứa Nhất Thành đến bố tôi Hứa Hòa Bình rồi đến tôi, lại đến cả vụ án đầu Phật liên quan tới ba đời nhà tôi. Kể mãi đến tận trưa. Tuy anh Từ chẳng nói năng gì, nhưng tôi biết anh ta đang chăm chú lắng nghe, bởi cháo trong nồi sắp cạn mà anh ta vẫn luôn tay thêm lửa.
Kể xong, tôi lặp lại, “Hỏi lần thứ tư nhé, sao anh lại ở đây rập bia?”
Thấy ánh mắt tôi đầy kiên quyết, Từ lắc đầu thở dài, đứng dậy lấy trong phòng đọc sách một tờ giấy mỏng đưa cho tôi. Tờ giấy trông có vẻ đã được cất giữ từ nhiều năm trước, ngay trên đầu là mấy chữ: “Giấy viết thư chuyên dụng của cửa hàng văn vật thành phố Nam Kinh”, mép đã hơi ố vàng. Tôi cầm lên đọc, là một bản kiểm điểm.
Nét chữ trên giấy rất giống chữ anh Từ, nhưng điêu luyện hơn. Viết rằng, “tôi” thay mặt cửa hàng văn vật mua một bản rập Đại Đường Hồi Nguyên quán Chung Lâu minh của Liễu Công Quyền từ tay người dân, được coi là bản rập quý thời Tống, ngoài lề còn có lời bạt của nhà viết kịch Lý Ngư thời Minh. Nhưng “tôi” nhanh chóng nhận ra lời bạt của Lý Ngư được cắt từ một tấm thiếp khác thêm vào, thế là bản rập thời Minh lại thành thời Tống, giá đội lên không ít. “Tôi” làm việc không cẩn thận, sơ suất cẩu thả, gây tổn thất nặng nề cho cửa hàng văn vật Nam Kinh, phải nghiêm khắc tự kiểm điểm v.v…
Tên người viết là Từ Niên, cha của anh Từ.
Tranh chữ và bản rập đều ở trên giấy, tha hồ lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia, đây cũng là thường thức nhiều năm nay trong giới cổ vật. Thế nên mấy thứ này rất dễ có hàng giả. Đám con buôn táng tận lương tâm sẽ cắt nát hàng thật ra thành mấy mảnh rồi lần lượt thêm vào vài bức tranh giả, thu lời gấp bội. Những bản rập bia đẹp nhất thời Tống thường chỉ đóng dấu chứ không có lời bạt là vì vậy.
Xem ra trong thời gian công tác tại cửa hàng văn vật, Từ Niên từng bị mắc lừa, phải làm kiểm điểm. Tôi để ý thấy phía dưới bản kiểm điểm còn có lời phê, “Tư tưởng không đàng hoàng, kiểm điểm không thành khẩn, không coi trọng tài sản của nhân dân”. Ba chữ “không” dưới thời ấy có thể coi là lời phê khá nặng nề. Thêm vào xuất thân của Từ Niên, e rằng khó mà tồn tại trong cơn phong ba chính trị sau đó.
Tôi không hỏi nữa. Từ không nói, tôi cũng đoán được đó ắt là một câu chuyện hết sức thê thảm, khiến anh ta sốc nặng, mới chọn cách lưu đày bản thân như thế. Cảm giác ấy tôi rất hiểu, nhà họ Hứa chúng tôi chẳng cũng thế ư? Đó là bi kịch của thời đại, cũng là bi kịch hàng giả đã tái diễn vô số lần trong giới cổ vật. Chuyện thế này xưa có nay có, ngày sau nhất định vẫn có, trách nhiệm của chúng tôi chẳng phải là ngăn nó sao?
Nghĩ tới đây, tôi như sực tỉnh, nhớ ra sứ mệnh của mình. Tôi là người của nhà họ Hứa trong Minh Nhãn Mai Hoa, sứ mệnh của tôi là trừ giả giữ thật. Bấy lâu mê mải ở đây, tôi suýt quên đi mất.
Theo bản năng, trước tiên tôi giật mình kinh hãi, liên tục cảnh cáo bản thân không được nghĩ ngợi lung tung kẻo tẩu hỏa nhập ma. Nhưng tôi ngạc nhiên nhận ra, lần này khi nhớ tới những chuyện ấy, cảm giác nôn nao không căng tràn lồng ngực tôi nữa, mà đã tan biến.
Chuyện gì thế này?
Tôi nghi hoặc hỏi anh Từ, “Tôi phải rập mấy tấm nữa mới được đi?”
“Mấy hôm nay cậu ngủ được không?” Anh Từ hỏi mà chẳng buồn ngoảnh lại.
“Có.” Mấy hôm nay tôi mệt lử, nằm xuống là ngủ.
“Còn nghĩ ngợi vẩn vơ không?”
“Không nghĩ nữa.”
“Vậy cậu đi đi.”
Tôi ngây người rồi ngẩng mặt lên trời cười lớn, vô cùng thoải mái, vô cùng thư thái. Thiền sư thời xưa chỉ một lời đã giác ngộ thành Phật, ba câu hỏi này của anh Từ cũng có sức mạnh không nhỏ, vạch rõ tính toán của Lão Triều Phụng, quả đã giúp tôi rẽ mây nhìn thấy mặt trời.
Trước đây tôi chìm đắm trong những lỗi lầm của mình, không lúc nào không hối hận tự trách, gần như lạc lối trong đầm lầy, tinh thần suy sụp nên mới thất bại thảm hại. Nhưng ở lăng Trung Sơn mấy hôm nay quần quật rập bia, tôi đã quên bẵng những suy nghĩ thừa thãi, mệt đến chẳng còn tâm trí buồn bã nữa.
Trước đây tôi đọc báo thấy nói có những thanh niên ở thành phố quen được chiều chuộng, kén cá chọn canh, đưa đến nông thôn một tháng là tạnh ngay thói cảnh vẻ. Thực ra trường hợp của tôi cũng gần giống vậy, chữa lành tôi không phải linh đan diệu dược gì, mà là bận rộn. Nói trắng ra là không để tôi rảnh mà suy nghĩ vẩn vơ. Thực ra rất nhiều việc chỉ cần đừng canh cánh trong lòng, ắt có thể sáng tỏ. Không phải quên lãng hay trốn tránh mà là tạm thời gác lại, để tâm trí lấy lại tỉnh táo đã. Chỉ cần hiểu được điểm này, tôi sẽ gạt bỏ được ám ảnh, không bị vây hãm trong đó nữa.
Nam Kinh không hổ là đất cố đô, vương khí Tử Kim chẳng những dưỡng ngọc nuôi bình mà còn dưỡng cả người. Nhờ mấy phen rập bia, tôi đã xua tan được ám ảnh tâm lý, tâm trí sáng suốt, sảng khoái vô cùng.
“Giờ là lúc nào rồi?” Tôi hỏi, cảm giác như được tái sinh.
“Mười ngày.” Ý anh Từ là tôi đến đã được mười ngày.
“Tôi phải đi đây.” Tôi đề nghị.
Lần này Từ không đè vai tôi nữa mà đứng dậy giơ tay chỉ về một hướng, “Đi bộ khoảng 5 kilomet từ đây sẽ tới một trạm gác. Ở đó cậu có thể gọi điện sau đó đi thêm vài kilomet nữa đến khu du lịch, ở đó có xe, sẽ đưa cậu về Nam Kinh.”
Tôi đã trừ được ám ảnh, chẳng còn gì lưu luyến, ngay cả hành lý cũng không có, lập tức từ biệt anh Từ. Anh ta cũng chẳng níu kéo mà quay vào trong cuộn ba tấm thiếp rập bia tôi làm lại, đưa cho tôi. Tôi nắm tay anh ta, toan nói mấy câu cảm tạ vị ẩn sĩ thời nay mà không sao thốt nổi thành lời, bởi những câu phàm tục ấy không thích hợp nói với anh ta. Nghĩ một lúc cũng chẳng tìm được lời nào hay ho, tôi chỉ biết ngượng nghịu nói, “Cảm ơn anh.”
Anh Từ vẫn trơ trơ không biểu cảm, vẫy tay rồi quay người trở vào nhà. Mười ngày này có ý nghĩa vô cùng quan trọng với tôi, song với anh ta thì chỉ là một tạp âm trong cuộc đời ẩn cư mà thôi.
Tôi sải bước đi về phía trạm gác anh Từ chỉ. Một mình đi giữa núi rừng, cảm thấy nhẹ nhõm chưa từng có, phơi phới như tiên, những ám ảnh trước đây giống như thiếp rập bia, bị lột ra từng lớp một, để lộ diện mạo thật của tôi.
“Tôi về rồi đây.” Tôi vung nắm tay hét với ra ngoài núi, như một đứa trẻ ngốc.
Chẳng bao lâu tôi đã đến trạm gác, gọi điện cho Dược Bất Nhiên rồi bắt xe của khu du lịch vào thành phố. Vừa xuống xe, đã thấy xe Dược Bất Nhiên đậu ở đó đợi sẵn.
Thấy tôi, gã cười hì hì nhận xét, “Mười ngày không ăn thịt, mày gầy đi rồi đấy.”
Dược Bất Nhiên vừa lái vừa kể lại cho tôi những chuyện xảy ra trong mười ngày nay. Trong thời gian tôi vùi đầu rập bia, tình hình Minh Nhãn Mai Hoa ngày càng nguy cấp. Bảo tàng Cố cung im lặng lâu nay, lần đầu tiên công khai phát biểu thanh minh, nói rằng bức “Thanh minh thượng hà đồ bản gốc” ở Hồng Kông hoàn toàn là bịa đặt. Ngay sau đó sàn đấu giá Bách Thụy Liên cũng phát biểu nói muốn công khai tiến hành giám định Cacbon-14 bức của mình và bức trong Cố cung dưới sự giám sát của cơ quan có thẩm quyền.
Định tuổi bằng Cacbon-14 là một phương pháp khoa học để xác định niên đại văn vật. Cacbon-14 là chất đồng vị có tính phóng xạ, các loài động thực vật trên trái đất khi hít thở sẽ hít vào cả cacbon-14; sau khi sinh vật ngừng hô hấp và chết đi, cacbon-14 trong cơ thể chúng sẽ ngừng tăng thêm, và bắt đầu tiêu giảm dần theo thời gian. Vì tốc độ tiêu giảm cacbon-14 vô cùng ổn định, thời gian bán rã cố định là 5730 năm, nên chỉ cần kiểm tra đo hàm lượng cacbon-14 trong di hài sinh vật là có thể đoán được niên đại của nó.
“Giờ cả tranh lụa cũng kiểm định được bằng cacbon-14 rồi à?” Tôi nghi hoặc hỏi. Thanh minh thượng hà đồ là tranh lụa, không phải sinh vật, sao có thể ứng dụng kỹ thuật này được?
Dược Bất Nhiên giải thích, “Vốn là không thể, nhưng giờ khoa học kỹ thuật đã thực hiện được rồi, giáo sư Trịnh vẫn miệt mài làm cái đó đấy thôi. Mày nghĩ xem, tuy lụa không phải sinh vật, nhưng lụa được dệt từ tơ tằm, mà vòng đời con tằm từ lúc nhả tơ kéo kén tới lúc chết rất ngắn. Vì thế thời điểm tơ tằm được sinh ra cũng gần như thời điểm sống của con tằm và đồng nghĩa với thời điểm dệt nên tấm lụa.”
“Giờ có thể xác định chính xác đến bao nhiêu năm?”
“Vốn dĩ biện pháp này chỉ có thể kiểm định từ mấy vạn năm đến mười mấy vạn năm, hiện giờ may ra thì chính xác đến khoảng năm trăm năm.”
“Hừm, vậy là đủ rồi.”
Tống Huy Tông đăng cơ năm 1100, còn Vương Thế Trinh làm giả Thanh minh thượng hà đồ sớm nhất cũng phải từ năm 1526. Chênh lệch bốn trăm năm, có thể ứng dụng kỹ thuật giám định Cacbon-14 đến mức tối đa rồi. Thực ra chẳng cần tính đến bốn trăm năm này, chỉ cần xem trong hai bức bức nào đó trước bức nào có sau, ắt mọi nghi vấn sẽ được giải quyết ngay. Dược Bất Nhiên cười nhạt, “Tiếc rằng giám định Cacbon-14 cần lấy mẫu, phải cắt một miếng từ bức tranh để giám định, mà còn phải ở phần chính giữa. Lần này Bách Thụy Liên đúng là mạnh tay, không tiếc cắt cả Thanh minh thượng hà đồ của họ ra, hẳn là muốn xem Cố cung có dám tiếp chiêu không.”
