Nghe tiếng vỗ tay, tay chủ Lan Kê Trai thở hắt ra một hơi dài, như trút được gánh nặng.
Hắn khom người nhường đường, lập tức có ba người nối nhau từ cửa bước vào. Dẫn đầu là một thanh niên gầy nhom, trông cũng tuấn tú sáng sủa, tiếc rằng sắc mặt xanh xao, mày mắt thấp thoáng vẻ u buồn. Ấn tượng nhất là tóc và lông mày y trắng như tuyết, không lẫn một sợi đen nào. Da dẻ trên đôi tay lộ ra ngoài cũng trắng bóc, lờ mờ thấy cả mạch máu xanh, chẳng khác nào men xanh ẩn của trấn Cảnh Đức. Rõ ràng y bị bạch tạng nặng.
Hai kẻ đi sau đều đô con lực lưỡng, đầu húi cua, theo sát thanh niên nọ. Vừa bước vào, hai tên to cao đã chắn ngay cửa, một con ruồi cũng không bay lọt.
Thanh niên nọ trước tiên nhìn sang tay chủ Lan Kê Trai, “Anh chính mắt xác nhận rồi chứ?”
Tay chủ Lan Kê Trai gật đầu lia lịa, “Phải, phải, vừa rồi tôi đã tận mắt chứng kiến, quả thực là Phi Kiều Đăng Tiên.”
Gã thanh niên cười nửa miệng, quay sang bác Doãn, “Chào thầy Doãn. Tôi họ Liễu, tên Liễu Thành Thao.”
Bác Doãn ngơ ngác, chỉ biết lặng thinh.
Liễu Thành Thao kéo ghế ngồi xuống rồi chậm rãi vào đề, “Tôi nghe nói giới vá hoa trong nghề vá gốm chia thành ba phái Sơn Đông, Hà Nam, Hà Bắc. Sơn Đông dùng khoan da, Hà Nam dùng khoan cung, Hà Bắc dùng khoan quả lăn, mỗi phái có tuyệt kỹ riêng. Nếu không lầm, đây hẳn là ngón nghề bí truyền của phái Hà Bắc, thầy bảo có đúng không?”
Bác Doãn đã cáu lắm rồi, nhưng trước mặt tên bạch tạng lai lịch kỳ lạ này lại chẳng thốt được câu nào. Liễu Thành Thao cũng chẳng buồn đợi bác ta trả lời, tiếp tục nói, “Ngón Phi Kiều Đăng Tiên này thực khéo quá, như bổ khuyết được cho tạo hóa vậy, dễ bị trời già ghen ghét, không thể tùy tiện sử dụng. May mắn được chứng kiến cũng chẳng có mấy ai. Hôm nay tôi may mắn gặp dịp, đúng là vinh hạnh.”
Tôi và bác Doãn đồng loạt nhướng mày nhìn sang tay chủ Lan Kê Trai. Hóa ra đây mới là mục đích thực sự của hắn! Chiếc lọ tông kia xem chừng đã được xử lý thành sứt miệng sao cho chỉ Phi Kiều Đăng Tiên mới vá lại được, hòng dẫn dụ bác Doãn giở ra tuyệt kỹ.
Vòng vo cả nửa ngày, hóa ra hắn ta không nhắm vào đống gốm sứ của bác Doãn mà muốn thay tên bạch tạng này thăm dò thân phận bác ta.
Liễu Thành Thao nói tiếp, “Phái Hà Bắc vốn ẩn thân ở kinh thành, có vị thế hiển hách nhất trong ba phái. Hiềm nỗi ít người, tới cuối thời Thanh thì dần suy yếu. Huyết mạch duy nhất còn sót lại gia nhập Minh Nhãn Mai Hoa, từ ấy tuyệt kỹ này cũng được truyền vào Huyền môn, trở thành ngón nghề riêng của nhà họ Dược. Bác là ai trong nhà họ Dược?”
Y ngừng một lát, ánh mắt ôn hòa, còn thoáng vẻ tò mò thơ trẻ. Nhưng lời nói thốt ra lại làm tôi rúng động.
Tim tôi bỗng chốc bị một bàn tay vô hình bóp chặt. Sao… tự dưng lại dính dáng đến Minh Nhãn Mai Hoa? Tôi kinh hãi nhìn bác Doãn, lẽ nào ông già diện mạo không có gì đặc biệt này lại có họ với Dược Bất Nhiên?
Trước sự chất vấn của tên bạch tạng, bác Doãn chỉ lạnh nhạt đáp, “Tôi không hiểu cậu đang nói gì nữa.”
Liễu Thành Thao tủm tỉm cười, “Không sao, không sao, những chuyện xửa xưa ấy không nhắc tới cũng chẳng sao. Quan trọng bác biết tuyệt kỹ này, thế là đủ. Thiết nghĩ, rất nhiều nghề thủ công truyền thống Trung Quốc sắp thất truyền tới nơi rồi, phải tìm cách mà gìn giữ bảo tồn. Bác theo tôi về, chúng ta cùng bàn bạc xem làm cách nào bảo tồn những báu vật ấy của dân tộc, được không?”
Nói thì có vẻ đàng hoàng lắm, song giọng điệu lại không cho phép người ta từ chối.
Bác Doãn cảm nhận được ác ý của đối phương, vươn tay toan chộp lấy chiếc đèn xì, song tay vệ sĩ sau lưng Liễu Thành Thao đã nhanh nhẹn bước lên trước, tóm lấy đầu xì. Đầu xì bằng đồng thau, vậy mà hắn nhẹ nhàng bẻ gãy cái rụp như bẻ đũa. Bác Doãn lùi lại mấy bước, khóe miệng run run, cuối cùng cũng hiểu ra, hôm nay để đạt được mục đích, đám người này chẳng ngại gì động chân tay.
Nghĩ đến đó, bác ta lập tức chùn ngay. Rời bàn thao tác, bác Doãn rốt cuộc chỉ là một ông lão hèn nhát. Liễu Thành Thao nhìn sang tôi, thái độ vẫn hết sức ôn hòa, “Chào anh, tuy hai ta chưa có duyên quen biết, nhưng gặp mặt cũng là duyên, chi bằng anh cũng tới chỗ tôi ngồi chơi luôn nhé?”
Muốn bịt miệng à? Tôi nghĩ bụng, bắt đầu nhìn quanh phòng tính kế thoát thân. Thấy tôi đảo mắt, Liễu Thành Thao biết tôi vẫn ôm tâm lý cầu may, bèn khuyên nhủ, “Chuyện về Phi Kiều Đăng Tiên quan hệ trọng đại, không thể lộ ra ngoài. Dù anh có thề, tôi cũng không yên tâm được. Nên hôm nay bất luận thế nào, anh cũng phải đi theo tôi. Đừng phí công vô ích nữa.”
Thấy tôi lặng thinh, tay chủ Lan Kê Trai liền nhìn sang Liễu Thành Thao, vẻ xun xoe lấy lòng. Liễu Thành Thao búng tay, “Trại Tế Liễu chúng ta, xưa nay đã nói là làm. Nợ của anh coi như xí xóa.” Tay chủ Lan Kê Trai chắp tay vái lia lịa để cảm ơn, nhưng mắt lại liếc sang chiếc tủ gỗ hoàng hoa lê. Liễu Thành Thao đi guốc trong bụng hắn, không khỏi lắc đầu, “Lấy mà không báo, không phải hành vi của người quân tử. Đợi khi nào thầy Doãn đi rồi, anh phải thay thầy trông nom cửa hàng đấy.”
Tay chủ Lan Kê Trai như mở cờ trong bụng, chuyến này bác Doãn nhất định có đi mà không có về, bảo hắn trông cửa hàng, há chẳng có nghĩa là những đồ gốm sứ cất giấu trong tiệm đều về tay hắn cả. Nếu không nhìn vào món hời này, đời nào hắn chịu khom lưng uốn gối nịnh nọt một lão thợ bạc cắm cảu.
Tôi đứng bên cạnh, không kìm được trợn tròn mắt. Câu nói của Liễu Thành Thao đã dấy lên con sóng lớn trong lòng tôi.
Trại Tế Liễu, Trại Tế Liễu chẳng phải là tay chân của Lão Triều Phụng mà Dược Bất Nhiên dặn tôi phải đề phòng ư?!
Ngẫm kỹ lại, tôi xâu chuỗi được ngay đầu đuôi câu chuyện. Trại Tế Liễu nhận lệnh của Lão Triều Phụng, tới Thiệu Hưng tìm truyền nhân của tuyệt kỹ Phi Kiều Đăng Tiên. Liễu Thành Thao điều tra ra bác Doãn, song không dám chắc bác ta có biết ngón nghề này không nên không vội rút dây động rừng mà sai tay chủ tiệm đồ cổ gần đó lấy cớ vá gốm tới thăm dò bác Doãn. Một khi bác ta để lộ tuyệt kỹ, Trại Tế Liễu mới xuất hiện bắt người.
Đám người này làm việc thận trọng lại tàn độc, từ đầu đến cuối không lọt một giọt nước.
Dược Bất Nhiên biết rõ hành động của Trại Tế Liễu tại Thiệu Hưng, song không tiện nói thẳng với tôi, đành xa gần bóng gió.
Tôi vốn không hiểu sao Dược Bất Nhiên muốn dẫn dụ mình tới Thiệu Hưng, song trông cách làm của đám Liễu Thành Thao thì lập tức vỡ lẽ. Dược Bất Nhiên ghét nhất là hạng người như Liễu Thành Thao. Tuy tôi không rõ phân công nhiệm vụ của hai tên dưới trướng Lão Triều Phụng ra sao, nhưng đôi bên chắc chắn bằng mặt mà không bằng lòng, chưa chừng còn là đối thủ cạnh tranh.
Dược Bất Nhiên làm vậy là muốn để tôi phá đám Liễu Thành Thao.
Tiếc rằng giờ tôi chẳng những không phá đám được, trái lại còn khó giữ mình, bị người ta tóm ngay tại trận. Liễu Thành Thao tạm thời chưa biết thân phận của tôi, nhưng trở về tìm hiểu sẽ biết ngay tôi là Hứa Nguyện của Bạch môn. Thế là một mình y lập hai công lớn, còn Dược Bất Nhiên lỗ to… À không, phải là xôi hỏng bỏng không mới đúng!
Tôi đang ngẫm nghĩ thì Liễu Thành Thao đã cất giọng êm ái, “Còn không mau dìu thầy Doãn và anh đây ra ngoài?” Hai tên tay sai tức thì đi về phía chúng tôi.
“Khoan đã.” Tôi chợt quát to.
“Anh nói đi, nếu nài nỉ thì thôi nhé, ai cũng bận lắm.” Liễu Thành Thao cảnh cáo.
“Anh muốn mời tôi đến nhà chơi thì tốt xấu gì cũng phải giới thiệu đã chứ.” Tôi vừa tranh thủ thời gian, vừa lẳng lặng nhích chân.
Liễu Thành Thao cười đáp, “Có những chuyện không biết thì hơn, đừng tự chuốc thêm phiền phức.” Dứt lời y ngoắc ngón tay. Hai tên tay sai sấn tới nhanh hơn.
Thình lình tôi nhào tới trước, toan nhặt ống xì vừa nãy bị bẻ gãy lên. Song hai tên kia là dân tập võ, thoạt trông đã đoán ra ngay ý định của tôi, một tên giơ chân chặn đường, tiếp đó quạt ngang cánh tay. Tôi vội giơ khuỷu tay chống đỡ, rắc một tiếng, nửa cánh tay tôi tê dại, như va phải trụ sắt, cả người ngã ngửa ra.