Nghe Dược Bất Nhiên nói vậy, tôi hiểu ngay lần này Minh Nhãn Mai Hoa rắc rối to rồi. Thứ trong tay Bách Thụy Liên là đồ giả nên họ mới chịu mất tiền xẻo một mảnh đem giám định, nhưng bảo tàng Cố cung đâu thể chấp nhận phương pháp giám định này được? Có điều hiện giờ chỉ có cách xác định niên đại bằng Cacbon-14 là công bằng nhất, nếu Cố cung không chấp nhận, dư luận sẽ cho là có tật giật mình.
Nhận lời hay không đều khó cả.
Quả nhiên Dược Bất Nhiên kể với tôi, Cố cung đến nay vẫn giữ im lặng, song dư luận đã xôn xao bàn tán. Báo chí trong nước còn bị Lưu Nhất Minh dùng quan hệ át đi, nhưng truyền thông nước ngoài đã viết hàng loạt bài dài dằng dặc nghi ngờ tính xác thực của bức tranh cất trong Cố cung. Mấy bài báo tôi khơi ra được trích dẫn liên tục, thậm chí còn có nhà báo đặt điều rằng người vạch trần Thanh minh thượng hà đồ đang bị giam lỏng, cần quốc tế cứu giúp.
Tôi lắc đầu than thầm, đòn này của Bách Thụy Liên vừa đau vừa độc, quả thực đã dồn Minh Nhãn Mai Hoa đến chân tường.
Thực ra tôi vẫn nghi ngờ, nếu tranh của Cố cung là thật thì cứ lấy ra so với hàng giả của Hồng Kông là xong, sao Lưu Nhất Minh phải vừa gánh áp lực dư luận vừa câu giờ đợi tôi tìm ra quân át chủ bài để phản công?
Lẽ nào vật trong Cố cung là giả?
Nghĩ vậy tôi run bắn lên, nhưng mấy ngày rập bia cũng không uổng công, chẳng mấy chốc tôi đã định thần lại ngay. Cụ Lưu đã khẳng định tranh là hàng thật, tôi không nên nghi ngờ ông ấy. Tin người thì đừng ngờ, tôi phải tìm cho ra quân át chủ bài, còn những việc khác khoan bàn tới.
Dược Bất Nhiên xoay vô lăng, quay sang cười nói, “Ái chà, tao cứ tưởng hay tin này mày sẽ được phen đau lòng nhức óc cơ đấy, xem ra đã khá hơn rồi nhỉ.”
Tôi lạnh lùng hỏi, “Yên Yên thế nào rồi?”
“À, Yên Yên vẫn chưa được thả, nhưng tao đã đút lót hết người ở trại tạm giam rồi, không phải chịu khổ đâu, yên tâm.”
“Đới Hạc Hiên thì sao? Tao nhớ mày nói đến lượt mày ra tay rồi mà?”
Dược Bất Nhiên vỗ lên vô lăng cười xảo quyệt, “Ha ha, mày về cũng đúng lúc lắm, tối nay tao thu lưới, mày cùng đến xem nhé.”
Tôi không hỏi nữa, đan hai tay vào nhau đặt trước kính chắn gió, nhìn thẳng phía trước.
Xe jeep bon bon chạy qua phố xá Nam Kinh, Dược Bất Nhiên không đưa tôi về phía bờ sông mà đưa đến khách sạn Nam Kinh. Đây là khách sạn chuyên tiếp khách nước ngoài xịn nhất Nam Kinh đầu những năm 90, không đâu sánh bằng. Bên trong trang hoàng lộng lẫy, chẳng kém gì mấy khách sạn Hồng Kông trong băng video.
Nhưng Dược Bất Nhiên đưa tôi đến đây làm gì? Lẽ nào gần đây Lão Triều Phụng tốt tính đột xuất, hào phóng chi tiền cho chúng tôi ở khách sạn xịn?
Dược Bất Nhiên dừng xe gần đó rồi cùng tôi đi vào sảnh. Gã đã đặt sẵn phòng, còn ở tầng cao. Sau khi vào phòng, Dược Bất Nhiên bảo phải chuẩn bị một chút, dặn tôi cứ nghỉ ngơi, lát nữa gã sẽ gọi. Dù sao cũng là Lão Triều Phụng trả tiền nên tôi chẳng buồn khách sáo, vội vàng đi tắm nước nóng cho thoải mái.
Tôi đứng trong buồng tắm ngửa cổ lên, để nước nóng chảy tràn xuống thân thể trần trụi, trục hết khí lạnh tích tụ mấy ngày nay ở lăng Trung Sơn, xua tan ám ảnh tâm lý. “Ông ơi, bố ơi, con về rồi đây” Tôi lẩm bẩm.
Tắm táp xong xuôi tôi lấy khăn bông lau tóc, chợt thấy trên giường đã xếp ngay ngắn hai bộ quần trắng gile đỏ, giống hệt đồ của người phục vụ mở cửa cho chúng tôi dưới sảnh. Cạnh đó còn một xấp tài liệu tuyên truyền in trên giấy phủ bóng vô cùng sắc nét. Tôi lật vài trang, thấy đều nói về các món đồ gốm quý giá. Thấy Dược Bất Nhiên đi vào, tôi bèn hỏi gã thế này là sao. Dược Bất Nhiên bảo tôi mặc quần áo vào, nhưng không giải thích tại sao, chỉ nói cứ nghe gã là được.
Tôi không biết gã định bày trò gì, dù sao giờ có bán đứng tôi cũng vô nghĩa nên tạm nghe theo gã, thay quần áo mới. Dược Bất Nhiên cũng mặc một bộ, hai chúng tôi lắc mình một cái đã thành nhân viên khách sạn. Gã còn lôi ra hai chiếc mũ đỏ, một chụp lên đầu tôi, trông rất tức cười.
Dược Bất Nhiên xem giờ thấy đã gần năm giờ bèn bảo tôi ôm chồng tài liệu rời phòng. Chúng tôi đi đến hành lang sảnh tiệc ở tầng hai, đột nhiên Dược Bất Nhiên dừng bước, giơ tay vịn vào lan can thò đầu ra nhìn rồi cười bảo tôi, “Chính chủ đến rồi.”
Đại sảnh có cầu thang xoắn ốc bằng đá Đại Lý thông lên sảnh tiệc tầng hai, một đám người đang đi lên. Tôi định thần nhìn kỹ, thấy chính giữa đoàn người là một ông lão hiền hòa tóc bạc phơ, tay cầm ba toong, vận một bộ áo đại cán bốn túi, bên phải là Đới Hạc Hiên mặc áo cân vạt cổ cao, hai tay bưng một hộp gỗ tử đàn, có vẻ vô cùng quý giá. Xung quanh họ là mấy người trung niên, trông dáng vẻ cứ như quan chức chính phủ, trong đó có cả cục trưởng Vương tôi gặp lần trước ở nhà Đới Hạc Hiên, họ kính cẩn đi cách Đới Hạc Hiên và ông cụ kia một quãng, vòng ngoài nữa là mấy người trông như thư ký và đệ tử của Đới Hạc Hiên. Đoàn người này tạo thành ba vòng rõ rệt, từ từ di chuyển lên tầng hai.
Tôi nhìn Dược Bất Nhiên, gã đắc ý khoe, “Hôm ấy vừa đến nhà Đới Hạc Hiên đã nghe lão bảo cục trưởng Vương rằng tuần này có tiệc rượu nên tao đoán chừng tiệc rượu cũng khá long trọng. Đầu bếp của khách sạn quốc tế Nam Kinh rất nổi tiếng, chuyên làm món Hoài Dương, Đới Hạc Hiên muốn mời khách, mười phần chắc tám sẽ dẫn tới đây.”
“Ông già kia là ai?”
“Không biết, nhưng chắc vai vế không vừa đâu. Mày có để ý không? Kẻ đeo kính râm mặc âu phục đứng ở vòng ngoài cùng là phó tổng khách sạn này đấy, thế mà còn không chen nổi vào vòng giữa thì ông già kia phải làm lớn đến đâu?”
Thấy họ sắp lên đến nơi, Dược Bất Nhiên vội gọi tôi đi cho mau. Hai chúng tôi rảo bước tới thẳng dãy phòng bao nằm bên phải sảnh tiệc, xem ra Dược Bất Nhiên đã điều tra cặn kẽ, gã đi băng băng đến trước một gian phòng mang tên gác Hiên Nguyệt. Mỗi phòng bao ở đây đều đi kèm một phòng nhỏ bên cạnh để lên đồ ăn. Dược Bất Nhiên đẩy cửa bước vào, nhân viên phục vụ bên trong đang tất bật bày đĩa trái cây, thấy bọn tôi thì sững ra.
Dược Bất Nhiên thẳng thừng, “Thủ trưởng dùng bữa ở đây, để đảm bảo an toàn nên chúng tôi sẽ tiếp quản việc phục vụ trong phòng, nhân viên khách sạn không được tham dự.”
Nhân viên phục vụ ngập ngừng, “Sao tôi không nghe quản lý thông báo gì cả.”
Tôi sực nhớ tới trước lúc đi Phương Chấn đã cho mình một chứng nhận của cục Tám bộ Công an, bèn chìa ra trước mặt y, sầm mặt nói, “Đây là chỉ thị của Bộ Công an, quản lý của các anh không có tư cách được biết.”
Chừng như bị cái tiếng “bộ Công an” dọa cho vỡ mật, tay phục vụ nơm nớp đặt dao xuống, vội vã đi thẳng. Dược Bất Nhiên liếc tôi, “Không ngờ mày còn ém hàng ngon thế, Phương Chấn cho hả? Biết thế tao đã đỡ nhọc sức.”
Tôi chẳng còn bụng dạ nào đối đáp với gã, “Rốt cuộc mày định thế nào?”
“Đơn giản thôi, chúng ta chọn đúng thời điểm, phát đống tài liệu này cho khách khứa là xong.”
“Trong tập tranh này có ám hiệu gì à?” Tôi nhíu mày.
“Không, đây là sách giới thiệu về các đồ vật trưng bày lấy từ chính bảo tàng Nam Kinh thôi.”
Tôi càng nghe càng khó hiểu, chẳng biết gã định làm gì? Dược Bất Nhiên chớp mắt nói đến lúc mày khắc sẽ biết rồi hé ra một khe cửa nhỏ, nhìn vào sảnh chính.
Khách khứa trong sảnh đều đã yên vị, Đới Hạc Hiên ngồi ghế chủ tọa, ông cụ kia ngồi ghế khách mời, những người khác lần lượt ngồi xung quanh. Cũng chỉ bảy tám người có vai vế mới được vào trong, còn lại đều phải đứng ngoài. Bữa tiệc này cũng phô trương thật. Ông cụ kia nhấp một ngụm trà nóng rồi trỏ Đới Hạc Hiên, “Thầy Hiên à, tôi đã kể với mấy vị lãnh đạo về Hoàng Đế khí công của thầy rồi. Họ đều tỏ ý ủng hộ, nói là bảo vật của Trung Hoa, phải tăng cường phát huy.”
Đới Hạc Hiên mừng ra mặt, song vẫn cố làm bộ bình thản, “Hoàng Đế khí công được ông Mạc khen ngợi, quả là cái phúc của quốc gia, may mắn của dân tộc.”
Ông Mạc kia hỏi, “Hôm nay thầy bảo sẽ mang đến một báu vật kia mà? Mau lấy ra xem thử.”
Đới Hạc Hiên cười đáp, “Món còn chưa lên mà, ông Mạc làm gì vội thế.”
“Vạn năm dài lắm, chỉ sáng tối thôi.” Ông Mạc cười khà, cả bàn tiệc cũng cười theo.
Đới Hạc Hiên nghe vậy vỗ tay, “Cũng được, báu vật tặng quân tử, Phật độ kẻ có duyên, cũng vừa hay gặp dịp.” Dứt lời lão búng tay đánh tách, một tên đồ đệ tức thì bưng hộp gỗ đàn đến đặt xuống bàn. Người xung quanh đều nghển cổ nhìn vào, song Đới Hạc Hiên chẳng hề vội vã, trái lại còn nhắm nghiền mắt, hai tay áp hộp rung rung, như đang vận công. Ông Mạc không giục, những người khác càng không dám lên tiếng, cả phòng tiệc im phăng phắc.
Chừng ba phút sau, Đới Hạc Hiên mới thu công buông tay, thở hắt ra một hơi dài, nhìn quanh, “Báu vật này không phải tầm thường, không thể xem bừa được. Vừa rồi ta phải dùng nội lực trấn áp nó, mới dám mở hộp.”
Lão nói vậy càng khiến mọi người tò mò, đến thở cũng không dám thở mạnh. Đới Hạc Hiên chậm rãi mở hộp, lấy ra một bình sứ óng ánh như ngọc, vai nở bụng thót, thuần một màu trắng, phía trên viết hai chữ màu lam: “Nội phủ”.
Phong thái cao quý thoát tục toát lên từ chiếc bình khiến tất cả rúng động. Đới Hạc Hiên đặt bình lên mặt bàn, nhìn quanh, giọng thâm trầm hẳn, “Các vị có nhận ra đây là bình gì không?” Những người ngồi đó đều là lãnh đạo, nhưng chẳng ai chơi đồ cổ nên chỉ biết nhìn nhau. Mỗi mình ông Mạc thích thú nhìn chiếc bình, đợi câu tiếp theo. Đới Hạc Hiên nói tiếp, “Đây là bình mai trong nội phủ vào thời Vĩnh Lạc nhà Minh.”
Cả bàn tiệc ồ lên, có điều trong kinh ngạc cũng xen vài phần thất vọng. Bình sứ thời Minh tuy quý, nhưng trước đó Đới Hạc Hiên đã đẩy tâm lý mong đợi của mọi người lên quá cao, nên họ không khỏi hụt hẫng, ngay ông Mạc cũng nhíu mày đợi Đới Hạc Hiên giải thích.
Đới Hạc Hiên tủm tỉm cười, “Các vị có duyên lắm đấy. Bình mai này là nội phủ thời Vĩnh Lạc làm cho thiên tử Chu Đệ, xưa nay vẫn lưu lạc dân gian, mấy trăm năm không ai phát hiện, tháng trước tôi mới tìm được. Nhưng điểm kỳ diệu của nó không nằm ở đó, mà ở nắp bình.”
Đoạn lão nghiêng bình mai cho mọi người thấy miệng bình được đậy bằng nắp sứ, khe hở xung quanh vàng đậm, rõ ràng đã được gắn xi niêm phong. Đới Hạc Hiên giới thiệu, “Các vị nhìn vành xi này mà xem, không hề có vết nứt. Thế nghĩa là gì? Nghĩa là từ thời Vĩnh Lạc tới nay, chiếc bình này chưa từng được mở ra.” Nói rồi lão cầm cổ bình lắc lắc, bên trong nghe tiếng nước óc ách, tức thì mọi người ngồi đó đều biến sắc.
Đới Hạc Hiên tiếp tục, “Bình mai là đồ đựng rượu, hẳn trong bình mai của nội phủ phải đựng ngự tửu của hoàng đế. Chỉ là chẳng hiểu vì sao, bình rượu này chưa mở niêm phong đã lưu lạc dân gian, được bảo tồn đến tận bây giờ. Rượu cũ trong bình trải hơn bảy trăm năm, chưa từng mở niêm phong, vị rượu có thể nói là thuần hậu như tiên.”
Nghe Đới Hạc Hiên nói tới đây, các lãnh đạo sáng mắt lên. Mao Đài ủ hai ba chục năm đã là quý hiếm, bình rượu này hơn bảy trăm năm, chẳng phải rượu tiên ư? Ông Mạc nhìn bình rượu, đột ngột lên tiếng hỏi, “Chẳng phải bình này gọi là bình mai ư? Đáng lẽ phải cắm hoa chứ, sao lại dùng đựng rượu?”
“Ông Mạc không biết đấy thôi, loại bình này thời Tống gọi là kinh bình, tới thời Minh, vì miệng hẹp cổ ngắn, chỉ cắm vừa một cành mai khẳng khiu, nên được gọi là bình mai, nhưng không phải để cắm hoa thật, nó vẫn là bình rượu.”
Ông Mạc bưng bình lên ngắm nghía hồi lâu, luôn miệng trầm trồ, “Đẹp, đẹp thật, đúng là báu vật.” Đoạn trả bình lại cho Đới Hạc Hiên, ánh mắt không giấu vẻ lưu luyến. Cục trưởng Vương cũng tặc lưỡi, “Ái chà, rượu ủ bảy trăm năm, chẳng biết vị thế nào.” Ông ta đã khơi ra, những người khác cũng hùa theo phụ họa.
Đám người này đều là sâu rượu, thấy báu vật thế này, làm sao bình tĩnh nổi.
Đới Hạc Hiên tay cầm bình mai, nói với mọi người, “Vừa rồi ta đã nói, báu vật tặng quân tử, Phật độ kẻ có duyên. Hôm nay gặp các vị ở đây chính là duyên phận. Duyên phận chưa đến, không thể cưỡng cầu. Duyên phận đến, dĩ nhiên cũng không thể để lỡ.” Đồ đệ lão nhanh nhẹn đưa tới một cái chày sắt xinh xắn. Đới Hạc Hiên vung chày lên, “Hôm nay ta mở nắp bình, gỡ niêm phong, cùng các vị thưởng thức rượu ngon từ thời Vĩnh Lạc nào!”
Lão nói ra câu này, khiến cả bàn đều kinh ngạc. Ông Mạc với ngăn, “Thầy Hiên à, đừng làm thế. Cả nước, không, cả thế giới chỉ có một bình rượu thời Vĩnh Lạc này thôi, quý hơn vàng ấy chứ. Thầy vì mấy kẻ phàm phu tục tử chúng tôi mà hủy đi báu vật quý trọng nhường này, không đáng đâu.”
Đới Hạc Hiên điềm nhiên đáp, “Ông Mạc, hôm nay ta mang nó đến đây là để chia sẻ với các vị. Rượu này đã sinh ra trong vòng trời đất thì phải có nghĩa vụ để con người thưởng thức. Khi tìm được nó ta đã bói một quẻ, quẻ tượng báo rằng ‘Ta có khách quý, không thể hưởng một mình’. Mà khách quý nhất của ta, hôm nay chẳng phải đều ở đây ư.”
Nghe lão đưa đẩy mấy câu, ai nấy đều tươi hẳn lên, ông Mạc cũng gật gù hài lòng. Tôi không khỏi bội phục lão này, chỉ nói mấy câu mà vừa gạt bỏ được nỗi lo của người khác, lại vừa khéo léo tâng bốc hết lượt.
Ông Mạc nói, “Thầy đã nói thế, chúng tôi cung kính chẳng bằng tuân mệnh.” Ông ta vừa dứt lời, những kẻ khác cũng gật lấy gật để như gà mổ thóc, ca tụng Đới Hạc Hiên khảng khái nghĩa khí, không khí đầm ấm hẳn lên.
Đới Hạc Hiên vung chày, đập mạnh vào miệng bình. Cú đập này dùng lực chuẩn xác, chỉ nghe “cốp” một tiếng, mảnh sứ văng tung tóe, cả miệng bình, nắp đậy lẫn niêm phong đều bị đập vỡ toang hoác. Mùi rượu nồng đượm xộc vào mũi, khiến mọi người ngồi đó đều phải nuốt nước miếng.
Đới Hạc Hiên cầm bình rượu lên, đổ đầy chén trước mặt ông Mạc, sau đó lần lượt rót cho mỗi người nửa chén, cuối cùng cũng rót cho mình nửa chén. Rót khắp lượt, rượu trong bình cũng chẳng còn bao nhiêu. Đới Hạc Hiên cầm chén lên, đứng dậy nói, “Chúng ta hoàn thành nghĩa vụ cho thứ rượu ngon này, cạn chén.”
Ông Mạc dẫn đầu, tất cả đều đứng dậy chạm cốc. Có điều không ai uống một hơi cạn sạch cả, mọi người đều nhắp từng ngụm nhỏ, chỉ sợ tợp một hớp cạn chén lại giống Trư Bát Giới ăn quả nhân sâm, chẳng biết mùi mẽ gì. Ông Mạc nhắp liền mấy ngụm, mắt sáng lên, “Rượu thuần thật đấy!” Những kẻ khác nhao nhao tán dương theo, “Rượu ngon!”
“Đúng là ngọc dịch quỳnh tượng chính hiệu!”
“Rượu ủ bảy trăm năm, danh bất hư truyền!”
Dược Bất Nhiên nháy mắt với tôi rồi giở đến một trang trong tập sách giới thiệu. Tôi vừa đọc đã hiểu ngay ý gã, tên này đúng là ác ôn.
Hai chúng tôi mỗi người bưng một đĩa rau trộn lên bàn. Khách khứa ai nấy còn đang say sưa với rượu ủ từ thời Vĩnh Lạc, không hề để ý tới nhân viên phục vụ bưng thức ăn lên. Tôi và Dược Bất Nhiên một trái một phải, lẳng lặng đi đến cạnh Đới Hạc Hiên.
Đới Hạc Hiên đang cầm chén tủm tỉm cười, chợt thấy hai nhân viên phục vụ đến bên cạnh bèn liếc nhìn, tức thì sững sờ, rồi sầm mặt xuống.
“Hai cậu không về Bắc Kinh, còn ở đây làm gì!” Sợ ông Mạc nghe thấy nên Đới Hạc Hiên hạ giọng nói rất khẽ. Dược Bất Nhiên cười hì hì lại gần, mở tập sách giới thiệu ra, “Thầy Hiên, mời thầy chọn món.”
Đới Hạc Hiên nhìn sang, tức thì câm nín.
Trong tập sách tranh giới thiệu về những hiện vật quý giá trong bảo tàng Nam Kinh, có một trang vừa hay giới thiệu về bình mai. Đó là một bình mai bằng sứ Thanh Hoa “Tiêu Hà đuổi Hàn Tín dưới trăng”, đào được vào khoảng những năm 50 trong mộ Kiềm Ninh vương Mộc Anh thời Minh ở núi Tương Quân, là văn vật quốc gia bậc nhất, báu vật của viện bảo tàng. Lời giới thiệu về bình mai viết rõ rành rành: Bình mai đầu thời Minh còn lưu truyền đến nay chỉ có ba chiếc, hai chiếc còn lại được lưu giữ tại bảo tàng gốm Á Đông ở Osaka, Nhật Bản. Ngoài ra, không có chiếc thứ tư.
Đới Hạc Hiên vốn thông minh, thoạt nhìn đã hiểu ý Dược Bất Nhiên.
Các lãnh đạo ngồi đây không am hiểu nhiều về văn vật chứ không ngu. Chỉ cần có người chỉ rõ chỗ quý giá của bình mai nội phủ này, họ sẽ nhận ra vấn đề ngay. Trên đời chỉ có vỏn vẹn ba chiếc, mà tay Đới Hạc Hiên này lại dễ dàng tìm được chiếc thứ tư, còn nỡ dùng chày đập vỡ miệng ư?
Ôm nghi ngờ ấy, họ ắt sẽ đi tìm người hiểu biết để hỏi, hỏi ra là biết ngay rượu để hơn bảy trăm năm không thể uống được, khoan bàn tới chuyện chất lượng thay đổi ra sao, chỉ riêng tính thẩm thấu của men đã đủ biến bình rượu thành bình sơn rồi.
Nhưng họ đều đã uống nửa chén, còn thấy ngon nữa. Đó là vì sao? Vì bên trong bình vốn đựng rượu trắng cao cấp. Cảm nhận vị rượu của con người thường chủ quan, dễ bị xung quanh tác động. Ngay từ đầu Đới Hạc Hiên đã khiến họ thèm thuồng, sau đó lại đưa đẩy tâng bốc, rồi một hai người bắt đầu lên tiếng phụ họa, khiến tất cả đều nảy sinh cảm giác rượu thật thơm thật đượm. Nói trắng ra là tác động tâm lý.