Thử một chiêu thấy tôi không có võ vẽ gì, động tác của tên kia chậm hẳn lại. Thấy tôi ngã nhào xuống đất, hắn cười khẩy rồi vươn bàn tay to bè tóm lấy vai tôi. Đúng lúc mặt hắn chỉ còn cách tôi mười mấy phân, tay phải tôi chợt vơ lấy một thứ ném thẳng vào mặt hắn. Bị tấn công bất ngờ, đối phương rú lên thảm thiết rồi quỳ sụp xuống đất, hai tay bưng mắt.
Thứ tôi vừa vơ lấy là chậu axit tẩy gỉ của bác Doãn. Để gột bỏ những vết đen trên bề mặt đồ bạc, làm bạc sáng bóng hơn, sau khi chế tác xong, thợ bạc sẽ nhúng thành phẩm vào chậu axit tẩy gỉ. Bởi vậy lúc nào trong tiệm cũng có sẵn dung dịch này. Vừa rồi tôi đã để ý thấy bọn chúng chỉ chăm chăm vào những đồ có tính sát thương cao như đèn xì, không hề để tâm tới chậu axit bên cạnh.
Phải biết rằng dung dịch tẩy gỉ thông thường được pha trộn từ axit nitric và axit sulfuric, thành phần nào cũng mạnh cả. Nhúng qua đồ bạc có thể phá vỡ lớp oxy hóa trên bề mặt, song nếu ngâm lâu, đồ bạc sẽ bị axit ăn mòn và hóa đen. Đồ bạc còn bị axit ăn mòn như thế, huống là da người.
Tên còn lại thấy đồng bọn bị tập kích bất ngờ thì sững sờ, buông bác Doãn ra. Tôi thừa cơ quơ ngay chậu còn lại, định hất vào hắn. Chứng kiến tình trạng thê thảm của đồng bọn, tên nọ hết hồn, nào dám kháng cự, hớt hải tông cửa bỏ chạy, không quên kéo Liễu Thành Thao theo. Kết quả là cả chậu thứ hai tạt lên đầu tay chủ Lan Kê Trai.
Tay chủ Lan Kê Trai bạt vía ngã phệt xuống đất, kêu rú lên thảm thiết, một vũng nước vàng đục nhanh chóng loang ra… Kêu gào một lúc lâu, hắn mới nhận ra ngoại trừ đầu tóc hơi ướt thì không còn chuyện gì xảy ra nữa cả.
Đồ bạc nhúng qua chậu axit xong lại phải nhúng vào nước lã để rửa sạch axit. Thế nên cạnh chậu axit bao giờ cũng có chậu nước lã. Lần này thứ tôi tạt là nước lã. Động não cũng đủ hiểu, trong nhà một ông thợ bạc lấy đâu ra lắm axit thế được, có phải chế tạo vũ khí hóa học đâu.
Nhân lúc kẻ địch rối loạn, tôi kéo bác Doãn tông cửa sau bỏ chạy. Sau nhà là một khoảnh sân nhỏ và một đoạn hành lang ngắn nối liền với một gian nhà ngang;
“Ở đây còn lối ra nào khác không?” Tôi hỏi bác Doãn. Người này có quá nhiều bí mật, không lý nào lại không chừa cho mình một đường lui.
Bác Doãn không đáp mà sải bước chạy thẳng ra sân. Khoảnh sân này chẳng được ai quét tước, chỉ có một gốc cây già đã gần chết khô và mấy bụi cỏ dại. Bác ta chạy thẳng đến chỗ tường bao, ngồi thụp xuống bới mấy cái, dời một tảng đá lớn bám đầy dây leo, tức thì dưới chân tường hiện ra một lỗ chó chui. Lỗ chó này một nửa liền với móng tường, đủ để một người trưởng thành chui lọt.
Việc đã đến nước này còn nề hà gì chui lỗ chó nữa. Tôi và bác Doãn lần lượt chui qua, ra bên ngoài mới thấy mình đã ở ngay bờ sông. Bác Doãn không quên quay lại dời tảng đá kia về chỗ cũ, bịt kín cái lỗ.
Để tránh ngấm nước sông hỏng móng tường, những bức tường hướng ra sông đều xây cách bờ sông một khoảng, song không rộng rãi gì cho cam. Tôi và bác Doãn phải áp sát lưng vào tường mới tạm coi như đứng vững. Tôi nghe thấy trong nhà có tiếng chân rầm rập, sau đó là tiếng tông cửa nhà ngang, còn cả tiếng quát tháo giận dữ và lục soát đồ đạc.
Giọng Liễu Thành Thao vẳng ra, vẫn ôn hòa bình thản, chẳng hề bợn mảy may cáu kỉnh vì tuột mất miếng ăn đến mõm.
“Sherlock Holmes từng nói, gạt bỏ tất cả những điều không thể sẽ còn lại đáp án. Nhà ngang không có, vậy chỉ có thể là trèo tường trốn ra thôi. Bọn mày tìm thử xem góc tường có hang hốc nào không?”
Tôi đưa mắt nhìn bác Doãn ý hỏi giờ tính sao, bác ta bèn trỏ xuống nước, khoát khoát tay.
Còn làm sao được nữa? Bơi thôi!
Chúng tôi chẳng buồn cởi quần áo, chầm chậm khom người chuồi xuống nước, cố không phát ra bất cứ tiếng động nào. May mà con sông này không sâu, chỉ khoảng 2 mét, với một thằng nhóc ngổ ngáo tám tuổi đã dám nhảy xuống Bắc Hải bơi như tôi thì hoàn toàn không có gì khó.
Bác Doãn bơi trước, tôi bám sát theo sau. Chúng tôi khẽ khàng quạt tay, chầm chậm bơi đi. Nước mát vừa phải, chỉ thỉnh thoảng có rác thải sinh hoạt lềnh phềnh trôi qua thì hơi buồn nôn. Chúng tôi bơi một lúc lâu, cuối cùng mới bò lên từ bậc thềm sát mép nước thường là nơi giặt giũ trước ánh mắt kinh ngạc của người qua đường.
Miền sông nước là thế, từ cầu Chữ Bát đến nhà bác Doãn phải đi vòng vèo rất lâu, nhưng nếu nhảy xuống nước bơi sang thì chẳng xa lắm. Vùng này khá đông dân, gần đó lại có đồn cảnh sát, dù bọn Liễu Thành Thao đuổi đến cũng không dám ra tay.
Chắc là… không dám ra tay đâu nhỉ?
Tôi bỗng dưng cũng không dám chắc.
Đám người này không giống những kẻ địch tôi gặp trước đây. Nếu phải ví von thì những kẻ trước đây chỉ là lưu manh cắc ké, ăn nói bặm trợn vung dao chém người, nhưng cũng chỉ đến thế, còn đám tay sai của Liễu Thành Thao lại là sát thủ chuyên nghiệp, không tùy tiện ra tay, song hễ ra tay là đoạt mạng.
Trên người hai tên đó thoang thoảng mùi tanh bùn đất, ấy là mùi của bọn trộm mộ. Chúng quanh năm chung đụng với đất bùn, gỗ mục, xác thối, mùi hầm mộ đã thấm vào lỗ chân lông, tắm rửa thế nào cũng không sạch, ngửi là biết ngay.
Thảo nào Dược Bất Nhiên dặn tôi phải đề phòng Trại Tế Liễu, bởi bọn trộm mộ toàn hạng liều mạng, hung tàn bậc nhất. Dưới tay Lão Triều Phụng ngoài đám làm đồ giả, không ngờ còn nuôi cả một toán chuyên trộm mộ thế này, dã tâm của lão quả không nhỏ.
Tôi đang nghĩ ngợi thì đột nhiên bị bác Doãn ấn đầu xuống, giục giã, “Nằm xuống mau!” Tối vội thụp xuống, nấp cạnh bụi bèo rong. Vừa mở miệng toan hỏi có chuyện gì, bác Doãn đã đưa ngón tay lên môi ra hiệu yên lặng rồi trỏ lên cầu Chữ Bát.
Tôi thận trọng ló nửa đầu ra nhìn. Trên cầu Chữ Bát, Liễu Thành Thao đang tươi cười hỏi han một cô gái, trên đầu cô ta cài một món trang sức bạc, lấp loáng dưới ánh nắng, chính là Mạc Hứa Nguyện. Bên cạnh Liễu Thành Thao chỉ có một tên vệ sĩ, có lẽ tên kia đã được đưa đến bệnh viện, bị hắt axit vào mặt đâu phải vết thương nhẹ.
Liễu Thành Thao chuyện trò khá rôm rả với Mạc Hứa Nguyện, thỉnh thoảng cô nàng còn phá lên cười khanh khách. Tôi cuống cả lên, tên Liễu Thành Thao này hết sức nguy hiểm, vô duyên vô cớ tiếp cận Mạc Hứa Nguyện ắt có ý đồ xấu. Tuy tôi với cô gái này chẳng thân thiết gì, song cũng không thể giương mắt nhìn người vô tội bị liên lụy được.
Tiếc rằng khoảng cách quá xa, không nghe rõ được họ nói gì. Chỉ thấy Liễu Thành Thao ghé tai Mạc Hứa Nguyện thì thầm gì đó, cô nàng lắc đầu quầy quậy, nhưng không né tránh. Liễu Thành Thao nắm lấy bàn tay mịn màng của cô, hai người sánh vai bước xuống cầu. Trước lúc rời đi, Liễu Thành Thao chợt dừng chân, nhìn về phía chúng tôi, ánh mắt lóe lên vẻ âm hiểm, chẳng khác nào rắn độc thè lưỡi.
“Y chắc chắn đã phát hiện ra chiếc kẹp tóc sen trúc của Mạc Hứa Nguyện, cho rằng cô ta có liên quan tới chứng ta.” Tôi quay sang bảo bác Doãn, không giấu vẻ trách cứ. Trước kia nếu bác ta thừa nhận quách thì đâu có xảy ra nhiều trắc trở thế này.
Bác Doãn chẳng nói chẳng rằng, sau khi xác định Liễu Thành Thao đã đi khỏi mới từ từ đứng dậy, trỏ ra đầu ngõ, “Đằng kia có đường ra, anh đi đi.” Nói rồi cắm cúi đi về một hướng khác. Tôi nổi giận, tóm lấy bác ta quát lên, “Đám khốn kiếp ấy rõ ràng rắp tâm bắt cóc Mạc Hứa Nguyện để tra hỏi tung tích chúng ta, lẽ nào bác định khoanh tay đứng nhìn sao?”
Bác Doãn thờ ơ đáp, “Liên quan gì đến tôi.”
“Đó là hàng xóm nhà bác mà!”
“Nó chỉ mua đồ bạc của tôi mấy lần, ai tính là hàng xóm.” Bác Doãn giằng tay tôi ra, ánh mắt sáng quắc. Vừa rồi lúc vá gốm, bác ta rõ ràng là nghệ nhân bậc thầy, nhưng giờ đã lại trở thành tay thợ bạc bỉ ổi hèn nhát nóng nảy.
“Dù là người dưng cũng đâu thể thấy chết không cứu!”
Bác Doãn trợn mắt nhìn tôi, “Anh cũng thấy rồi đấy, mấy kẻ đó giết người không gớm tay đâu!” Nhớ lại pha nguy hiểm vừa rồi, bác ta vẫn chưa hết sợ, rụt cổ lại toan bỏ đi, miệng làu bàu mấy câu tiếng Thiệu Hưng tôi nghe không hiểu.
Tôi lạng người chắn trước mặt bác Doãn, nhìn trừng trừng bác ta, gằn từng tiếng, “Tôi là con cháu nhà họ Hứa trong Minh Nhãn Mai Hoa, tên Hứa Nguyện. Nếu bác thực sự là con cháu nhà họ Dược thì nên biết rằng, tôi đã cứu được bác từ tay Liễu Thành Thao, ắt cũng có thể xử lý bác.”
Nghe thấy câu này, bác Doãn đờ ra như bị sét đánh. Với bác ta, sự uy hiếp trong nửa câu sau của tôi còn không có tính sát thương bằng nửa câu trước. Bác ta suy sụp bưng mặt lẩm bẩm, “Tôi biết mà, biết ngay mà… lộ ra tuyệt kỹ Phi Kiều Đăng Tiên, nhất định sẽ bị trời phạt. Nhẫn nhục mấy chục năm, sao cuối cùng lại không kiềm chế được…”
Bác Doãn bị tôi dồn vào chân tường, cứ lẩm bẩm mãi, hơi thở đột nhiên nặng nhọc hẳn lên, mắt đỏ vằn, trông như sắp phát bệnh. Tôi chẳng chút nể nang, tát cho bác ta hai bạt tai thật mạnh, làm bác ta đờ ra, những triệu chứng kia cũng biến mất.
Xem ra chứng hưng cảm của bác Doãn cũng biết mềm nắn rắn buông. Nhẹ nhàng hỏi han thì bác ta sẽ nổi xung thiên gắt gỏng, phải hùng hổ hăm dọa mới chịu nhũn. Sớm biết bác ta có thói ấy, tôi đã chẳng cần mất công dò hỏi, cứ xông thẳng vào nhà đe dọa có phải xong không.
Giờ Liễu Thành Thao không còn cơ hội, nhưng tôi vẫn còn.
Không bị ép vào đường cùng thì đừng hòng bác ta chịu mở miệng. Tôi lạnh lùng nói, “Tôi có thể thả cho ông đi, tự tôi sẽ đi cứu Mạc Hứa Nguyện, nhưng ông phải kể hết mọi chuyện với tôi, bằng không…”
Vừa rồi bác ta cũng đã thấy tôi tạt cả chậu axit vào người ta, đủ biết tôi là kẻ tàn nhẫn dám nói dám làm.
Chẳng còn cách nào khác, bác Doãn đành ra hiệu cho tôi đi theo mình, tìm một nơi thuận tiện để nói chuyện. Tôi được bác ta dẫn vòng vèo giữa những hang cùng ngõ hẻm hồi lâu, chợt thấy phía trước quang đãng hẳn, hóa ra đã ra tới đường lớn. Có một nhà thờ nằm ngay lề đường bên phải.
Nhà thờ này được quét sơn cánh gián, có một gác chuông mái nhọn cao ngất, cửa sổ tròn chính giữa gắn kính màu. Vách tường đã tróc sơn loang lổ, e rằng được xây từ thời Dân Quốc. Tuy tổng thể trông hơi cũ kỹ, nhưng lại toát lên vẻ thiêng liêng trầm lắng. Bao quanh bên ngoài là một khoảnh sân, trong sân có đài phun nước đắp hình Đức Mẹ và lán xe đạp, giá sách bên cạnh bày rất nhiều sách giáo lý bỏ túi ai lấy cũng được.
Bác Doãn đi thẳng vào trong, vẻ như rất quen thuộc chốn này. Cửa nhà thờ không khóa, đẩy khẽ là mở ra. Bên trong nhà thờ bài trí hết sức quy chuẩn, phía trước là bục giảng đạo với cây thập giá sừng sững, bên dưới là hơn hai mươi dãy ghế gỗ. Trên cột bên cạnh còn treo một đôi câu đối đỏ đậm phong vị Trung Hoa: Thiên Chúa tạo ra trời đất vạn vật, thánh thần yêu thương mọi người trên đời. Lúc này không có khóa lễ, nhà thờ vắng hoe, chẳng một bóng người.
Bước vào đây, vẻ mặt bác Doãn dịu hẳn đi, chẳng thấy hung hăng nóng nảy gì nữa. Bác ta chọn một chỗ ngồi xuống, tôi nghĩ ngợi rồi ngồi xuống hàng ghế ngay sau. Từ vị trí của tôi, có thể trông thấy gáy bác ta và cây thập tự đằng xa.
Có những lời dễ nói ra hơn khi không phải đối mặt.
Tôi dựa vào lưng ghế, hai tay khoanh trước ngực, lặng lẽ đợi. Bác Doãn cúi gục mặt xuống, hai tay chắp lại, lẩm bẩm cầu nguyện gì đó. Ánh nắng rọi qua ô kính màu trên đỉnh mái vòm, như một cánh tay hào quang vô hình, nhẹ nhàng đặt lên vai bác ta vỗ về.
“Tôi không phải con cháu nhà họ Dược, chỉ có chút quan hệ với họ thôi.” Bác Doãn mào đầu.
Như trên đã nói, nghề vá gốm chia thành ba phái, Sơn Đông dùng khoan da, Hà Nam dùng khoan cung, Hà Bắc dùng khoan quả lăn, đằng sau đó là ba gia tộc: Cố, Phàn, Doãn.
Trong đó phái Hà Bắc gần kinh thành nhất, cũng nổi danh nhất, được rất nhiều quan lại quý nhân, văn nhân nhã khách ưa chuộng. Cuối thời Thanh, nhà họ Doãn sinh ra một thiên tài, tên gọi Doãn Điền. Nhà họ có một tuyệt kỹ vá gốm gọi là Phi Kiều Đăng Tiên, vừa tinh xảo lại đẹp mắt, rất phù hợp để biểu diễn ngón vá hoa trước mặt người khác. Doãn Điền tài hoa tuyệt thế, thiên bẩm cực cao, vừa học thành tài đã làm chấn động kinh thành. Nghe nói đồ vật trong cung hỏng đều vời ông ta tới sửa, thậm chí còn từng biểu diễn trước mặt Lão Phật Gia.
Có điều thuật Phi Kiều Đăng Tiên tuy đẹp mắt, nhưng có một cấm kỵ. Tổ tiên họ Doãn từ xưa đã răn rằng: tuyệt kỹ này quá tinh diệu, cướp hết tài khéo của tạo hóa, nên dễ bị trời xanh ghen ghét. Vì vậy một người không được dùng quá số đại diễn, nhiều hơn tất sinh họa. Kinh Dịch có viết, “Số đại diễn năm mươi, chỉ dùng bốn mươi chín*.”
Doãn Điền lừng danh kinh thành, bản thân ông ta lại cố ý dựa vào nó để tạo dựng tăm tiếng, chẳng biết đã biểu diễn Phi Kiều Đăng Tiên bao nhiêu lần, từ lâu đã vượt quá số đại diễn. Chẳng ngờ vừa qua đại thọ ngũ tuần, ông ta đã đổ bệnh nặng, hẳn là do vi phạm điều tối kỵ. Doãn Điền hối hận cũng đã muộn, tự biết mình chẳng còn nhiều thời gian, muốn truyền lại tuyệt kỹ này thì lại không có con trai, chỉ có một con gái là Doãn Đan.
Nghĩ đi nghĩ lại, ông ta đành loan tin rằng muốn tìm người ở rể, của hồi môn là Phi Kiều Đăng Tiên.
Tin này vừa truyền ra đã làm chấn động cả kinh thành. Ai ai cũng biết giá trị của tuyệt kỹ này, người đổ xô tới xin ở rể đông như cá diếc qua sông. Nhưng Doãn Đan con gái ông ta khăng khăng không chịu, thậm chí còn dọa sống dọa chết. Doãn Điền tra hỏi mãi, cô mới thú thật rằng mình đã phải lòng một người trong Minh Nhãn Mai Hoa.
Doãn Điền nghe vậy thì ngạc nhiên xen lẫn giận dữ. Ngạc nhiên là bởi Minh Nhãn Mai Hoa bấy giờ là Thái Sơn Bắc Đẩu trong giới giám định cổ vật, địa vị cao hơn một thợ vá gốm nhiều; giận dữ là vì, Minh Nhãn Mai Hoa vị thế hiển hách, ắt không đời nào chấp nhận để con cháu mình đi ở rể người ngoài. Ông ta hỏi con gái kẻ đó rốt cuộc là ai, Doãn Đan mới thưa rằng, là con trai trưởng nhà họ Dược của Huyền môn, tên Dược Thận Hành.
Nhà họ Dược nắm giữ mảng gốm sứ, quan hệ mật thiết với nhà họ Doãn chuyên nghề vá gốm, thường ngày vẫn qua lại khăng khít. Dược Thận Hành và Doãn Đan quen biết rồi yêu nhau, chỉ là chưa dám thưa với người lớn trong nhà xin cầu hôn.
Doãn Điền tìm đến nhà họ Dược bàn bạc, quả nhiên nhà bên đó cương quyết tỏ ý: “Doãn Đan gả sang đây thì không sao, nhưng bảo Dược Thận Hành đi ở rể thì nhất định không được, đó là người kế nghiệp mà chúng tôi dốc lòng bồi dưỡng.” Doãn Điền vô cùng khó xử, nếu thuận theo nhà họ Dược, e rằng thuật Phi Kiều Đăng Tiên sẽ thất truyền. Cuối cùng chuyện này cứ giậm chân tại chỗ mãi.
Doãn Điền khó nghĩ là bởi, nhà họ Doãn đã cấm ngặt không được để lọt tuyệt kỹ này ra ngoài. Ông ta đành khuyên con gái suy nghĩ lại.
Nào ngờ lúc này Doãn Đan đã có mang, bụng ngày một lớn. Cứ lần lữa mãi thì chẳng mặt mũi nào ra ngoài nữa. Hay tin, Doãn Điền như sét đánh ngang tai. Chẳng còn đường nào khác, ông ta đành gọi Dược Thận Hành đến bên giường, nói rằng mình quyết định gả Doãn Đan vào nhà họ Dược, cũng bằng lòng truyền Phi Kiều Đăng Tiên cho Dược Thận Hành, nhưng buộc Dược Thận Hành phải thề không được dạy lại cho người nhà họ Dược, chỉ một mình mình biết mà thôi.
Khi nào Doãn Đan sinh được con trai thứ thì cho mang họ Doãn để thừa kế ngón nghề này.
Dĩ nhiên Dược Thận Hành nhận lời, Doãn Đan chẳng mấy chốc được gả vào nhà họ Dược. Doãn Điền biểu diễn Phi Kiều Đăng Tiên lần cuối cùng, Dược Thận Hành cực kỳ thông minh, chẳng mấy chốc đã học được. Truyền thụ xong tuyệt kỹ, Doãn Điền đột ngột qua đời. Trước lúc lâm chung, ông ta dặn đi dặn lại Dược Thận Hành, “Không được dùng Phi Kiều Đăng Tiên quá số đại diễn, bằng không ắt bị trời ghen ghét.” Gả vào nhà họ Dược ít lâu, Doãn Đan sinh được con trai trưởng, đặt tên là Dược Lai*
. Tiếc rằng lúc sinh nở bị hao tổn sức khỏe nghiêm trọng, chưa kịp sinh con thứ hai thì đã qua đời. Dược Thận Hành yêu thương vợ sâu đậm, ở vậy không tục huyền nữa. Về phần tuyệt kỹ Phi Kiều Đăng Tiên, Dược Thận Hành cũng giữ trọn lời thề, chưa từng truyền cho bất cứ người nào trong nhà họ Dược.
Dược Thận Hành vốn định sau khi lên làm chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa sẽ chọn một người thuộc chi thứ họ Dược cho làm con thừa tự nhà họ Doãn, truyền cho ngón Phi Kiều Đăng Tiên, hoàn thành lời trăng trối của Doãn Điền.