Khi các vị lãnh đạo hiểu ra điều đó, chân tướng cũng được phơi bày: “rượu thời Vĩnh Lạc ủ hơn bảy trăm năm” thực ra là giả.
Dược Bất Nhiên chọn thời cơ rất chuẩn, nhắm đúng lúc mọi người vừa uống xong, đương hào hứng nhất. Một khi trò lừa lọc bị vạch trần, sẽ tạo nên tổn thất cực lớn. Các vị lãnh đạo phát hiện Đới Hạc Hiên dám đem rượu rởm ra lấy lòng, ắt sẽ nổi giận, lão cũng khỏi cần luyện Hoàng Đế nội công nữa.
Nhìn vẻ mặt Đới Hạc Hiên thoắt tái thoắt đỏ, tôi biết lão đang nghĩ cách thoát thân. Khách khứa xung quanh còn đang chìm trong men say của “rượu tiên”, không hề để ý.
Dược Bất Nhiên cười khì, “Xin đề cử với thầy món đầu dê chần.” Đầu dê chân, đầu dê trần. Tên sao nghĩa vậy, hàm lý uy hiếp, nếu ông không chấp nhận yêu cầu, chúng tôi sẽ vạch trần cái đầu dê của ông. Nhưng chúng tôi mượn tên món ăn để tỏ ý nên mọi người xung quanh không nghe ra, cũng coi như chưa đường lui cho Đới Hạc Hiên.
Đới Hạc Hiên đanh mặt lạnh lùng đáp, “Ta không thích món này, đổi thành mì cá đi.” Câu này của lão cũng có ẩn ý, “cá” ý chỉ cá cược. Đới Hạc Hiên hiển nhiên chưa xuôi, cho rằng sự uy hiếp của chúng tôi chỉ có thể đổi được một cơ hội đánh cược.
Thực ra hai bên đều ném chuột sợ vỡ đồ. Đới Hạc Hiên sợ bị chúng tôi hủy hoại sự nghiệp, mà chúng tôi cũng hiểu rõ, nếu làm rốt ráo chuyện này, sẽ không bao giờ bắt tay hợp tác với lão được nữa. Lão chịu cho chúng tôi một cơ hội đánh cược đã là nhượng bộ hết mức rồi.
Dược Bất Nhiên và tôi nhìn nhau rồi gấp tập sách giới thiệu lại, “Tôi hiểu rồi, chúng tôi sẽ đi chuẩn bị ngay, mời các vị cứ từ từ dùng bữa.”
Trước khi rời phòng, chúng tôi ngoái lại nhìn, thấy Đới Hạc Hiên đã lại tươi nét mặt, ân cần giải thích công dụng kéo dài tuổi thọ của thứ rượu này cho ông Mạc, khiến ông ta luôn miệng khen ngợi. Lão già này đúng là diễn viên lành nghề, đạt đến thành tựu ngày hôm nay quả không phải hư danh.
Ra khỏi cửa, tôi gặng hỏi Dược Bất Nhiên, “Sao mày biết Đới Hạc Hiên sẽ lôi thứ này ra?”
Dược Bất Nhiên hả hê đáp, “Lúc đến nhà, tao nghe lão mời cục trưởng Vương dự tiệc, còn nói sẽ cùng thưởng lãm báu vật, nên đã để tâm chú ý. Về sau lên tầng hai, trong lúc hai người đánh cược, tao để ý thấy bình mai nội phủ kia trong tủ kính. Vừa nhìn tao đã nhận ra là đồ giả, quan sát kỹ thì thấy miệng bình mới được niêm phong, đang hong cho khô, hẳn là vừa đổ rượu vào. Tao đoán chắc lão định đánh quả lớn, bèn mua chuộc một đệ tử dưới trướng lão, moi được toàn bộ nội tình.”
Hóa ra lúc tôi thất bại thảm hại, Dược Bất Nhiên đã tính sẵn cách phản kích. Chiêu trò xảo trá của gã này đúng là không phải dạng vừa.
Dược Bất Nhiên than thở, “Tiếc rằng Đới Hạc Hiên cũng chẳng dễ nắn gân, làm đến thế mà chỉ đổi được một cơ hội đánh cược. Mày có chắc không đấy? Đừng phí phạm cơ hội tốt, không có lần sau nữa đâu.”
Tôi nghiêm trang đáp, “Không phải có thắng được không, mà là nhất định phải thắng.”
Dược Bất Nhiên cười, “Khá đấy, tu luyện trở về, ánh mắt khác hẳn. Phương pháp của Lão Triều Phụng quả thâm sâu khó lường. À phải, mày muốn đi thăm Yên Yên không?”
“Thôi, khi nào giải quyết xong Đới Hạc Hiên rồi tính.” Tôi quả quyết.
Chúng tôi về phòng thay quần áo rồi rời khách sạn. Vừa lên xe, Dược Bất Nhiên chợt nói, “À, mày muốn lấy thứ gì của Đới Hạc Hiên, giờ đã tiết lộ được rồi chứ?”
“Tao không biết.”
Dược Bất Nhiên bất mãn ra mặt, “Tao đã giúp mày đến nước này mà mày còn đề phòng à?”
Tôi nhìn gã, giơ hai ngón tay lên, “Thứ nhất, tao chưa bao giờ tin mày cả, thứ hai, tao quả thực không biết trong tay Đới Hạc Hiên có gì. Cụ Lưu cũng không biết, nhưng ông ấy đã dặn tao, nếu muốn lật ngược thế cờ trong vụ Thanh minh thượng hà đồ, Đới Hạc Hiên là kẻ duy nhất có thể có quân át chủ bài trong tay.”
Dược Bất Nhiên vò tóc, vẻ giận dữ, nhưng cuối cùng vẫn rũ vai xuống như chấp nhận, “Được rồi, lần này tạm tin mày vậy. Có điều phối hợp thì đôi bên cùng có lợi, chia rẽ thì thiệt cả đôi đằng, nếu tiếp sau đây mày còn đề phòng tao như phòng giặc, chuyện lần này nhất định sẽ đi tong, hai bên đều toi đời, hiểu chưa?”
Tôi không đáp.
“Đừng khó đăm đăm thế, cười cái xem nào.” Nói rồi Dược Bất Nhiên toét miệng cười trước. Tôi đanh mặt lại, cố lờ gã đi.
Sáng sớm hôm sau, tôi đang chuẩn bị xuất phát thì được Dược Bất Nhiên báo cho tình tiết mới nhất trong cuộc tranh chấp Thanh minh thượng hà đồ thật giả.
Đó là một tin rất đáng ngại.
Lúc trước sàn đấu giá Bách Thụy Liên đã tuyên bố, nếu Cố cung từ chối không đưa ra câu trả lời, họ sẽ ủy thác cho cơ quan quốc tế có thẩm quyền, tiến hành giám định Cacbon-14 với bức của Bách Thụy Liên trước. Giờ kết quả giám định đã được công bố, xác định niên đại của bức tranh rơi vào khoảng năm 1000±400 năm sau Công nguyên, đúng thời nhà Tống.
Kết quả này không chỉ dồn bảo tàng Cố cung và Minh Nhãn Mai Hoa vào chân tường, mà còn giáng cho họ một đấm.
Hai bức tranh, bản gốc là thời Tống, bản sao là thời Minh. Giờ bản của Bách Thụy Liên đã được chứng minh là đồ thời Tống, vậy nếu Cố cung tiếp tục từ chối giám định, cũng có nghĩa thừa nhận bản họ đang giữ là giả.
Tôi hơi lo, chẳng biết Lưu Nhất Minh có chèo chống qua được ải này không.
“Mày khỏi lo, tối qua Lão Triều Phụng đã bắt đầu ra tay rồi. Tao không biết ông ấy làm cách nào, nhưng kéo dài vài ngày thì không vấn đề.” Dược Bất Nhiên trấn an tôi.
“Xem ra hôm nay nhất định phải giải quyết xong Đới Hạc Hiên.” Tôi lẩm bẩm rồi siết chặt nắm tay.
Hai chúng tôi lại lái xe đến biệt thự bên bờ sông của Đới Hạc Hiên. Lần này lão hầm hầm ra tiếp, vừa thấy đã trừng mắt với Dược Bất Nhiên, “Đúng là kẻ khuynh đảo cả Minh Nhãn Mai Hoa, thủ đoạn khốn nạn ấy cũng giở ra được.”
Dược Bất Nhiên cười khì, chắp tay cảm ơn, “Quá khen, quá khen rồi.”
Đới Hạc Hiên cười nhạt, “Cậu hao tâm tổn trí chỉ để tạo thêm một cơ hội cho đồ bỏ đi này, không thấy tiếc à?” Dứt lời lão hếch mặt nhìn tôi đầy khiêu khích.
Tôi cười thản nhiên, “Chúng ta đừng lãng phí thời gian nữa, thầy Hiên vào việc đi thôi.”
“Nếu lần này cậu vẫn thua thì đừng tới làm phiền ta nữa.” Đới Hạc Hiên cảnh cáo.
Ba chúng tôi chẳng có lời gì để nói, đi thẳng lên tầng hai, trên đó vẫn bày đủ thứ lộn xộn như thế, song đã đổi hết vị trí. Hẳn Đới Hạc Hiên sợ tôi lần trước đã âm thầm ghi nhớ vị trí các món đồ. Tôi cười thầm, song chẳng buồn lên tiếng.
Đới Hạc Hiên lại lấy ra một nén hương thắp lên rồi cắm vào lư hương, “Vẫn như lần trước, trong một tuần nhang, mời cậu trăm bước bắn liễu, bắn trúng món quý nhất.” Tôi vững vàng bước tới vạch ngăn trước giá trưng bày, hít sâu một hơi, nhìn ba mươi món cổ vật bày trên đó.
Lần này tôi hết sức bình tĩnh, không mảy may dao động. Trong mắt tôi, những cổ vật này đã hợp làm một với những tấm bia cổ trong lăng Trung Sơn, tay trái tôi cầm cọ vẽ, tay phải cầm con đập, như đang ở giữa sân sau nhà Từ, tập trung tinh thần gạt bỏ tất cả tạp niệm, chuyên tâm vào từng chi tiết vụn vặt. Ánh mắt lo lắng của Dược Bất Nhiên hay thái độ căm ghét của Đới Hạc Hiên, tôi đều không thấy, tất cả liên hệ với thế giới bên ngoài đều đã bị tôi cắt đứt, trong thế giới này, chỉ có tôi và những món cổ ngoạn trên giá.
Trong Tố đỉnh lục, ông nội tôi từng viết: “Giám định cổ vật có hai cảnh giới, ‘hữu ngã’ và ‘vô ngã’. ‘Hữu ngã’ là ta giám định, còn ‘vô ngã’ là để cổ vật tự nói lên thật giả.” Tôi vốn không hiểu đoạn này lắm, cảm thấy quá mơ hồ, nhưng giờ khi hoàn toàn tĩnh tâm quan sát những món đồ cổ này, tôi bỗng thấy hiểu hơn về cảnh giới vô ngã. Những món đồ chợt hiện rõ hơn trong mắt tôi, không phải rõ hơn về mặt thị giác, mà là về cảm giác. Vết nứt trên bát sứ, đường vân trên hộp thuốc, mấy vết ố trên hộp thuốc hít, nửa đồng tiền ngọc trên lưng cóc vàng, những chi tiết trước đây tôi lơ là bỏ sót, giờ đều hiện lên mồn một, tôi chẳng cần để ý, chúng đã tự đập vào mắt.
Đây có lẽ là cảnh giới vô ngã “cổ vật tự nói lên thật giả”, cũng là sự tiến bộ trong quan sát, bước tiến xa hơn của tâm cảnh.
Tôi thản nhiên nhìn lướt qua các món trên giá, chẳng mấy chốc đã hết mười lăm phút. Đới Hạc Hiên vội vàng rút nén hương ra, tuyên bố hết giờ rồi hỏi tôi có bắn trúng không. Tôi thong thả giơ tay chỉ ngay lên giá, “Tôi chọn cái này.”
Thấy tôi hơi lắc ngón tay, Đới Hạc Hiên ngỡ tôi vẫn phân vân, bèn đắc ý hỏi, “Rốt cuộc cậu chọn cái nào?”