Ngờ đâu tới năm Dân Quốc thứ mười bảy thì gió đổi chiều. Minh Nhãn Mai Hoa bị cuốn vào vụ Tôn Điện Anh trộm Đông lăng, Dược Thận Hành vì thủ tiêu tang vật cho Đàm Ôn Giang mà bị quan phủ bắt giam, kết án mười năm tù. Ngôi chưởng môn rơi vào tay một người tên Hứa Nhất Thành.
Hai năm sau, vì thời thế biến động, nhà tù giam giữ Dược Thận Hành xảy ra vụ cướp ngục, phần lớn phạm nhân đều bỏ trốn. Hay tin Hứa Nhất Thành liền phái người đi tìm Dược Thận Hành, song không rõ tung tích.
Thực ra Dược Thận Hành chưa chết. Ông ta vô cùng hổ thẹn về những việc làm của mình trước đây, không muốn liên lụy tới Minh Nhãn Mai Hoa nữa, bèn nhân cơ hội này mai danh ẩn tích, đổi sang họ Doãn, đi xuống miền Nam, cuối cùng định cư ở Thiệu Hưng. Ở đây ông ta nhận nuôi một đứa trẻ, cho nó đổi sang họ Doãn, lấy tên Niệm Cựu, khấu đầu trước bài vị Doãn Điền coi như người thừa tự. Sau đó ông ta dạy cho Doãn Niệm Cựu thuật vá gốm và Phi Kiều Đăng Tiên, coi như hoàn thành tâm nguyện của cha vợ.
Dược Thận Hành ẩn cư tại Thiệu Hưng một năm, chợt một hôm nói với Doãn Niệm Cựu rằng mình có việc phải lên miền Bắc, dặn Doãn Niệm Cựu trông nom cửa hiệu.
Mấy tháng sau có người từ miền Bắc tới, chuyển cho Doãn Niệm Cựu một bức thư và một cuộn Kim Đáy Bể. Thư là Dược Thận Hành viết, nói rằng có lẽ mình không còn cơ hội về Thiệu Hưng nữa, dặn dò Doãn Niệm Cựu đổi sang nghề thợ bạc, và nhớ rằng không được dùng tuyệt kỹ Phi Kiều Đăng Tiên trước mặt người khác, song không được để thất truyền. Bộ Kim Đáy Bể cũng phải giữ gìn cẩn thận.
Kim Đáy Bể chính là cuộn da bò gài đầy những dụng cụ nho nhỏ mà tôi từng thấy. Song Dược Thận Hành không hề giải thích mình đã gặp chuyện gì ở miền Bắc, sao lại phải gửi người ta chuyển giùm vật này về.
Doãn Niệm Cựu hướng về phía Bắc khóc nức nở, từ đó vâng theo lời Dược Thận Hành, không nhắc nhỏm tới nghề vá gốm nữa, đổi sang làm thợ bạc. Vì vậy hàng xóm láng giềng đều không biết người nhà này vốn làm nghề vá gốm, cứ ngỡ là thợ bạc gia truyền. Về phần Phi Kiều Đăng Tiên, Doãn Niệm Cựu cũng dốc lòng dạy lại cho Doãn Hồng con trai mình, nhưng không cho truyền ra ngoài.
Về sau chiến loạn liên miên, vợ chồng Doãn Niệm Cựu bất hạnh trúng bom mà chết. Doãn Hồng sợ hãi quá độ, sinh ra bệnh tâm lý. Từ ấy, bác ta trở nên rụt rè nhút nhát, không muốn tiếp xúc với người khác, tính tình lại nóng nảy, chỉ giam mình trong tiệm làm đồ bạc kiếm sống. Có điều Doãn Hồng vẫn nhớ kỹ lời cha dạy, chưa bao giờ dám chểnh mảng nghề vá gốm, mấy chục năm nay hễ rảnh rỗi lại luyện tập, thậm chí đến mức gần như ám ảnh cưỡng chế.
Mỉa mai ở chỗ, chính vì cái tính quái gở ấy nên chẳng biết tự lúc nào, tay nghề bác ta đã vượt qua cả Doãn Niệm Cựu và Dược Thận Hành, gần như sánh ngang được với Doãn Điền, chỉ là chưa bao giờ để lộ trước mặt người khác.
Hôm nay, Doãn Hồng bị tôi và tay chủ Lan Kê Trai hợp sức bức ép mới miễn cưỡng giở ra tuyệt kỹ, nhưng kỳ thực sâu trong thâm tâm bác ta cũng mong có cơ hội biểu diễn trước mặt người khác một lần, bằng không công sức khổ luyện cả đời, há chẳng đổ xuống sông sao.
“Chuyện là thế đấy.” Bác Doãn mệt mỏi kết lại, vẫn không hề ngoái đầu.
Tôi ngồi ở hàng ghế sau, lòng ngổn ngang bao điều khó nói. Nghe bác Doãn kể xong, tôi mới hay hóa ra giữa bác ta và Minh Nhãn Mai Hoa còn có mối quan hệ sâu xa như vậy. Thật chẳng ngờ một nhân vật quan trọng nhường ấy của nhà họ Dược lại từng ẩn cư chốn này.
Dược Thận Hành quả là bậc quân tử trọng tình trọng nghĩa, biết giữ lời hứa. Để chuộc tội, ông ta bằng lòng bỏ cả Minh Nhãn Mai Hoa, vì một lời thề mà cam lòng ở ẩn.
“Nhưng tại sao ông ấy lại chọn Thiệu Hưng để định cư?” Tôi hỏi.
“Vì Doãn Đan vẫn luôn muốn tới vườn Thẩm chơi, tiếc rằng mãi không có cơ hội. Lúc xuống miền Nam, Dược Thận Hành đem theo cả tro cốt của Doãn Đan, chôn ở một góc vườn Thẩm. Nghe cha tôi kể, ông ấy thường xuyên tới đó thăm nom, lần nào đi cũng ở cả ngày, mãi cho tới khi lên miền Bắc.”
Tôi cảm khái khôn nguôi, chợt nghĩ tới một chuyện, nhẩm tính mới thấy thời gian ông ta ngược lên phía Bắc chính là giai đoạn ông nội Hứa Nhất Thành nhà tôi dính vào vụ án đầu Phật.
Lẽ nào hai chuyện này liên quan đến nhau?
“Cha bác có biết ông ấy ngược lên phía Bắc làm gì không?”
Doãn Hồng lắc đầu, “Cha tôi vẫn canh cánh mãi, nói rằng muốn làm tròn chữ hiếu với ông cụ, vậy mà đến mộ cụ ở đâu còn không biết. Ông răm rắp vâng theo lời dặn dò của Dược Thận Hành, không dám đi lên miền Bắc tìm người, chỉ đợi ở Thiệu Hưng.” Nói tới đây, Doãn Hồng ngẩng đầu nhìn lên mái vòm lẩm bẩm, “Tôi cứ có cảm giác chúng tôi không phải ở ẩn, mà đang trông giữ một thứ gì đó ở đây.”
Dược Thận Hành chỉ gửi về Thiệu Hưng đúng một cuộn Kim Đáy Bể. Nhưng vừa rồi tôi cũng đã thấy, đó chỉ là một bộ đồ nghề cổ, trên tấm da bò gài mười mấy món dụng cụ nhỏ tinh xảo. Nếu có bí mật gì, e rằng đã bị Doãn Hồng phát hiện từ lâu. Huống hồ, nếu đã muốn họ trông giữ, lại không nói rõ thứ đó là gì thì làm sao trông được?
Có điều giờ nghĩ gì cũng đã muộn, cuộn da bò Kim Đáy Bể ấy e rằng đã rơi vào tay Liễu Thành Thao mất rồi.
Đúng lúc này, Doãn Hồng chợt hỏi, “Vừa rồi anh nói… anh là người nhà họ Hứa à?”
“Đúng thế, Hứa Nhất Thành là ông nội tôi.” Tôi bất giác ưỡn ngực.
Bác Doãn ồ lên nói, “Cha tôi từng nhắc tới cái tên này, ông Hành vô cùng tán thưởng người đó, nói rằng đó là người có tư cách dẫn dắt Minh Nhãn Mai Hoa hơn mình nhiều, bộ Kim Đáy Bể kia, nghe nói cũng là của ông ta.”
Tôi thực không ngờ bộ đồ nghề ấy lại là di vật của ông nội mình. Nhưng nghĩ lại, tôi chợt nhíu mày, “Dược Thận Hành và Hứa Nhất Thành xưng hô ngang hàng à?”
“Chắc thế, Hứa Nhất Thành nhỏ hơn ông Hành mấy tuổi thì phải.”
Lạ thật đấy. Nếu Doãn Hồng nói không sai thì Doãn Niệm Cựu phải ngang hàng với mấy người Hoàng Khắc Vũ, Lưu Nhất Minh, Dược Lai, Thẩm Vân Sâm, cả bố tôi Hứa Hòa Bình cũng phải ở vào hàng ấy. Cứ thế mà suy, há chẳng phải Dược Bất Nhiên và Yên Yên là hàng cháu của tôi sao?
Trước kia lúc nghe Yên Yên kể chuyện về ông nội, tôi đã lờ mờ thấy không ổn, giờ có được chứng cứ xác thực từ Doãn Hồng, đầu óc càng thêm rối loạn.
Nếu chuyện này là thật thì phiền phức to. Hóa ra chúng tôi là chú cháu yêu nhau à!
Doãn Hồng nào có biết những ý nghĩ lộn xộn trong đầu tôi. Bác ta thở dài, quay về tư thế cầu nguyện, nhắm mắt lại, “Những gì kể được tôi đã kể cả rồi, anh đi đi.”
Bấy giờ tôi mới nhớ ra mình còn việc chính chưa làm. Vội lắc đầu thật mạnh, tạm gạt hết những suy nghĩ miên man ra khỏi đầu, rút mảnh sứ vỡ trong túi áo ra đưa cho bác ta.
“Bác xem hộ mảnh vỡ này có gì đặc biệt không.” Giọng tôi cứng rắn, không cho phép thoái thác.
Doãn Hồng biết nếu không làm theo ý tôi thì không xong, đành quay lại, cầm lấy mảnh sứ, ngắm nghía thật kỹ.
“Sứ thanh hoa thời Minh à? Chóe vẽ tích cổ ư?” Doãn Hồng vừa xem vừa phán đoán, về cơ bản là đúng. Động đến chuyên môn, giọng bác ta tự tin hẳn.
Thợ vá gốm am hiểu khá sâu về đồ gốm sứ, có lúc còn biết nhiều hơn dân chơi gốm sứ. Dân sưu tầm thông thường hay để tâm tới hình dạng, màu men, lịch sử lưu truyền v.v… thiên về giám định và phân loại dưới góc độ thẩm mỹ, còn dưới góc độ của thợ vá gốm, họ chỉ thấy đây là một món đồ khiếm khuyết, men đọng thế nào, hoa văn rạn ra sao, họ xem xét tính chất của đồ vật, nghiên cứu thành phần của đồ vật. Khác biệt ở đây cũng từa tựa giữa giám khảo chấm thi hoa hậu và bác sĩ.
“Chủ yếu muốn nhờ bác xem cho vệt trắng này.” Tôi nhấn mạnh.
Doãn Hồng xoay miếng sứ trong tay, bắt đầu nhìn tới vệt trắng trên tay áo Gia Cát Lượng. Sợ nhìn không được rõ, bác ta còn giơ lên trước mặt, soi dưới ánh nắng từ ngoài chiếu vào, ngắm nghía thật lâu.
Đột nhiên bác ta đứng dậy, tôi cứ ngỡ ông bác này lại định bỏ chạy, chẳng ngờ bác Doãn sải bước đi đến trước bục giảng đạo, cạnh đó có một gian phòng nhỏ để cha xứ nghỉ ngơi và chuẩn bị. Cửa phòng không khóa, Doãn Hồng đi thẳng vào, lấy ra một chiếc ca sắt tráng men, trên ca còn đề dòng chữ “Phần thưởng nhân ngày 8-3 của đơn vị XX”, trông hoàn toàn lạc quẻ với không khí trong nhà thờ.
Doãn Hồng lắc cái ca, bên trong vẫn còn nước trà thừa. Bác ta ngâm mảnh sứ vào chừng hai phút rồi lấy ra xem, đoạn lại ngâm vào, lại lấy ra. Cứ thế ba lần, bác ta mới gật gù, trông ánh mắt như đã tìm ra câu trả lời.
“Bác phát hiện được gì rồi à?” Tôi hỏi.
Doãn Hồng trỏ cho tôi mép vệt trắng nọ, bấm cả ngón tay vào. Tôi giương to mắt, nhìn theo đầu ngón tay bác ta, song chẳng nhìn ra gì hết. Doãn Hồng giải thích, “Men trên đồ sứ gọi là hồ kính, thông thường không biến đổi theo thời gian. Nhưng nếu điều kiện quá kém, lớp men sẽ bị ăn mòn, một số phần còn mềm bở, dùng vật sắc cào sẽ thấy có bột rơi ra, gọi là xương xốp, tên khoa học là vôi hóa.”
Thợ bạc thông thường đều để dài móng ngón tay cái, tiện bấm vào bạc đánh dấu. Bác Doãn cào nhẹ móng tay vào lòng vệt trắng, tôi thấy rõ kẽ móng tay bác ta dính ít bột trắng.
“Thợ vá gốm hành nghề, ngại nhất là gặp phải xương xốp, bất luận là đục lỗ hay mài mỏng, men cũng sẽ bong mất một mảng, rất khó xử lý.”
“Nói vậy thì vệt trắng này cũng là dấu vết xương xốp ư?”
Giọng Doãn Hồng thoáng nghi hoặc, “Đúng là xương xốp, nhưng lại có vẻ như cố ý tạo ra. Anh nhìn lớp men quanh vệt trắng này, như thể có những đốm vôi hóa li ti, nổi lên bề mặt, đó là bột bạc được rắc lên. Anh gõ thử sẽ thấy, thật ra chất sứ vẫn rắn đanh, không hề bị mủn. Thời Dân Quốc có một phương pháp làm giả, cố ý tạo ra dấu xương xốp, hòng biến gốm mới thành gốm cũ.”
Hiểu biết của tôi về đồ gốm sứ vô cùng hạn hẹp, nghe mà phải mất một lúc mới hiểu, nhưng cũng đại khái nắm được ý của Doãn Hồng. Thông thường chất men ở viền khu vực xương xốp bị vôi hóa đóng vai trò vùng đệm giống như đồng bằng đệm giữa rừng rậm và thảo nguyên, nên không mềm hẳn cũng không rắn hẳn.
Mép vệt trắng trên mảnh sứ nọ rất cứng, không mang đặc tính của vùng đệm, mà được cố tình rắc bột bạc lên giả làm xương xốp.
“Mép mảnh vỡ này rất giống bị người ta cắt ra…” Doãn Hồng lẩm bẩm.
“Không thể nào, tôi tận mắt thấy chiếc chóe đó đổ vỡ, sau mới nhặt lấy một mảnh vỡ trong đó mà.”
Doãn Hồng bỏ qua luôn chủ đề này, “Anh có thấy vệt trắng trên những chiếc chóe khác không? Vị trí có giống nhau không?”
Tôi nghĩ lại, đến giờ mình mới chỉ được thấy chiếc chóe Ba lần ghé lều tranh và bản sao của chóe Quỷ Cốc Tử xuống núi, vệt trắng trên hai chóe lần lượt nằm ở ống tay áo của Gia Cát Lượng và Quỷ Cốc Tử.
“Vậy là đúng rồi. Để thể hiện các nếp áo nên chỗ đó thường tô nhiều men, dẫn tới bị đọng men, sờ lên sẽ thấy hơi gồ. Đồ phấn thái thời Đồng Trị có một loại gọi là men sóng nước, cũng tương tự như vậy. Lợi dụng độ dày ấy, người ta có thể giấu đồ vào bên trong, gọi là túi men.”
“Ồ? Làm sao thế được?” Tôi buột miệng. Đồ gốm sứ phải nung trong lò mấy nghìn độ, bên trong có giấu thứ gì cũng tan chảy hết. Dạo trước tôi đọc Ỷ thiên đồ long ký, kể rằng trong kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long có giấu Võ Mục di thư và Cửu âm chân kinh, song đâu có chuyện đó được, khi rèn đao kiếm, sách vở gì cũng sẽ cháy trụi, tương tự chuyện này thôi.
Doãn Hồng thong dong đáp, “Đâu nhất thiết phải là sách. Nếu khắc mấy chữ lên phôi thì vẫn giữ lại được như thường. Thời Minh có câu chuyện kể rằng một thợ gốm đổ bệnh nặng, sợ sau khi mình chết đi con rể sẽ cướp hết gia sản của đứa con trai út, nên đã dốc lòng nung ra một bình gốm. Sau khi ông ta mất, con trai ông ta được chị gái và anh rể nhận nuôi, gia sản cũng rơi vào tay họ, chỉ còn giữ được chiếc bình nọ bên người. tới khi đứa con trai mười lăm tuổi mới rạch túi men ra, thấy di chúc của cha khắc trên phôi gốm. Nó mang bằng chứng lên cáo quan, cuối cùng cũng lấy lại được gia sản.”
“Ý bác là trong túi men của chiếc chóe này cũng ẩn chứa thông tin gì ư?”
Doãn Hồng lật miếng sứ, phơi vệt trắng ra, “Ẩn chứa thông tin gì thì tôi không biết, nhưng rõ ràng thứ bên trong đã bị lấy đi rồi. Vệt trắng này là dấu vết để lại sau khi rạch túi men đấy. Để đề phòng người khác phát hiện, kẻ ấy đã ra sức sửa sang và ngụy trang cho vệt trắng, khiến nó trông chỉ như một vệt xương xốp.”
“Sao lại thế được? Tôi từng xem xét quanh mép vệt trắng, thấy trơn nhẵn phẳng lì, liền lạc với mặt sứ xung quanh. Nếu đã bị rạch ra, sao sửa lại không chút tì vết như vậy được?”
Đắp men cũng chẳng phải chuyện gì hiếm lạ. Thoa men đã pha chế lên chỗ cần sửa, cho vào lò nung, lấy ra là xong, thậm chí men rạn cũng có thể làm phỏng theo. Nhưng ngón này chỉ dùng được với gốm sứ đơn sắc chứ không thể là phẳng mối ghép trên bề mặt gốm sứ, thể nào cũng để lại một vệt xước. Ví như men sứ thanh hoa, nếu bị rạch ra tuyệt đối không thể đắp điếm lại như cũ được.
Doãn Hồng nhìn tôi đầy thâm ý, “Không có gì là tuyệt đối hết. Trên đời có một tuyệt kỹ vá gốm có thể rạch túi men ra rồi sửa sang lành lặn như mới, đó chính là Phi Kiều Đăng Tiên.”
“Hở?” Tôi sững sờ, Phi Kiều Đăng Tiên không phải kỹ thuật dùng vàng bạc trám lại gốm sứ ư?
Đã nói đến nước này, Doãn Hồng cũng chẳng kiêng kỵ gì nữa, bèn giải thích cho tôi. Hóa ra bốn chữ Phi Kiều Đăng Tiên không phải chỉ một kỹ thuật cụ thể, mà là một ngón nghề. Thợ gốm dùng lực cổ tay để điều khiển nước men hoặc dung dịch vàng bạc, phủ lên vị trí cần thiết trong thời gian cực ngắn, vừa có thể nạm vàng khảm bạc, vừa có thể tách men bồi men, sau khi sửa xong không để lại dấu vết gì.
Nguyên lý này cũng như sơn tường vậy, đưa từng nhát chổi thì có đều đến đâu cũng thấy vết chổi, nhưng nếu hắt cả thùng sơn lên thật khéo sao cho phủ kín cả mặt tường, thì sẽ trơn láng như gương.
Giảng giải xong, Doãn Hồng cầm mảnh sứ lên nói, “Phi Kiều Đăng Tiên chỉ có một khuyết điểm là cần chất dẫn. Mà chất dẫn này gặp chất theophylline trong trà sẽ ngả vàng. Nên không được dùng cách này để sửa lại đồ trà. Anh nhìn này.”
Dứt lời bác ta chìa mảnh sứ cho tôi, đưa mắt ra hiệu. Tôi nhớ vừa rồi bác ta đã ngâm mảnh sứ vào nước trà, vội đón lấy xem thử, quả nhiên thấy trong lòng vệt trắng hơi ngả vàng.
Tim tôi thót lại. Vệt vàng này chứng tỏ bộ chóe năm chiếc đã bị người ta dùng Phi Kiều Đăng Tiên rạch túi men, sau đó vá lại gần như hoàn hảo. Sở dĩ nói gần như hoàn hảo là bởi vẫn còn một vệt trắng không che giấu được, nên họ mới cất công rắc bột bạc xung quanh, giả làm xương xốp vôi hóa.
“Tuyệt kỹ này ngoài người nhà họ Doãn và Dược Thận Hành ra, còn ai biết dùng không?”
“Đâu ra, đây là tuyệt kỹ bí truyền của nhà họ Doãn mà.”
Tôi nhắm nghiền mắt lại, ngả người vào băng ghế nghĩ ngợi. Lẽ nào… lần cuối Dược Thận Hành về miền Bắc, có liên quan tới bộ chóe này? Ông ta không trở lại, nhưng lại gửi người cầm về bộ Kim Đáy Bể vốn của Hứa Nhất Thành sau khi xảy ra vụ án đầu Phật không lâu. Vậy có phải ông nội tôi cũng có liên quan tới bộ chóe năm chiếc kia không?
Quan trọng nhất là, Lão Triều Phụng vội vã phái Liễu Thành Thao tới Thiệu Hưng tìm truyền nhân của Phi Kiều Đăng Tiên, chứng tỏ lão rất coi trọng bí mật giấu trong mấy chiếc chóe. Lão biết hiện giờ cả Trung Quốc chỉ có Doãn Hồng nắm được tuyệt kỹ này, bác ta là chìa khóa duy nhất để mở bí mật.
Đả thông được một điểm, toàn cục sáng hẳn ra. Từng mảnh vỡ dần dà được tôi gom lại, thắp lên một con đường sáng sủa giữa sương mù, toàn cảnh bức tranh dần trở nên rõ nét. Dược Bất Thị nói phải, chỉ những manh mối mình tự tìm ra mới thực sự đáng tin. E rằng Lão Triều Phụng cũng không ngờ tôi đang đập vỡ từng mảng tường thành lão dày công dựng lên ở một nơi lão không hề hay biết, hòng đánh vào thành trì của lão.
Những việc cần làm tiếp theo đã rõ như ban ngày. Điều mà kẻ địch nôn nóng muốn có, tôi phải ra sức ngăn cản. Chỉ cần tôi khống chế được Doãn Hồng trước, ắt có thể gỡ gạc lại tình thế phần nào.
Giờ đã đến điểm mấu chốt để xoay chuyển cục diện, tôi cũng nên bắt đầu phản công thôi!