Tôi cười đáp, “Cái này.”
Đới Hạc Hiên xẵng giọng, “Là ô nào, đừng hòng lần khân!”
Ngón tay tôi vẽ một vòng trên không, “Tôi nhìn khắp lượt, thấy thứ đáng tiền nhất của thầy chính là chiếc giá này.”
Dược Bất Nhiên nhướng mày, không hiểu ý tôi. Còn Đới Hạc Hiên lại phá lên cười ha hả, “Này chú em, cậu sợ quá hóa lú rồi à? Chịu thua thì cứ nói thẳng ra, bày bao nhiêu đồ như thế không chọn, lại nói vớ nói vẩn về cái giá là sao?”
“Tôi lấy hòm bỏ ngọc đấy. Đồ cổ ngoạn trong ba mươi ô này đều là hàng giả cả. Chỉ có giá gỗ trưng bày này mới có thể coi là bảo bối thôi.”
Đới Hạc Hiên vẫn vờ như không hiểu, “Cậu nói gì cơ?”
Tôi đi đến trước giá trưng bày, vỗ vào khung gỗ chặc lưỡi, “Lấy gỗ lim chỉ vàng đóng cả cái giá to thế này, chắc phải mất núi tiền ấy nhỉ.”
Vừa nghe thấy bốn chữ “gỗ lim chỉ vàng”, Đới Hạc Hiên lập tức xẹp xuống như một quả bóng xì hơi.
Giá gỗ này không phủ sơn mà để nguyên màu gỗ thô, chất gỗ vàng nhạt, hơi ngả xanh. Vân gỗ rất rõ, thớ tuyệt đẹp, lại còn đều đặn, nom như núi non trùng điệp, chẳng khác nào một bức tranh sơn thủy thiên nhiên. Kỳ diệu nhất là giữa các vân gỗ thấp thoáng chỉ vàng óng ánh, giữa sảnh trưng bày khá tối, đặc điểm này càng hiện rõ. Đây là đặc trưng điển hình của gỗ lim chỉ vàng.
Gỗ lim chỉ vàng thuộc loại cực quý, chất dày dặn, ấm nhuận mà không khô, nghìn năm không mục không phai, thời xưa chỉ hoàng gia mới được sử dụng, nếu dân thường dám dùng sẽ bị khép tội vượt quy định, xử chém đầu. Đồ đạc bằng gỗ lim chỉ vàng rất được ưa chuộng trên thị trường cổ vật, một chuỗi tràng hạt cũng có giá ngất nghểu. Nếu ai có được một món đồ gia dụng bằng gỗ lim chỉ vàng là đủ ăn tiêu cả đời.
Tiếc rằng vì khai thác vô tội vạ trong thời gian dài, gỗ lim chỉ vàng đã gần như tuyệt tích. Giờ nhà nước cấm khai thác, trên thị trường cũng chẳng còn gỗ lim chỉ vàng mới nữa, người ta đành gỡ từng tấm gỗ từ nhà cửa, đồ gia dụng cũ ở khắp nơi ghép vào đem bán lại, giá cao hơn vàng ròng. Nom chất liệu và màu sắc chiếc giá này của Đới Hạc Hiên có phần loang lổ không đều, thỉnh thoảng có vài chỗ đứt gãy, không liền thành một khối, rõ ràng cũng là hàng chắp vá.
Tôi thậm chí còn thấy mấy hàng gỗ màu sẫm lạnh, ẩn hiện vết bùn, không khỏi cười thầm. Thoạt nhìn đã biết gỗ ấy gỡ từ ván quan tài ra, hơn nữa còn là những ngôi mộ lớn, được dùng gỗ lim chỉ vàng. Để đóng cái giá này, chẳng biết Đới Hạc Hiên đã lén lút quật bao nhiêu cổ mộ, động chạm đến bao nhiêu cổ nhân. Bốn góc giá còn điểm xuyết mấy mảnh gỗ đen nhánh như mực. Đó gọi là gỗ âm, có những tấm gỗ lim chỉ vàng bị chôn xuống đất hơn nghìn năm vì nhiều nguyên nhân, thiếu dưỡng khí cộng thêm áp suất cao khiến chất gỗ bị hóa than, chuyển màu đen nhánh, trở thành gỗ âm, còn quý hiếm hơn nữa.
Giá gỗ này ghép từ bao nhiêu gỗ lim chỉ vàng như thế, xem ra mấy năm trước Đới Hạc Hiên không chỉ sống nhờ môn khí công lừa đảo kia. Tiếc rằng tôi không phải người Thanh môn, hiểu biết về đồ gỗ có hạn, bằng không đã nhận ra nhiều điều hơn rồi.
Dược Bất Nhiên hào hứng chạy đến, “Mày khá đấy, sao nhận ra được thế?”
“Đây không phải giám định, mà là bẫy tâm lý thôi.” Tôi bình thản đáp.
Trước đây tôi đã nói, bắn úp không phải để kiểm tra trình độ giám định cổ vật, mà là cuộc chiến tâm lý. Ba mươi món cổ vật bày đầy giá, khí thế bức người chính là ám thị tâm lý tài tình. Phần lớn mọi người trông thấy sẽ bị ám thị, tự nhiên chỉ cắm đầu chọn trong phạm vi ba mươi món kia, không nghĩ ngợi gì. Nhưng ngẫm kỹ mới thấy trước khi đánh cược rõ ràng Đới Hạc Hiên đã nói “mời cậu bắn trúng món quý nhất trên giá”, không hề bảo không tính cái giá.
Thế nên hễ để định kiến “ba mươi món” ăn vào đầu là thua chắc. Đây là cái bẫy tâm lý Đới Hạc Hiên giăng ra. Người đánh cược càng chăm chú không nghĩ gì khác, thì càng thua thảm hại. Có lẽ trước đây Đới Hạc Hiên từng dùng chiêu này lừa được khá nhiều người.
Lần đầu tiên đánh cuộc, lòng tôi nóng như lửa đốt, mười lăm phút còn chưa xem xong ba mươi món đồ cổ chứ nói gì để ý đến cái giá. Đến lần thứ hai tôi tĩnh tâm hoàn toàn, mới thấy chất gỗ đóng giá có vấn đề, lại ngẫm kỹ những lời Đới Hạc Hiên nói, cuối cùng cũng tìm ra bí ẩn lão giấu giếm: giá gỗ lim chỉ vàng này dĩ nhiên đáng tiền hơn tất cả những thứ bày trên đó rồi.
Đủ thấy muốn phá được cạm bẫy này, không cần tập trung tinh thần gạt bỏ tạp niệm, mà phải có can đảm mua hòm bỏ ngọc.
“Ranh con, coi như lấy lại phong độ rồi đấy.” Dược Bất Nhiên hào hứng thụi tôi một quả.
Đới Hạc Hiên đánh cuộc thua, mặt sầm xuống. Thấy tôi tới trước mặt, lão mới cố trấn tĩnh, rít qua kẽ răng, “Hay, hay lắm, biển số trong quẻ của ta quả nhiên ứng vào cậu. Tuy ta hiểu thấu chân lý vũ trụ, song cũng không thể không thuận theo ý trời.”
Tôi đi thẳng vào đề, “Tôi thắng rồi, thầy thực hiện lời hứa đi.”
Nghe tôi nói vậy, Đới Hạc Hiên nhướng mày, vẻ xảo trá lóe lên trong mắt, “Ta chịu thua, ta sẽ giữ lời. Nhưng cậu muốn ta thực hiện lời hứa nào? Rút đơn kiện Hoàng Yên Yên hay tiết lộ bí mật Thanh minh thượng hà đồ?”
Tôi thót tim nhận ra mình đã phạm phải sai lầm lớn.
Lưu Nhất Minh bảo tôi tới tìm Đới Hạc Hiên hỏi bí mật Thanh minh thượng hà đồ, còn Hoàng Khắc Vũ lại sai tôi đem Đại Tề thông bảo tới đổi lấy an toàn cho Yên Yên. Đây vốn là hai việc, song đã bị Đới Hạc Hiên trộn lẫn vào nhau, khiến tôi nghiễm nhiên gộp chung làm một. Thoạt đầu trước khi đánh cuộc, Đới Hạc Hiên hứa rằng “Nếu cậu thắng, ta sẽ làm theo lời cậu”. Cố ý lập lờ điều kiện thắng, thì ra là giăng bẫy đợi sẵn. Tôi cảnh giác trăm đường mà vẫn bị lão khốn này cho vào tròng.
Thấy tôi lặng thinh, Đới Hạc Hiên lại dương dương tự đắc, “Cậu dùng Đại Tề thông bảo đổi lấy một cơ hội để thắng ta, hòng nhờ ta làm một việc. Không sao, ta xưa nay nói lời giữ lời, cậu mau đề xuất đi.”
Đới Hạc Hiên đang cố tình làm khó tôi. Bí mật của Thanh minh thượng hà đồ liên quan đến sự tồn vong của Minh Nhãn Mai Hoa, nhưng tôi sao có thể khoanh tay nhìn Yên Yên bị kết án được?
Thấy tôi nín lặng, Dược Bất Nhiên sốt ruột gọi, “Hứa Nguyện!” Tôi hiểu ý gã. Sáng nay Bách Thụy Liên công bố kết quả giám định Cacbon-14, lửa đã sớm đến lông mày, không còn thời gian do dự nữa. Một cô gái và cả Minh Nhãn Mai Hoa, đồ ngốc cũng biết phải lựa chọn thế nào.
Sợ tôi chưa đủ bối rối, Đới Hạc Hiên còn bồi thêm một câu, “Hôm nay tòa án điện thoại tới báo với ta rằng thủ tục sắp xong rồi. Cậu còn phân vân nữa, để chậm trễ ra thì đến ta cũng chẳng còn cách nào đâu.”
Tôi không mảy may do dự, lên tiếng ngay, “Tôi muốn bí mật của Thanh minh thượng hà đồ.”
Đới Hạc Hiên cười ha hả rồi lắc đầu cảm thán, “Báu vật vô giá dễ tìm, người yêu tình nghĩa biết tìm ở đâu, đàn ông ai cũng thế nhỉ. Nếu cô Yên hay tin này, chẳng biết sẽ đau lòng tới đâu nữa.”
“Tôi chưa nói xong mà.” Tôi lạnh lùng tiếp. Giờ đến lượt Đới Hạc Hiên ngẩn ra, tôi bước lên một bước, trỏ vào ngực nói, “Tôi sẽ lấy mình ra đổi lấy tự do của Yên Yên.”
Đới Hạc Hiên nheo mắt, “Cậu có ý gì đây? Ta không thích đàn ông đâu.”
“Chẳng phải thầy muốn thu tôi làm đệ tử, luyện Hoàng Đế nội công ư? Chỉ cần thầy chịu rút đơn kiện, tôi sẽ bái thầy làm sư phụ, ký hợp đồng cũng được.”
“Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép nhận thầy, cậu đã thù ta, ta lại nhận cậu làm đệ tử, chẳng phải tự chuốc rắc rối ư?”
Tôi giơ ngón tay, “Vậy nói theo cách khác nhé, tôi sẽ gia nhập môn phái của thầy để xiển dương Hoàng Đế nội công, thế nào? Tôi từng phá vụ án đầu Phật, lại là người kế thừa duy nhất của Bạch môn, anh hùng đánh đồ giả lừng danh cả nước, bấy nhiêu danh hiệu đổi lấy một Hoàng Yên Yên, chẳng lẽ chưa đủ ư?”
Dụ quân tử bằng nghĩa, dỗ tiểu nhân bằng lợi. Không thể bàn đạo đức với kẻ tham tiền mờ mắt như Đới Hạc Hiên được, chỉ còn cách đem lợi lộc ra nhử thôi. Giờ tiếng tôi đang nổi như cồn, nếu quảng bá Hoàng Đế nội công, hẳn sẽ đẩy sức ảnh hưởng của lão lên một tầm cao mới. Tôi không tin lão già mưu mô này không động lòng.
Đới Hạc Hiên đảo mắt mấy vòng, thầm tính toán thiệt hơn. Dược Bất Nhiên cuống quýt kéo tay tôi, “Mày điên à! Định ký giấy bán thân gì đấy? Yên Yên tao khắc có cách cứu, nếu không được thì chúng ta giở thủ đoạn ép Đới Hạc Hiên rút đơn!”
Thấy ánh mắt gã lóe lên hung tợn, nhớ ra trên người gã còn giắt súng, tôi vội kéo gã ra, “Tao không làm được thế đâu!”
“Mày không làm tao làm là được chứ gì! Dù sao mày cũng là người tốt, còn tao là người xấu!” Dược Bất Nhiên gắt.
“Không được.” Tôi thẳng thừng từ chối.
Dược Bất Nhiên trợn mắt nhìn tôi, chỉ hận rèn sắt không thành thép, “Tao quên khuấy đi mất, mày lấy lại phong độ cũng lấy lại luôn cả thói cổ hủ.”
Tôi gượng cười tự trào, “Nếu tao cổ hủ như trước kia thì đã chẳng bắt tay với mày rồi.”
Bắt tay với Lão Triều Phụng là lựa chọn vô cùng bất đắc dĩ, gần như đã phá vỡ nguyên tắc của tôi. Nếu giờ tôi lại làm theo cách của Dược Bất Nhiên, e rằng về sau sẽ thành quen, mỗi lần gặp phải khó khăn đều thỏa hiệp và từ bỏ, cứ thế liên tục lấn giới hạn, cho đến lúc không còn giới hạn nữa. Tới khi ấy thì tôi khác gì Lão Triều Phụng?
Hai chúng tôi trừng mắt nhìn nhau một lúc lâu, cuối cùng cũng nghe Đới Hạc Hiên cất tiếng, “Được lắm, ta chuẩn bị cho cậu một bản hợp đồng, cậu ký vào xong, chúng ta sẽ bàn cả hai việc.”
“Đi.” Tôi quả quyết nói. Tôi biết mình là kẻ duy nhất cứu được Minh Nhãn Mai Hoa và Lão Triều Phụng, bằng không Dược Bất Nhiên cũng chẳng bắt tay hợp tác với tôi, chỉ riêng điểm này đã đủ để tôi nắm lấy quyền chủ động rồi.
Quả nhiên Dược Bất Nhiên hậm hực nghiến răng, rút bàn tay vừa thò vào ngực áo ra, “Lần sau tao chém trước tâu sau là xong, Nguyện-lương-thiện!”
Ba chúng tôi đi xuống sảnh tầng một ngồi. Đới Hạc Hiên dặn đệ tử chuẩn bị một bản hợp đồng và đưa ống bút đến. Tôi xem qua một lượt thấy mình được Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng bá văn hóa Vũ Trụ Hoàng Đế thuê làm đại sứ quảng bá, lương lậu v.v.. đều bỏ trống, song thời hạn hợp đồng lại là suốt đời.
Đến nước này tôi chẳng còn bụng dạ nào đàm phán từng điều với lão nữa, bèn cúi xuống ký tên rồi lấy chứng minh thư ra photo lại một bản.
Đới Hạc Hiên ký tên vào hợp đồng, hớn hở ra mặt. Tôi giục lão mau thực hiện lời hứa, Đới Hạc Hiên bèn cầm điện thoại lên gọi cho cục Công an ngay trước mặt tôi, đề nghị rút đơn khởi tố. Đoạn giải thích, rút đơn cũng cần một quá trình, trong vòng ba ngày Yên Yên nhất định sẽ được thả ra.
“Không biết ra ngoài thấy cậu đầu quân dưới trướng ta, cô Yên sẽ nghĩ sao. Con nhỏ ấy khái tính lắm, cậu định giải thích thế nào?” Đới Hạc Hiên thích chí phất hợp đồng để đệ tử thu lại.
Tôi không muốn nói tiếp chủ đề này nữa, bèn nhắc, “Chuyển sang Thanh minh thượng hà đồ đi thôi.”
“À phải, còn chuyện đó nữa nhỉ.”
Miệng thì nói vậy, nhưng Đới Hạc Hiên vẫn thong dong, bưng chén trà nóng vừa pha lên, thổi tan lá trà rồi nhấp một ngụm, đặt chén xuống, bấy giờ mới chậm rãi nói, “Cụ tổ Đới Hi nhà ta vốn quê ở Tiền Đường Hàng Châu, đỗ tiến sĩ năm Đạo Quang thứ mười một, năm Đạo Quang thứ mười hai thì thành hàn lâm, làm quan tới chức thị lang bộ Binh. Cả đời cụ ham mê thư họa, được coi là bậc thầy tranh sơn thủy, xếp sau Giang Tả Tứ Vương: Vương Thời Mẫn, Vương Giám, Vương Huy, Vương Nguyên Kỳ.”
“Chúng tôi không có nhu cầu nghe kể gia phả.” Dược Bất Nhiên thẳng thừng cắt ngang.
Đới Hạc Hiên xòe tay ra, “Các cậu không muốn nghe thì tự đi mà tìm bí mật Thanh minh thượng hà đồ.” Tôi ấn Dược Bất Nhiên xuống, ra ý bảo lão ta cứ tiếp tục. Đới Hạc Hiên hả dạ lườm Dược Bất Nhiên rồi kể tiếp, “Cụ tổ Đới Hi nhà ta sở trường về tranh hoa điểu, tranh nhân vật hoặc tranh mai trúc thạch, danh tiếng như cồn, được gọi là ‘hậu duệ Tứ Vương’. Thời Đạo Quang, cụ thường được triệu vào cung, để lại khá nhiều tranh chữ tuyệt đẹp. Nhờ đó, cụ có cơ hội xem đủ thứ báu vật cất giữ trong cung cấm.”
“Bao gồm cả Thanh minh thượng hà đồ ư?”
“Chính xác. Bấy giờ có kẻ sưu tầm tên Tất Nguyên bỏ rất nhiều tiền mua lại Thanh minh thượng hà đồ từ Lục Phí Trì, tiếc rằng về sau mắc tội lớn, bị chém cả nhà, bức tranh này được đưa vào cung. Gia Khánh Đế rất thích, bèn cho liệt vào Thạch cừ bảo cấp tam biên. Đến thời Đạo Quang, cụ tổ nhà ta một lần vào cung vẽ tranh mừng thọ, thiên tử đang vui, bèn cho phép cụ vào kho ngự thưởng lãm. Nhân cơ hội này, cụ mới có dịp xem nó.”
Tôi đã thấy con dấu và lời bạt của Lục Phí Trì và anh em Tất Nguyên trong bộ ảnh giám định nên biết thứ tự lưu truyền mà Đới Hạc Hiên nói là thật.
Kể tới đây, Đới Hạc Hiên ngừng lại một thoáng, “Tối hôm ấy cụ tổ về nhà, nét mặt có phần khang khác. Cụ Đới Dĩ Hằng con trai cụ cũng được coi là danh gia thư họa, liền hỏi cha đã được thấy Thanh minh thượng hà đồ hay chưa. Cụ Đới Hi buông một câu lạ lùng. ‘Tiếc thay kiệt tác vĩ đại của Trương Trạch Đoan không còn toàn vẹn nữa’.”
Tôi và Dược Bất Nhiên đồng thanh hỏi, “Cái gì không còn toàn vẹn cơ?”
Đới Hạc Hiên lại ung dung nhấp một ngụm trà, liếc nhìn chúng tôi, “Dĩ nhiên là bức tranh Thanh minh thượng hà đồ không còn toàn vẹn nữa. Bức lưu giữ trong cung chỉ là tàn bản, thiếu mất một đoạn, nên cụ tổ nhà ta mới cảm khái.”
Câu này vừa thốt ra, tôi bỗng thấy một lượng lớn thông tin tràn vào, khiến đầu óc quay cuồng. Trước đây tôi đã vắt óc nghĩ mãi không biết bí mật Thanh minh thượng hà đồ là gì, phong cách vẽ, cách vận bút, đi mực hay ám hiệu ẩn giấu trong chi tiết nhỏ nào đó, song chẳng bao giờ ngờ được bức danh họa lưu truyền bao đời nay lại không phải bản đầy đủ?
Tôi nhanh chóng nhẩm lại số liệu của nó, Thanh minh thượng hà đồ trong Cố cung rộng 24,8 centimet, dài 528 centimet, vẽ trên giấy lụa, hai bên mép đã được bồi kỹ, không hề thấy dấu vết cắt xén. Ghi chép qua các đời cũng chưa từng nhắc tới việc nó là bản thiếu, quan điểm của Đới Hi quả thực long trời lở đất.
“Sao Đới Hi lại nói vậy? Có bằng chứng gì không?” Tôi hỏi.
Đới Hạc Hiên lắc đầu, “Bấy giờ cụ Đới Dĩ Hằng cũng hỏi vậy, nhưng cụ Đới Hi không đáp mà còn đuổi ra. Biết làm sao được, Thanh minh thượng hà đồ là trân phẩm được thiên tử đích thân liệt vào Thạch cừ bảo cấp tam biên, ai dám ong ve xì xào? Nói là thiếu mất một đoạn, lỡ đến tai hoàng đế, ngài lại bắt cụ bổ khuyết thì sao?”
Quả vậy, án văn tự dưới thời Đạo Quang tuy đã bớt phần tàn khốc so với thời Càn Long, nhưng đám văn nhân đã bị dọa sợ mất mật, câm như hến, nào dám nói nhăng nói cuội.
Đới Hạc Hiên lại kể, “Tối hôm ấy, cụ Đới Hi một mình ngồi trong thư phòng viết một tấm thiếp chữ rồi cất đi, không cho ai xem cả. À phải, cất cùng một báu vật khác của cụ là Đại Tề thông bảo.”
Tôi vẫn chưa chịu thôi, bèn gặng tiếp, “Tấm thiếp chữ đó viết gì? Có nhắc gì tới phần thiếu của Thanh minh thượng hà đồ không?”.
“Đã bảo không cho ai xem cả mà, đừng nói người ngoài, ngay cụ Đới Dĩ Hằng con trai cụ cũng chưa từng thấy. Trong Bút ký Túy Tô trai, cụ Đới Dĩ Hằng cũng kể về câu chuyện này, nói rằng cha mình cất kỹ tấm thiếp ấy, còn cảnh cáo người nhà rằng, trừ phi chân tướng Thanh minh thượng hà đồ được phơi bày thì con cháu nhà họ Đới mới được công bố tấm thiếp này. Cụ Đới Dĩ Hằng đoán chừng cha mình đã tận mắt thấy phần thiếu của Thanh minh thượng hà đồ, sau khi đối chiếu với bản trong cung, cuối cùng xác định được bản gốc không còn toàn vẹn. Cụ Đới Hi là danh gia thư họa, phát hiện ra bí mật tày trời này mà không dám nói ra, chẳng khác nào xương mắc trong cổ, không khạc không xong, đành viết vào thiếp, để ngày sau làm bằng.”
Tôi có thể đoán được cách nghĩ của Đới Hi, đó là lối tư duy của một bộ phận văn nhân điển hình: hèn nhát nhưng lại hám danh. Ông ta giấu kỹ tấm thiếp mình viết, đợi có kẻ khác đứng ra chứng minh Thanh minh thượng hà đồ là bản thiếu, bấy giờ con cháu nhà họ Đới có thể công khai tấm thiếp, chứng minh Đới Hi mới là người đầu tiên tìm ra bí mật này, vừa an toàn lại được lưu danh sử sách.
“Sau này cụ Đới Hi về Hàng Châu dưỡng già, không ngờ lại xảy ra loạn Thái Bình thiên quốc. Cụ bị ép phải nhảy xuống sông tự tử, Đại Tề thông bảo mất tích, tấm thiếp cất cùng nó cũng chẳng thấy đâu. May mà cụ Đới Dĩ Hằng đã ghi lại chuyện này vào bút ký truyền lại cho đời sau nên người nhà họ Đới mới hay. Năm 1951, khi nhà nước giám định Thanh minh thượng hà đồ, ta tham gia tổ giám định dưới danh nghĩa kỹ thuật viên, chợt nhớ đến câu chuyện này. Có điều lúc ấy tình hình chính trị nhạy cảm, ta nào dám phát biểu lung tung, chỉ trình bày sơ qua với ông Trịnh Chấn Đạc tổ trưởng tổ giám định mà thôi, tiếc rằng không đủ chứng cứ, dù ông ấy có tin cũng không thể đưa ra thảo luận chính thức được. Tới khi kết quả giám định được đưa ra, ta thấy có ở đó cũng chẳng còn ý nghĩa gì, bèn viện cớ về Nam Kinh.”