Tôi cầm lấy mảnh vỡ từ tay Doãn Hồng, đứng bật dậy, toàn thân bừng bừng ý chí chiến đấu. Doãn Hồng hơi ngả người ra ghế, mệt mỏi hỏi, “Những gì biết tôi đã nói cả rồi, giờ tôi đi được chưa?”
“Mạc Hứa Nguyện đang ở trong tay Liễu Thành Thao, tôi không thể để thêm người vô tội bị liên lụy nữa. Bác phải giúp tôi cứu cô ấy ra.”
“Không liên quan đến tôi.” Doãn Hồng thẳng thừng từ chối.
Tôi chắp tay sau lưng, thong thả đi đến trước bục giảng đạo, ngước nhìn lên cây thập giá rồi quay sang bảo bác ta, “Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, dù tôi có đi, chúng cũng không đời nào tha cho bác. Từ lúc chúng xông vào cửa tiệm, bác đã không thể sống yên ổn nữa rồi, trừ phi chúng đạt được ý nguyện hoặc bị đánh bại.”
“Bọn chúng… đâu có biết tôi ở đây…” Doãn Hồng tái mét mặt.
Tôi cười đáp, “Bác cá không? Trong vòng mười lăm phút nữa, nếu chúng tìm tới nhà thờ này thì tôi thắng, bác phải đi theo tôi; còn nếu không ai tìm đến thì bác thắng, tôi tự đi cứu người.”
Doãn Hồng cân nhắc hồi lâu, cảm thấy khả năng thắng khá cao, bèn nhận lời. Tôi kéo tay áo bác ta trốn vào sau bục giảng đạo. Bục gỗ ở đây vừa cao vừa rộng, đủ để hai chúng tôi núp bên trong, buông tấm nhung dày che lại là gần như không thể nhìn ra.
Chẳng bao lâu sau bên ngoài vang lên tiếng đẩy cửa, tiếp đó là tiếng chân rầm rập giẫm lên sàn gỗ. Tiếng chân lượn một vòng quanh nhà thờ, đang định nhảy lên bàn tiệc thánh thì nghe một tiếng hét kinh hãi, “Các người đang làm gì vậy?”
Hẳn là giọng cha xứ ở đây. Tiếng chân lập tức dừng lại, một tên hung tợn hỏi, “Vừa rồi có ai vào đây không?” Tôi nhận ra đó là giọng tên tay sai của Liễu Thành Thao. Cha xứ giận dữ mắng, “Đây là đất thánh, các người mau đi đi, không là tôi báo cảnh sát đấy.”
Lúc này Liễu Thành Thao mới lên tiếng, vẫn hết sức nhã nhặn lịch thiệp, “Xin cha tha lỗi, con đang cần tìm hai người bạn, nên khó tránh khỏi nôn nóng, không cố ý xúc phạm đâu ạ. Phúc âm thứ nhất có dạy rằng: nếu các ngươi tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi ở trên trời cũng sẽ tha thứ các ngươi. Mong cha bỏ quá cho.” Thấy y trích dẫn một câu Kinh Thánh, thái độ của cha xứ cũng dịu hẳn, “Ta không thấy ai vào đây cả, dù có các người cũng phải ra ngoài giải quyết, đừng làm ồn trong nhà thờ.”
Giọng Liễu Thành Thao cao hẳn lên, “Nếu cha có gặp bác Doãn thợ bạc, phiền chuyển lời hộ con, nói rằng chúng con đang bày tiệc khoản đãi ở đình Nhàn Vân trong vườn Thẩm, cô Mạc cũng tới giúp vui, chớ để chậm trễ, phí hoài cả cảnh đẹp.”
Nói rồi y chẳng buồn nấn ná thêm, quay lưng đi thẳng. Cha xứ quay về phía thánh giá cầu nguyện mấy câu, chợt thấy ca nước của mình đặt ngay trên băng ghế. Ông ta thoáng ngạc nhiên, lẽ nào mình lẩm cẩm quên cả cất vào phòng trong? Bèn cầm ca lên nhấp một ngụm, thấy không có gì lạ, mới lắc đầu đem đi.
Bấy giờ hai chúng tôi mới chui ra khỏi bục giảng đạo, tôi đưa mắt nhìn bác Doãn, ý tứ rất rõ ràng: Bác thua rồi.
Doãn Hồng tiu nghỉu, hỏi tôi làm sao biết được chúng sẽ tới đây. Tôi nhún vai, “Dân chơi cổ vật đều cực kỳ tinh mắt. Tôi vừa bước vào đã thấy trong phòng khách nhà bác treo một cây thánh giá, còn có cả tượng Đức Mẹ, bất luận là tay chủ Lan Kê Trai hay Liễu Thành Thao đều sẽ không bỏ qua chi tiết này. Vừa nãy Liễu Thành Thao đứng trên cầu Chữ Bát, chính là để phóng tầm mắt tìm xem xung quanh có ngọn tháp nhà thờ nào nhô lên không. Nếu ngay cả chút chuyện nhỏ đó còn không làm được, y sao có thể trở thành mũi tiên phong của Lão Triều Phụng chứ?”
Doãn Hồng nghe vậy mới vỡ lẽ. Tôi nhìn ra cửa, chợt thở dài, “Hơn nữa tôi ngờ rằng y đã phát hiện ra chúng ta rồi, chẳng qua ngại cha xứ nên không tiện ra tay đó thôi.” Đoạn tôi trỏ vết nước trên lối đi, đó là nước từ bộ đồ ướt sũng của chúng tôi nhỏ xuống lúc mới vào.
“Vừa rồi những lời y nói, tưởng như nói với cha xứ, song thực ra là cố tình nói cho chúng ta nghe. Để chúng ta biết Mạc Hứa Nguyện đang ở trong tay y, ta không tới gặp, cô ấy sẽ nguy đến tính mạng.”
Nghe vậy, Doãn Hồng không khỏi than vắn thở dài. Bác ta suy cho cùng cũng chỉ là một thị dân nhát chết, lại bị tôi buộc phải đương đầu với những kẻ địch hung tợn như thế, quả thực vô cùng bất đắc dĩ. Tôi tóm chặt vai bác ta, đanh mặt nghiêm giọng, “Bác Doãn, tôi rất nể phục hai đời nhà bác ẩn cư Thiệu Hưng giữ nghề, cũng không muốn quấy nhiễu cuộc sống của bác. Nhưng bác biết tuyệt kỹ Phi Kiều Đăng Tiên, ấy là ‘ngu phu vô tội, có ngọc là tội’, kẻ địch sẽ không thông cảm cho bác đâu. Giờ tên đã lên dây, nếu bác không đứng dậy phản kháng, sẽ bị chúng xơi tái không còn một mẩu xương.”
“Nhưng… nhưng bọn chúng là ai?”
“Kẻ thù của Minh Nhãn Mai Hoa, kẻ thù của ông Hứa Nhất Thành nhà tôi và ông Dược Thận Hành nhà bác.” Tôi chỉ nói tới đó, nếu nhắc đến Lão Triều Phụng, bàn tay đen đằng sau thế lực làm giả cổ vật phạm vi toàn quốc, e rằng sẽ làm bác Doãn sợ chạy mất dép.
Nghe nhắc tới Dược Thận Hành, Doãn Hồng cũng lấy lại được chút can đảm.
“Chuyện đã đến nước này, bác không thể thối lui được nữa, mà phải hợp tác với tôi mới có cơ sống sót.” Đoạn tôi kéo bác ta đi thẳng ra ngoài. Với những kẻ thế này, có bàn bạc cũng chỉ hao hơi, chi bằng xăm xăm quyết định thay họ cho rồi.
“Anh định tới vườn Thẩm thật ư?” Doãn Hồng sợ sệt hỏi.
“Đúng thế, tôi muốn thử xem Trại Tế Liễu ghê gớm đến mức nào.” Ánh mắt tôi sáng rực.
Muốn cắt đuôi bọn Trại Tế Liễu, tôi chẳng thiếu gì cách. Dù phải cứu cả Mạc Hứa Nguyện, tôi cũng có lòng tin mình sẽ rút lui an toàn. Nhưng làm vậy quá tiêu cực, tôi muốn hành động tích cực hơn. Trại Tế Liễu tuy nguy hiểm, nhưng là manh mối duy nhất dẫn tôi tới Lão Triều Phụng.
Từ trước tới giờ, tôi đều bị người của Lão Triều Phụng truy đuổi, nay đến lượt chúng nên nếm chút mùi đau khổ rồi.
Vùng Thiệu Hưng này nổi tiếng nhất ngoài quê Lỗ Tấn, còn có vườn Thẩm ở ngõ Xuân Ba. Đó vốn là vườn cảnh tư nhân của một nhà buôn họ Thẩm thời Nam Tống, nơi ghi dấu câu chuyện tình nổi tiếng của Lục Du và Đường Uyển. Ban đầu Lục Du và em họ là Đường Uyển kết hôn, hai vợ chồng tâm đầu ý hợp, nhưng vì mẹ Lục Du phản đối mà buộc phải ly hôn. Mười năm sau, Lục Du đi chơi vườn Thẩm tình cờ gặp Đường Uyển, đôi bên nhìn nhau không nói, Lục Du viết một bài từ Thoa đầu phượng để gửi mối tương tư bất lực, Đường Uyển đọc xong u uất quá mà chết, trước lúc lâm chung cũng làm một bài Thoa đầu phượng họa lại, trở thành tác phẩm đại diện cho mối tình thê lương nghìn đời. Khi đã ngoài bảy mươi, Lục Du lại dạo chơi vườn Thẩm, viết nên hai bài thơ Vườn Thẩm, mối tình xưa vẫn canh cánh không quên đã trở thành nỗi đau ông suốt đời khôn nguôi.
Giờ vườn Thẩm đã được trùng tu lại, sửa thành công viên di tích, mở cửa rộng rãi, dân bản xứ và khách du lịch đều có thể vào tham quan. Liễu Thành Thao chọn nơi này để hẹn gặp, quả là chó cậy gần nhà. Lúc chúng tôi đến nơi, mặt trời đã ngả về Tây, khách tham quan túm năm tụm ba trở ra, hẳn sắp tới giờ đóng cửa.
“Hay là báo cảnh sát…” Doãn Hồng vẫn chưa hết phân vân, rón ra rón rén như đi vào địa ngục.
Tôi lắc đầu, “Vô dụng thôi, từ đầu đến cuối Liễu Thành Thao đâu có đe dọa câu nào. E rằng đến giờ Mạc Hứa Nguyện vẫn bị bưng tai bịt mắt, còn chẳng biết mình đang rơi vào nguy hiểm kìa. Nếu gọi cảnh sát đến thì phải trình bày ra sao? Bọn Trại Tế Liễu xảo quyệt ở chỗ, thường ngày chúng sẽ khôn khéo tuân thủ pháp luật, không để lộ mảy may sơ hở, song một khi chúng thấy cần phải ra tay, thì sẽ không do dự đâu.”
Tuy tôi mới chỉ tiếp xúc với chúng một lần, nhưng mùi tanh nồng của đám trộm mộ đủ để tôi hiểu được tác phong làm việc của chúng rồi.
Tôi và Doãn Hồng bước vào vườn Thẩm, song chẳng có bụng dạ nào ngắm cảnh sắc đẹp đẽ xung quanh mà mải miết đi thẳng về phía Bắc. Ở đó có một hồ nước hồ lô và một ngọn giả sơn bằng đá Thái Hồ, di vật đời Tống chính hiệu. Phía trên giả sơn có ngôi đình Nhàn Vân dựng theo lối cổ, Liễu Thành Thao đang đợi chúng tôi tại đó.