“Ông Lưu Nhất Minh cũng không biết chuyện Thanh minh thượng hà đồ không toàn vẹn ư?”
“Ta không nói với ông ta, có điều chắc Lưu Nhất Minh cũng lờ mờ đoán được nhà họ Đới có liên quan tới Thanh minh thượng hà đồ, bằng không đã chẳng cử cậu đến tìm ta, phải không nào?” Nói tới đây, Đới Hạc Hiên rút đồng Đại Tề thông bảo trong túi ngực ra, lăn giữa các ngón tay, “Hoàng Khắc Vũ trả lại ta đồng tiền này, ngoài nhờ vả ra, e rằng còn có ý muốn nhắc nhở ta?”
Thì ra đồng Đại Tề thông bảo này còn có hàm ý đó à? Mấy ông già này chẳng bao giờ nói thẳng ra, lúc nào cũng phải vòng vo tam quốc. Nếu sớm biết giữa Đại Tề thông bảo, Đới Hi và Thanh minh thượng hà đồ liên quan đến nhau, có phải đã bớt được bao nhiêu phiền phức không, tôi than thầm.
“Được rồi, ta kể xong rồi đấy.” Đới Hạc Hiên đặt chén trà xuống.
“Thế thôi à?” Tôi sững sờ.
“Ừ.”
“Nói qua nói lại, Thanh minh thượng hà đồ rốt cuộc có toàn vẹn hay không cũng chẳng có bằng chứng gì, chỉ là câu chuyện truyền mồm nhà thầy thôi sao?”
Tôi cáu tiết, nói thế thì nói làm gì. Câu chuyện này miễn cưỡng mới có thể coi là dã sử, muốn dùng làm át chủ bài để lật ngược tình thế thì không đủ. Tôi nghi hoặc nhìn chằm chằm Đới Hạc Hiên xem lão định giở trò gì.
Đới Hạc Hiên xòe hai tay, “Ta có bao giờ nói ta nắm bí mật về Thanh minh thượng hà đồ đâu, đó là các vị nghĩ thế thôi. Những gì ta biết chỉ có bấy nhiêu, lại nhờ tình cờ lục tìm trong ghi chép cũ ở nhà mới hay. Phần lớn những người khác trong nhà họ Đới e rằng còn chẳng biết chuyện này.”
“Phần lớn ư?” Tôi tinh ý phát hiện ra cách dùng từ của lão có vấn đề.
Đới Hạc Hiên không ngờ lại bị tôi bắt bẻ câu chữ, không khỏi ấp úng, “Ừm..”
Tôi thừa thế gặng tiếp, “Ý ông là ngoài ông ra, nhà họ Đới vẫn có người biết chuyện này?”
Đới Hạc Hiên lúng túng nhấp ngụm trà, lưỡng lự giây lát mới ngẩng lên, “Ái chà, cậu cũng sắc sảo gớm. Được rồi, ta sẽ cho cậu biết, nhưng phải nhớ, đây là phúc lợi của nhân viên đấy nhé.”
Đoạn Đới Hạc Hiên nhét Đại Tề thông bảo vào ngực áo, ngửa mặt nhìn lên trần nhà, lần đầu tiên lão lừa bịp này lộ vẻ khó xử, cũng giống như khi Lưu Nhất Minh nhắc tới lão lần đầu tiên vậy.
“Luận vai vế, nó là cháu gái ta. Có điều theo gia phả thì nhà họ là dòng chính, ta chỉ là dòng thứ, cũng không mấy khi qua lại. Nó tên Đới Hải Yến, còn ít tuổi hơn cậu. Ờm, nói thế nào nhỉ, đó là một đứa quái thai.”
Tôi thầm nhủ, ông còn mặt mũi chê người khác?
“Bố mẹ nó mất sớm, họ hàng thay phiên nhau nuôi nó lớn. Ta thấy nó đáng thương, muốn giúp một tay nhưng con bé chẳng biết có phải đọc sách nhiều ngộ chữ hay không, lại dám nói khí công đều là lừa bịp, là ngụy khoa học, còn bảo ta là quân lừa đảo. Ta khuyên nhủ mấy lần, song nó lại vạch rõ giới hạn với ta, còn viết bài gửi đi khắp nơi, đòi vạch trần bộ mặt thật của ta. Cậu bảo có phải quái thai không?”
Đúng là một cô gái tỉnh táo chính trực, tôi thầm tấm tắc.
“Cô ấy cũng biết chuyện Đới Hi ư?”
“Không biết, có điều nhà họ là dòng dõi cụ Đới Dĩ Hằng, nếu Đới Hi có manh mối gì khác thì chỉ nó mới biết được.”
“Vậy giờ cô ấy ở đâu?”
“Đang học ở Thượng Hải, đại học Phục Đán, khoa Sinh, giờ đã lên nghiên cứu sinh tiến sĩ rồi.”
“Khoa Sinh à?”
Tôi và Dược Bất Nhiên nhìn nhau, lĩnh vực này và giám định cổ vật đúng là phải bắn mấy tầm đại bác mới tới.
Đới Hạc Hiên chớp mắt, “Làm sao? Con bé cháu ta IQ cao, thông minh hơn hai cậu nhiều, văn toán song toàn, là tài nữ chính hiệu đấy.” Đoạn lão chặc lưỡi tiếc rẻ, “Hiềm nỗi đi lầm đường, tiêm nhiễm thứ lý thuyết duy vật phương Tây, bằng không cứ tu tập Hoàng Đế nội công với ta, có khi thành tựu còn hơn xa ta.”
Tôi chẳng muốn nghe lão tự bốc thơm mình, bèn giục lão mau cho tôi cách liên hệ và địa chỉ. Đới Hạc Hiên giao hẹn, “Ta nói trước nhé, cậu đi gặp nó chớ nói là ta giới thiệu, bằng không… ha ha, đừng trách ta không dặn trước.”
“Tôi biết rồi, cho tôi đi.”
Đới Hạc Hiên hất hàm bảo đệ tử, “Này Từ Phương, lần trước con cho một tay nhà báo địa chỉ Đới Hải Yến đúng không? Tay đó tên gì nhỉ?”
“Chung Ái Hoa của Nhật báo Quang Minh Thượng Hải ạ.” Đệ tử kia lễ phép đáp.
Tôi suýt thì sặc nước. Đệ tử kia nhanh nhẹn đưa địa chỉ lại. Tôi sầm mặt tóm cổ tay Đới Hạc Hiên hỏi, “Tay Chung Ái Hoa ấy từng tới tìm thầy à?”
“Đúng thế, mới tuần trước thôi.” Đới Hạc Hiên ngạc nhiên.
“Hỏi những gì?”
Đới Hạc Hiên thích chí đáp, “Nhiều lắm. Nghiên cứu mới nhất về Hoàng Đế nội công tiến triển thế nào rồi, việc tuyên truyền mở rộng ra sao, cả lý thuyết về khí công cơ sở nữa, nói chuyện rất lâu. Cậu ta nhỏ tuổi mà nhìn xa trông rộng lắm, thoạt trông đã nhận ra ý nghĩa định hướng quan trọng của môn nội công này trong việc phục hưng dân tộc Trung Hoa.”
Gã Chung Ái Hoa này giỏi nhất là mê hoặc lòng người và tâng bốc tán tụng. Ở Trịnh Châu tôi cũng bị hắn múa ba tấc lưỡi thổi thành anh hùng vĩ đại đấy thôi.
“Vậy sao Chung Ái Hoa phải lấy địa chỉ Đới Hải Yến?”
“Cậu ta nói làm báo phải chú trọng ý kiến đa chiều, cho rằng Đới Hải Yến giàu tính tượng trưng, vừa có thể thay mặt cho tư tưởng bảo thủ trong gia tộc, lại vừa đại diện cho làn sóng phương Tây xâm nhập. Phỏng vấn nó, có thể làm nổi bật sự đấu tranh giằng xé của ta giữa hai luồng tư tưởng này…”
“Thôi tôi về đây!”
Tôi cắt ngang tràng lải nhải của Đới Hạc Hiên, cầm lấy địa chỉ từ tay đồ đệ lão rồi đi thẳng ra ngoài. Đới Hạc Hiên không ngờ tôi đột ngột bỏ đi như vậy, chỉ kịp ơi ới gọi với theo, “Này, cậu ký hợp đồng rồi đấy nhé.”
Tôi và Dược Bất Nhiên vội vã rời biệt thự của Đới Hạc Hiên, vẻ mặt căng thẳng.
Kế hoạch lớn của Bách Thụy Liên quả nhiên vẫn tiếp tục tiến hành. Chung Ái Hoa lần đến tận đây chứng tỏ chúng đã để ý tới vấn đề “phần thiếu” mà Đới Hi nói, năng lực điều tra của đám người này thực không phải hạng xoàng, quan hệ giữa nhà họ Đới và Thanh minh thượng hà đồ kín đáo như thế mà chúng cũng tra ra được, huống hồ lần này còn đi trước cả chúng tôi.
“Hắn đã ra tay trước chúng ta mấy ngày rồi, chuyện gì cũng có thể xảy ra cả.” Dược Bất Nhiên vừa đi vừa nói.
Tôi ừm một tiếng, thấy lòng nặng như đeo đá. Giờ Minh Nhãn Mai Hoa và Bách Thụy Liên đã rơi vào thế giằng co, trong thời điểm nhạy cảm này, ai lấy được tin về phần thiếu trước sẽ nắm được một quân bài lớn. Với thủ đoạn sắp xếp của Chung Ái Hoa và thế lực đứng sau hắn, nếu để chúng đi trước thêm lần nữa thì tôi gần như không còn khả năng lật lại tình thế.
Thấy tôi mặt mày ủ ê, Dược Bất Nhiên khuyên nhủ, “Mày đừng quá lo. Thanh minh thượng hà đồ rốt cuộc có tàn bản hay không còn chưa biết chắc, có khi Đới Hi chỉ nói linh tinh thì sao.”
Tôi lắc đầu, “Tao sợ nhất là Chung Ái Hoa ra tay diệt khẩu, cắt đứt manh mối này, thế thì chúng ta phiền phức to.” Nói tới đây, tôi nhìn Dược Bất Nhiên đầy vẻ ẩn ý. Trong vụ án đầu Phật, tên sát thủ máu lạnh này đã hành động tương tự. Song dường như Dược Bất Nhiên chẳng hề nhận ra ý tôi, chỉ mải khởi động xe và huyên thuyên, “Tao đang muốn gặp Chung Ái Hoa đây, nghe có vẻ là một tên rất thú vị.”
“Mày sẽ không thích hắn đâu.” Tôi khoanh tay trước ngực, lo lắng ngả người ra lưng ghế.
Bấy giờ cao tốc Hộ Ninh vừa khởi công, lái xe đến Thượng Hải không mấy thực tế. Chúng tôi bàn bạc rồi quyết định đi tàu cho nhanh. Tàu chạy tuyến Nam Kinh - Thượng Hải rất nhiều, hơn nữa chẳng phải lễ tết gì, hẳn còn đầy vé. Về phần Yên Yên, đành để cô chịu khổ trong đó thêm vài ngày vậy.
Chúng tôi đến ga Nam Kinh, vừa hay bắt kịp chuyến 95 từ Cáp Nhĩ Tân đến Thượng Hải chạy ngang. Tôi chìa chứng nhận đặc biệt Phương Chấn cho ra, dễ dàng kiếm được hai vé, tiếc rằng không còn ghế ngồi. May mà chứng nhận của cục Tám bộ Công an có sức tác động không nhỏ, trưởng tàu bèn xếp riêng cho chúng tôi ngồi ở toa ăn, càng yên tĩnh.
Sau khi tàu lăn bánh, Dược Bất Nhiên mượn di động của tôi, nói là phải gọi mấy cuộc rồi vừa nói vừa đi ra chỗ nối giữa các toa. Tôi biết gã lại báo cáo với Lão Triều Phụng, không thể nói trước mặt tôi, nhưng cũng chẳng buồn để tâm.