Bên dưới giả sơn có mấy tên cao to mặt mũi bặm trọn canh giữ. Vừa thấy chúng tôi đến, chúng lập tức quây lại, trong đó có một tên cao đến hơn mét tám, cơ bắp gồ lên dưới bộ comple, tóm ngay lấy tôi, “Thằng ban chiều mày tạt axit vào mặt là em tao, giờ vẫn đang nằm viện đấy.”
“Rồi sao?” Tôi lạnh lùng vặn lại.
“Liệu đấy thằng ranh, tao tên Long Vương, sớm muộn gì cũng tẩn chết mày.” Ánh mắt hắn dữ tợn, song rốt cuộc vẫn không ra tay đánh người. Trái lại, Doãn Hồng thấy thế thì nhũn cả chân ra, suýt nữa ngã lăn từ trên bậc thềm xuống.
Chúng tôi bước lên giả sơn, thấy Liễu Thành Thao đang nói cười với Mạc Hứa Nguyện trong đình Nhàn Vân, trên chiếc bàn đá trước mặt họ bày một ấm tử sa Nghi Hưng cùng bốn chén trà men phấn thái, còn cả mấy đĩa hạt dưa hạt lạc.
Tôi tươi cười, thong thả bước tới. Doãn Hồng không muốn đưa chân lắm, nhưng bị tôi kéo tay áo, cũng đành vào theo. Mạc Hứa Nguyện quay ra thấy chúng tôi thì mừng rỡ gọi, “Bác Doãn? Hứa Nguyện?”
Nghe tiếng cô gọi, đầu tôi ong lên, cả người lạnh toát. Tôi quên mất mình từng nói tên thật cho Mạc Hứa Nguyện, lúc bấy giờ chỉ thấy đó là một sự trùng hợp có phần lãng mạn, giờ nghĩ lại đúng là chết dở.
Liễu Thành Thao chưa từng gặp tôi nhưng chắc chắn từng nghe cái tên “Hứa Nguyện”. Bị Mạc Hứa Nguyện gọi thẳng ra như vậy, tất cả kế hoạch tiếp theo của tôi đều đổ cả xuống sông, còn chưa ra trận đã bỏ mạng rồi.
Quả nhiên Liễu Thành Thao khựng lại, ánh mắt đầy nghi hoặc. Trí não tôi hoạt động nhanh như chớp, vội cười ha hả, cao giọng bảo Mạc Hứa Nguyện, “Bác Doãn, Mạc Hứa Nguyện, bác Doãn, Mạc Hứa Nguyện, tên cô đặt sau tên ai nghe cũng rất hay. À phải, sao cô lại tới đây?”
Mạc Hứa Nguyện ngượng ngùng nhìn Liễu Thành Thao, “Chẳng phải vì gặp anh Thao đây ư? Anh ấy cũng tới Thiệu Hưng du lịch, nói là rất thân với bác Doãn, còn hẹn bác ấy tới vườn Thẩm ăn tối. Tôi tới ăn chực thôi.”
Vẻ nghi hoặc trong mắt Liễu Thành Thao bấy giờ mới tan bớt. Tôi mừng thầm, may mà tên cô nàng này giống tên tôi nên mới lấp liếm được. Tiếc rằng kỹ năng diễn xuất của Doãn Hồng không bằng tôi, gương mặt đưa đám miễn cưỡng nặn ra một nụ cười, chẳng nói năng gì, trán đẫm mồ hôi.
Chúng tôi ngồi xuống bàn, đối diện hai người họ. Liễu Thành Thao ân cần rót đầy chén trà, cử chỉ tao nhã, phong độ ung dung, thực có vài phần giống các cậu ấm con nhà gia thế thời xưa. Mạc Hứa Nguyện ngồi bên cạnh nhìn mà sáng cả mắt lên.
Xong xuôi đâu đấy, Liễu Thành Thao mới chậm rãi nói, “Tuyệt kỹ của thầy Doãn, tôi đây rất ngưỡng mộ. Kỹ nghệ của các bậc thầy thủ công mỹ nghệ thế hệ trước không thể thất truyền như thế được, hay là thầy ra giá đi?”
Lời lẽ tha thiết, thái độ chân thành, cứ như cuộc ẩu đả hồi chiều chưa hề xảy ra vậy. Doãn Hồng hoảng vía nhìn sang tôi, tôi đành hắng giọng, “Bác Doãn đã ủy quyền cho tôi xử lý tất cả mọi chuyện rồi.”
“Ồ?” Liễu Thành Thao nhướng đôi mày bạc, “Vậy ý anh đây thế nào?”
Tôi liếc nhìn Mạc Hứa Nguyện, “Người lớn nói chuyện, trẻ con đừng chen vào thì hơn. Chúng tôi đã đến đây rồi, cô bé này cũng nên về nhà thôi, muộn quá lại bị mắng đấy.”
Tôi nói vậy một là để mau chóng cứu Mạc Hứa Nguyện thoát hiểm, hai là sợ cô nàng lại gọi tên mình ra lần nữa thì toi đời. Bom hẹn giờ phải gỡ càng sớm càng tốt. Song Liễu Thành Thao còn chưa tỏ thái độ, Mạc Hứa Nguyện đã cáu kỉnh gắt gỏng, “Anh làm sao thế hả? Tôi được anh Thao mời đến, chứ có phải khách của họ Hứa nhà anh đâu! Sao lại đuổi tôi đi, tôi cứ thích ở đây đấy!”
Tôi thầm than không ổn, vội chống chế ngay, “Phải, đúng là tôi đã hứa mời cô ăn cơm. Nhưng hôm nay muộn quá rồi, ngày khác ăn cũng được mà?”
Tôi than thầm trong bụng, cô nhóc này không biết tôi đang cứu cô ta. Còn nói nữa, tôi sẽ mệt chết vì chống chế mất. Mạc Hứa Nguyện đang dựng ngược mày tức tối, chợt Doãn Hồng đứng phắt dậy, hùng hổ chửi mấy câu bằng tiếng Thiệu Hưng.
Tuy tôi nghe không hiểu, nhưng chắc là rất nặng lời. Chỉ thấy Mạc Hứa Nguyện tức đến nỗi hai má đỏ bừng, nước mắt rưng rưng, bờ môi run rẩy, trông như sắp bốc hỏa trên đầu. Cô ta nhìn sang Liễu Thành Thao, mong anh trai khéo đón ý kia nói đỡ cho mình.
Nhưng Liễu Thành Thao chỉ ngồi yên tại chỗ, bưng chén trà lên hớp một ngụm trà thơm, không bình luận câu nào. Tôi và bác Doãn đã rơi vào tay y, Mạc Hứa Nguyện chẳng còn tác dụng gì nữa.
Thấy cậu ấm họ Liễu vừa rồi còn nói cười vui vẻ, vậy mà giờ lại lờ đi như không thấy cảnh mình bị mắng, Mạc Hứa Nguyện ứa nước mắt. Cô cắn môi, gỡ chiếc kẹp tóc bằng bạc trên đầu ra ném vào bác Doãn rồi giậm chân quay lưng chạy xuống giả sơn, từ xa chỉ nghe tiếng nức nở vẳng lại.
Mạc Hứa Nguyện đi rồi, tôi thấy nhẹ cả người. Liễu Thành Thao nhấc ấm tử sa rót thêm cho chúng tôi mỗi người một chén trà.
Miệng ấm tổng cộng chúc xuống ba lần. Đây gọi là phượng ngọc gật đầu ba lần, một thủ pháp chiêu đãi khách quý của người Phúc Kiến, nhưng khi Liễu Thành Thao rót trà, ngón trỏ lại đè lên ngón cái làm ý nghĩa thay đổi hoàn toàn, trở thành nhượng bộ ba xá, ý nói mình đã nhượng bộ đến cực hạn, không thể nhường thêm nữa. Tỏ thái độ thông qua tư thế rót trà khéo léo hơn là nói thẳng ra miệng, khiến không khí đỡ gay gắt.
Liễu Thành Thao làm vậy là muốn tỏ rõ thái độ với chúng tôi, lần này y ắt phải được như ý.
Nhìn gương mặt tuấn tú tươi cười nọ, tôi chỉ thấy ác cảm khó tả. Liễu Thành Thao nhướng mày hỏi, “À phải, hồi chiều tuy có duyên gặp mặt một lần, nhưng vẫn chưa kịp hỏi quý anh tên gì.”
“Uông Hoài Hư.” Tôi dùng tên giả ở Vệ Huy. Trước mặt Liễu Thành Thao, tôi không dám để lộ thân phận.
“À, anh Hư. Nghe tay chủ Lan Kê Trai nói, anh tới tìm thầy Doãn để học vá gốm à?”
Trong đàm phán, quan trọng nhất là không để bị người ta dắt mũi, tôi không trả lời y mà nói thẳng vào đề, “Bác Doãn Hồng hiện giờ đã toàn quyền ủy thác cho tôi xử lý việc này, tôi mong rằng có thể tiến tới hợp tác công bằng với các vị.”
“Hợp tác à?”
Liễu Thành Thao phì cười, như vừa nghe một câu chuyện tiếu lâm thú vị, “Chuyện này hơi phiền phức đấy, hình như anh chẳng có ưu thế nào để bàn chuyện hợp tác cả?” Y nửa cố ý nửa vô tình liếc xuống dưới giả son, nơi thấp thoáng bảy tám tên tay sai, muốn ra tay thì bất cứ lúc nào chúng cũng có thể xông lên.
Tôi chẳng muốn vòng vo dài dòng, bèn buông ra tám chữ, “Bộ năm chóe thanh hoa vẽ tích cổ.”
Từng chữ quất mạnh vào mặt Liễu Thành Thao, khiến đôi mày trắng muốt đầy quái dị của y nhướng lên.
Y biết tôi đến vì chuyện vá gốm, cũng biết tôi tìm bác Doãn có thể là vì Phi Kiều Đăng Tiên, nhưng không ngờ tôi lại biết cả bộ chóe năm. Đây hẳn là mục đích quan trọng và bí mật nhất của chúng.
Tôi căng thẳng quan sát thái độ của y, ngửa cổ uống cạn trà trong chén, giữa lòng bàn tay và chén sứ bắt đầu có mồ hôi tứa ra.
Liễu Thành Thao không hề giấu vẻ ngạc nhiên, “Trời ạ, anh biết cả bộ chóe năm cơ à? Lúc trước đúng là quá coi thường anh rồi.”
“Anh nghĩ tôi đến tìm bác Doãn là vì sao? Chẳng phải là vì chiếc chìa khóa Phi Kiều Đăng Tiên này ư?” Tôi tiếp tục ném ra một quả bom nặng ký, dẫn dụ con cá mập nguy hiểm này tiếp tục bơi tới. Quả nhiên, thấy tôi biết cả chuyện “chìa khóa”, gương mặt Liễu Thành Thao chợt trở nên nghiêm túc chưa từng thấy.
Đây là một nước cờ mạo hiểm. Tôi chủ động để lộ những điều mình biết về bộ chóe năm, cũng có nghĩa bước lên một sợi dây thép cực kỳ chông chênh, chỉ cần sơ một ly là sẽ ngã nhào.
Nhưng đây là con đường duy nhất dẫn tới thành trì của Lão Triều Phụng.
Mắt Liễu Thành Thao ánh lên vẻ nguy hiểm, y lại nhẹ nhàng rót cho tôi một chén, “Anh cần chìa khóa làm gì?”
“Trong tay tôi có một chiếc trong bộ chóe năm, chóe Thắp nhang vái trăng.” Tôi nheo mắt nhả từng chữ, tức thì trong đình im phăng phắc.