Tôi day day huyệt Thái Dương, nhìn ra cảnh sắc Giang Nam trôi vùn vụt ngoài cửa sổ, mũi ngửi mùi thức ăn thơm nức từ bếp tàu, mà lòng như có mười mấy sợi dây xoắn lại một chỗ, cứ canh cánh về phần thiếu của bức Thanh minh thượng hà đồ mãi chẳng thôi.
Sau khi loài người tiến lên giai đoạn công nghiệp hóa, mọi thứ đều sản xuất theo tiêu chuẩn, nghìn cái như một, song thời cổ đại chỉ có xưởng thủ công, giữa các món đồ đều có những khác biệt nho nhỏ. Người xưa vẽ tranh dùng mực dùng màu phối tại chỗ, bút lông và giấy lụa do thợ giấy làm ra, có thể nói màu mực đậm nhạt, giấy lụa dày mỏng, sắc độ nông sâu của một bức tranh đều là có một không hai, cũng như vân tay của người ta vậy.
Khác biệt giữa chúng mắt thường khó mà nhìn ra được, nhưng máy móc thì có thể.
Tôi nhớ trước đây từng được xem một buổi giám định ở nước ngoài. Các nhà khoa học tiến hành kiểm nghiệm một bức tranh sơn dầu từ thời Phục hưng, kính hiển vi phát hiện các hạt màu trong tranh rất đều mà ở thời Phục hưng, màu vẽ đều được làm thủ công, không mịn như vậy, hạt màu phải to nhỏ khác nhau mới đúng, từ đó mà kết luận tranh này là giả. Trong nước cũng có trường hợp tương tự, Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa được ủy thác giám định một bức Khê sơn viễn thiếu đồ của Hoàng Công Vọng, các chuyên gia đều cho là thật. Nhưng nhân viên nghiên cứu đi sâu phân tích chất giấy phát hiện ở phần giữa bức tranh sợi vỏ dâu chiếm tỷ lệ lớn, trong khi ở mép tranh sợi vỏ mây lại chiếm đa phần, vậy là sự thật được phơi bày. Thời xưa làm giấy đều là một mảnh một tờ, không có chuyện vỏ mây và vỏ dâu lẫn vào nhau được. Đây là kẻ làm giả cố ý dùng giấy cũ vá vào tranh gốc của Hoàng Công Vọng, tuy vá khéo như áo trời không có đường may, nhưng soi dưới kính hiển vi lại thấy chất giấy khác nhau. Chuyện này do giáo sư Trịnh kể với tôi.
Có thể thấy dù đồ giả làm khéo đến đâu cũng sẽ có khác biệt nhỏ với bản gốc, đó chính là ý nghĩa của phần thiếu. Chỉ cần đối chiếu nó với bản trong Cố cung và bản của Bách Thụy Liên, cái nào khớp vân giấy thì đó là bản gốc.
Át chủ bài mà Lưu Nhất Minh nói hẳn là phần thiếu này đây. Nếu Chung Ái Hoa tìm được nó trước thì chúng tôi thua trắng.
“Hy vọng lần này còn kịp.” Nhìn phong cảnh Giang Nam trôi qua bên ngoài, tôi lẩm bẩm.
Còn đương ngẫm nghĩ thì thấy Dược Bất Nhiên đi vào, ném di động trả lại tôi, vẻ mặt là lạ. Tôi hỏi có chuyện gì, gã nói Minh Nhãn Mai Hoa đã bắt đầu phản kích, phen này hay rồi đây.
Theo Dược Bất Nhiên kể, Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa đã lên tiếng trả lời Bách Thụy Liên. Họ đưa thông cáo, tuyên bố giao Thanh minh thượng hà đồ cho cơ quan có thẩm quyền của nhà nước kiểm nghiệm. Kết quả giám định Cacbon-14 cho thấy, bức Thanh minh thượng hà đồ trong Cố cung xuất hiện vào khoảng năm 1100±300 năm sau Công nguyên, còn gần thời Tống hơn bản của Bách Thụy Liên.
Dư luận nhốn nháo cả lên. Truyền thông Hồng Kông không tin, cho rằng chính phủ Trung Quốc đang bưng bít tai tiếng, yêu cầu bên thứ ba đứng ra kiểm định lại. Trong khi báo chí trong nước chia làm hai phe, phía Bắc thì cho rằng chuyện này đã có kết luận, có thể ngừng lại được rồi, còn phía Nam lại thấy phương pháp Cacbon-14 vẫn chưa hoàn thiện, rốt cuộc phải chính xác đến mức nào mới đáng tin cậy thì còn cần bàn bạc thêm.
Tôi không biết đòn phản kích này là chủ ý của Lưu Nhất Minh hay Lão Triều Phụng, có lẽ là kết quả sau khi hai người ngầm thương lượng, nhưng lại hiệu quả vô cùng. Dưới sự thúc đẩy cố ý, tiêu điểm tranh luận tạm thời đã chuyển từ Thanh minh thượng hà đồ thật giả sang mức độ tin cậy của kỹ thuật Cacbon-14. Tuy cách đánh lạc hướng này không duy trì được lâu, nhưng ít nhất cũng tranh thủ được chút thời gian.
“Chẳng phải nói một bức là bản sao thời Minh còn bức kia là bản gốc thời Tống ư? Sao lại mọc ra hai bức thời Tống được? Hay là cố tình giở trò?” Dược Bất Nhiên bối rối.
“Chắc không phải đâu, nếu giở trò gian lận vào giai đoạn nhạy cảm này, lỡ không qua được kiểm định thì chẳng phải để người ta nắm thóp ư?” Tôi kiên quyết phủ định, “Tao cho rằng việc kiểm định của cả hai bên đều không có vấn đề.”
“Thế chẳng mâu thuẫn à?”
“Không mâu thuẫn. Trong giới làm giả đồ đồng có một kỹ thuật là lấy mảnh vỡ đồ đồng thời cổ đem đúc lại, có quét bằng tia X cũng không nhận ra dấu vết. Làm giả tranh chữ cũng có cách tương tự, lấy giấy cổ làm nền. Tao đoán bản sao của bức Thanh minh thượng hà đồ đã dùng giấy Tống, vẽ bằng mực Tống, bỏ rất nhiều vốn liếng. Kiểm định bằng phương pháp Cacbon-14 có biên độ dao động thời gian lớn, dĩ nhiên không phát hiện được khác biệt.”
“Nói vậy Cacbon-14 chỉ là kế hoãn binh ư?” Dược Bất Nhiên vỡ lẽ.
“Phải rồi, Bách Thụy Liên ra đòn hiểm, bị Lưu Nhất Minh nắm được sơ hở. Hội công bố kết quả này là để đánh lạc hướng dư luận, tranh thủ thêm thời gian cho chúng ta.”
Dược Bất Nhiên than, “Quả nhiên vẫn phải so phần thiếu mới làm rõ được.”
“Bởi vậy xét đến cùng vẫn phải trông vào tiến triển của chúng ta.” Tôi căng thẳng gõ xuống bàn.
Buổi trưa chúng tôi lên tàu ở Nam Kinh, đến hơn sáu giờ tối thì tới Thượng Hải. Thượng Hải quả không hổ là đô thị lớn quốc tế, tàu hỏa vừa vào thành phố đã thấy cao ốc san sát, đèn nê ông sáng trưng, muôn màu muôn vẻ, đậm hơi thở phương Tây hơn hẳn Bắc Kinh xám xịt. Tôi chưa bao giờ đến đô thị Tây hóa phồn hoa thế này, không khỏi thấp thỏm bồn chồn.
Trong giới cổ vật, Thượng Hải được gọi là đất nước. Nước là nước chảy, ý chỉ tiền. Trước giải phóng có cách nói thế này, hai vùng Dự, Thiểm có lịch sử lâu đời, cực nhiều cổ vật, gọi là “đất báu”, Bắc Bình, Nam Kinh là trung tâm chính trị văn hóa, lắm kẻ biết hàng gọi là “đất biết”; còn nếu muốn bán được giá thì phải tới Thượng Hải, Thượng Hải lại gần biển, nên gọi là “đất nước”. Nhất là buôn bán cổ vật với người phương Tây, buộc phải tới Thượng Hải. Từ khi Thượng Hải mở cửa thông thương với nước ngoài, nó đã chiếm một vị trí không thể thay thế trên thị trường cổ vật. Bởi vậy trên bản đồ cổ ngoạn, Thượng Hải còn được gọi là đầu rồng, đầu rồng gặp nước, đương nhiên rồng bay chín tầng trời.
Trong kế hoạch cải tổ của Lưu Nhất Minh, sàn đấu giá đầu tiên của Minh Nhãn Mai Hoa dự định đặt tại Thượng Hải.
Thế lực Minh Nhãn Mai Hoa ở Thượng Hải khá mạnh, nhưng bên cạnh có Dược Bất Nhiên nên tôi không muốn tìm bọn họ. Mà thực ra tôi cũng chẳng định tìm, giờ người của Minh Nhãn Mai Hoa coi tôi như kẻ thù, không gặp thì hơn.
Rời ga Thượng Hải, chúng tôi bắt một chiếc taxi chạy thẳng đến trường Phục Đán. Bước vào cổng trường đã là bảy giờ rưỡi. Lúc này trời vẫn chưa tối mịt, các sinh viên vừa ăn tối xong, sân trường khá đông đúc. Trên sân bóng rổ đằng xa, vẫn có nhiều sinh viên đang so tài, sinh viên đạp xe ra ra vào vào, các đôi yêu nhau thì ngồi tâm sự trên bãi cỏ. Bảng thông báo gần cổng trường sặc sỡ đủ loại áp phích của các câu lạc bộ, còn cả một dãy hàng rong bán sách cũ và băng cassette.
“Ái chà, tuy không bằng Bắc Đại nhưng cũng được đấy nhỉ.” Dược Bất Nhiên hào hứng nhìn quanh ngó quất, trong khi tôi chỉ lạnh lùng giục gã đi cho mau.
Địa chỉ Đới Hạc Hiên đưa rất cụ thể, có cả số nhà ký túc. Có điều khuôn viên trường quá rộng, nên Dược Bất Nhiên xung phong đi hỏi đường. Gã chỉ hỏi nữ sinh, mà nữ sinh lại thường thích dáng vẻ trai hư của gã. Tổng cộng hỏi năm cô, tất cả đều hết sức phối hợp, giơ cánh tay trắng nõn lên chỉ hướng, còn cười khúc khích như tiếng chuông bạc.
Tôi đoán chừng nếu nán lại thêm một lát, có khi gã xin luôn được điện thoại phòng riêng của người ta cũng nên.
“Mày giỏi thật đấy.” Tôi nửa giễu nửa cảm thán.
“Đó là năng khiếu bẩm sinh.” Dược Bất Nhiên vén tóc thờ ơ đáp.
Đới Hải Yến ở ký túc dành riêng cho nghiên cứu sinh tiến sĩ. Đó là khu nhà cũ cải tạo, chỉ có ba tầng. Tường ngoài đã quét sơn lại, nhưng vài chỗ cá biệt vẫn lộ ra mảng gạch nâu đỏ. Trên tường trổ mấy ô cửa sổ, khung cửa đã cũ, trông như một cái chuồng chim lớn. Trước và sau nhà trồng mấy hàng đại thụ, cành lá sum suê, con đường rải bê tông uốn lượn chạy xuyên qua, cũng ra dáng thâm u tĩnh mịch.
Chúng tôi đang định đi vào, chợt Dược Bất Nhiên giữ tôi lại, kéo ra sau một gốc cây.
“Làm gì thế?”
“Mày nhìn kìa.” Dược Bất Nhiên nói khẽ rồi trở về phía cổng ký túc nghiên cứu sinh.
Một cậu trai hơn hai mươi tuổi mặc âu phục dận giày da, đầu vuốt keo bóng loáng, tay ôm một bó hoa hồng thật to đi lên gác. Các sinh viên đứng xem xúm xít phía sau, cầm máy ảnh hò hét.
Cậu trai mặt búng ra sữa, tươi tắn rạng rỡ. Nhưng tôi lại như rơi xuống hầm băng, run lên bần bật.
Chung Ái Hoa, lâu rồi không gặp.