Đây là kết quả tôi nghiền ngẫm đã lâu. Trong bộ chóe năm, có thể khẳng định Quỷ Cốc Tử xuống núi đang ở trong tay Lão Triều Phụng, Ba lần ghé lều tranh đã vỡ nát ở Hàng Châu. Chỉ còn ba chiếc, ít nhất có một chiếc tôi dám chắc Lão Triều Phụng không có, chính là chóe Thắp nhang vái trăng đồ sưu tầm của nhà họ Trịnh ở Trường Xuân. Dược Bất Nhiên từng nói đến chiếc chóe ấy, kể rằng chẳng biết nhà họ Trịnh đã bán từ lúc nào, hiện giờ không rõ tăm tích.
Muốn câu Liễu Thành Thao, tốt nhất là tiết lộ tôi có một chiếc trong bộ chóe năm. Lấy nó làm mồi nhử, Trại Tế Liễu ắt sẽ cắn chặt không nhả.
Liễu Thành Thao trầm ngâm giây lát rồi hỏi, “Ồ, chóe ấy lai lịch thế nào?”
Cổ vật rất coi trọng việc truyền thừa, mua được từ đâu, đào được trong mộ nào, đều phải kê khai rõ ràng. Nhiều bảo tàng nước ngoài thậm chí sẽ không thu mua nếu món đồ không được kê khai lai lịch đầy đủ. Liễu Thành Thao hỏi vậy, rõ ràng không tin tôi có chóe thật. Chóe thanh hoa vẽ tích cổ nhan nhản, chỉ riêng Vệ Huy đã có cả đống chóe Quỷ Cốc Tử xuống núi nhái, tôi nói tôi có một chiếc, nhưng lấy gì chứng minh đó là hàng thật?
Tôi đã lường trước y sẽ hỏi vậy, bèn cười khì, “Trăm nghe không bằng một thấy. Lai lịch thế nào không quan trọng, nếu không ngại mời anh xem luôn hiện vật.” Đoạn tôi rút trong túi áo ra một mảnh sứ vỡ, đặt lên bàn đá. Thoạt trông thấy mảnh sứ nọ, mặt Liễu Thành Thao cuối cùng cũng tái đi.
Y vẫy tay, người bên cạnh vội đưa tới một chiếc kính lúp. Y cầm kính săm soi mảnh sứ hồi lâu, sờ nắn kỹ càng, kiểm tra cả vệt trắng kia, rồi mới ngẩng lên lần nữa.
“Nói vậy là chóe Thắp nhang vái trăng vỡ rồi ư?”
“Không sai, đây là một trong số mấy mảnh vỡ, vốn là tay áo Trương Sinh.” Tôi thản nhiên thừa nhận. Bác Doãn ngồi bên cạnh cúi đầu uống trà, chỉ sợ để lộ sơ hở.
Mảnh sứ này dĩ nhiên là từ chiếc chóe Ba lần ghé lều tranh.
Có lẽ sẽ có người hỏi, Gia Cát Lượng là nhân vật nhà Hán từ thời Tam quốc, Trương Sinh là nhân vật trong câu chuyện thời Tống Nguyên, hình tượng đôi bên khác xa nhau, Liễu Thành Thao bị bạch tạng chứ đâu phải tăng nhãn áp, sao lại không phân biệt được chứ?
Đừng quên đây không phải bức tranh hoàn chỉnh mà chỉ là một mảnh sứ vỡ, bên trên chỉ có già nửa cánh tay và tay áo của Gia Cát Lượng, không có mặt, cũng chẳng có tay.
Tôi chưa từng thấy chóe Thắp nhang vái trăng thật, nhưng cũng đã đọc Tây sương ký vài lần. Trong chương ba tập một, có một cảnh là “hiên ngọc sạch không, sông Ngân cuồn cuộn, ánh trăng ngang trời, bóng hoa rợp đất”, Thôi Oanh Oanh ngồi trong buồng khuê buồn chán, bèn ra giữa sân thắp hương, vái trăng cầu nguyện. Trương Sinh hàng xóm nhòm qua bờ tường, buột miệng ngâm một bài thơ, xướng họa với Oanh Oanh. Đôi bên tuy chưa gặp mặt, nhưng đã nảy sinh tình cảm.
Bởi vậy tôi đoán trên chóe Thắp nhang vái trăng ắt vẽ cảnh Trương Sinh đứng bên tường lắng nghe, bèn nói dối tay áo Gia Cát Lượng thành tay áo Trương Sinh.
Như tôi từng nói lúc trước, thợ thủ công thời xưa ít được học hành, không nghiên cứu kỹ cách phục sức qua các thời đại, thường chỉ vẽ theo kiểu dáng mình quen thuộc nhất nên khó tránh xảy ra lỗi nhầm lẫn về thời, trong ngành gốm sứ đây không tính là sai sót. Bởi vậy bất luận là Quỷ Cốc Tử thời Chiến Quốc, Gia Cát Lượng thời Tam Quốc hay Trương Sinh thời Tống Nguyên, thợ gốm đều có thể nhất loạt cho ăn mặc theo lối thời Tống, phong cách tay áo cũng giống hệt nhau. Chỉ từ một mảnh sứ vỡ thì khó mà phân biệt.
Huống hồ bộ chóe năm này đều từ một lò nung ra, bất luận chất phôi, sắc men, độ rạn, hồ bọc, chấm loang hay bút pháp đều giống hệt nhau, không thể làm giả được. Quan sát từ các góc độ này sẽ chỉ càng chứng minh mảnh sứ này là thật. Trừ phi có người lấy được ngay hai chiếc chóe Ba lần ghé lều tranh và Thắp nhang vái trăng ra so sánh với nhau, mới thấy được sơ hở.
Nhưng chóe Ba lần ghé lều tranh đã bị hủy, còn Thắp nhang vái trăng không rõ tung tích, có thể gọi là chết không đối chứng.
Liễu Thành Thao kiểm tra đi kiểm tra lại hồi lâu, xem thủ pháp của y, hẳn cũng am hiểu khá rõ về đồ gốm sứ. Có điều chiêu thay mận đổi đào này của tôi gần như không có sơ hở, y đời nào nhìn ra được.
Đột nhiên Liễu Thành Thao nhón mảnh sứ, ném tõm vào chén trà. Tôi và Doãn Hồng đồng loạt nhướng mày, hiển nhiên y cũng biết khuyết điểm duy nhất của Phi Kiều Đăng Tiên. Nghĩ cũng phải, Lão Triều Phụng đã moi ra được kẻ ẩn cư Thiệu Hưng như bác Doãn, hẳn phải hiểu rất rõ về tuyệt kỹ này.
Có điều biết thì biết vậy, Liễu Thành Thao kiểm nghiệm theo cách này chỉ càng chứng tỏ chúng tôi không nói dối.
Liễu Thành Thao vớt mảnh sứ ra, nheo mắt săm soi hồi lâu, cuối cùng cũng thấy được vệt bợn vàng. Y ngẩng lên nói, “Tốt lắm, anh Hư, tôi bắt đầu chú ý đến anh rồi đấy.”
Tôi thầm thở hắt ra. Y nói thế, chứng tỏ đã thừa nhận mảnh sứ này thuộc về chóe Thắp nhang vái trăng. Tôi tủm tỉm cười, “Tiếc rằng chỉ đem được một mảnh này tới, nhưng có vệt trắng, hẳn cũng đủ rồi.”
Liễu Thành Thao nghiêm sắc mặt, cuối cùng cũng chịu tin tôi thực sự nắm được không ít tin tức. Chúng tìm bộ chóe năm, không phải để sưu tầm, dù chóe có vỡ nát cũng chẳng sao, chỉ cần vệt trắng này mà thôi. Tôi cố ý đưa mảnh sứ này ra, chứng tỏ tôi cũng biết rõ ý nghĩa bên trong như lòng bàn tay.
“Thảo nào hồi chiều anh phản ứng mạnh như vậy, té ra chúng ta là người cùng đường.”
“Không dám, nếu không phải các vị nhiệt tình hăng hái như thế, tôi làm sao giành được lòng tin của thầy Doãn?”
Chúng tôi đấu khẩu mấy câu rồi cùng phá lên cười. Tôi hỏi, “Vậy giờ chúng ta hợp tác bình đẳng được chưa?”
Liễu Thành Thao khép hai bàn tay lại, kẹp mảnh sứ vào giữa rồi cười, “Anh Hư đúng là ngay thẳng, không ngờ anh lại tin tưởng tôi như vậy. Nếu giờ tôi lấy mảnh sứ này đi thì anh định thế nào?”
Tôi thản nhiên đưa chén trà lên miệng, “Vệt trắng này đáng là gì? Anh cứ việc lấy đi. Có điều thứ ẩn giấu đằng sau nó, các vị cứ tự đi mà đoán nhé.”
“Ồ? Nói vậy là anh biết vệt trắng này che giấu thứ gì rồi ư?” Liễu Thành Thao hồn nhiên hỏi.
“Ha ha.”
Tôi không nói thêm nữa, chỉ hờ hững liếc bác Doãn bên cạnh, dùng sự im lặng để nói lên tất cả.
Hai tiếng “ha ha” là một câu trả lời vạn năng. Vừa có thể né tránh mũi nhọn của địch, lại có thể tỏ ra thâm sâu khó dò.
Qua những gì tôi tiết lộ, Liễu Thành Thao đã tin chắc trong tay tôi có chóe Thắp nhang vái trăng, hơn nữa còn nhờ được bác Doãn rạch vệt trắng ra lần nữa, nắm bí mật bên trong. Thế này thì dù Lão Triều Phụng lấy được bốn chiếc chóe kia, nhưng thiếu chiếc của tôi, cũng không thể trọn vẹn được.
Còn như tôi có bằng lòng chia sẻ bí mật này cho bọn chúng hay không, thì phải xem biểu hiện của chúng.
Liễu Thành Thao cười tươi rói, ném trả tôi mảnh sứ, “Anh Hư đúng là sành sỏi, thằng em phục sát đất rồi. Trại Tế Liễu chúng tôi thật hân hạnh được tính chuyện làm ăn với người như anh đây. Anh thấy chuyện này nên tính thế nào?”
Thế là y đã chính thức mắc câu, bắt đầu bàn điều kiện với tôi rồi. Lòng mừng như mở hội, nhưng tôi vẫn tỏ ra bình tĩnh nói, “Tôi biết bí mật của vệt trắng, song trong tay chỉ có một chiếc chóe, chắc bốn chiếc kia đều ở chỗ các vị rồi đúng không? Chi bằng chúng ta gộp cả năm chóe lại hưởng chung, ai lấy phần lợi nấy.”
Liễu Thành Thao thoáng bĩu mồi, y không ngờ tôi lại tham lam đến vậy.
“Không có bí mật của tôi, không có tuyệt kỹ của bác Doãn thì dù các người có đủ năm chóe cũng chẳng làm nên trò trống gì, không có bốn chiếc chóe của các người, bí mật tôi nắm giữ cũng chẳng còn ý nghĩa. Thế nên chúng ta hợp tác, đôi bên cùng có lợi.”
Thấy Liễu Thành Thao lặng thinh không đáp, tôi cười hỏi, “Việc lớn thế này, chú em còn trẻ, có quyết định được không đấy?”
Liễu Thành Thao giơ tay xoa mép, “Anh thấy tôi miệng còn hôi sữa nên muốn trao đổi với bề trên chứ gì?”
Tôi cười khanh khách, “Tôi vội gì đâu, lúc nào tiện cho các vị là được.” Ý tứ rất rõ ràng, việc này là các người cầu tôi nên phải tỏ chút thành ý, để tôi gặp người vai vế cao hơn. Tôi đoán kẻ vai vế cao hơn Liễu Thành Thao chắc chỉ có Lão Triều Phụng.
Liễu Thành Thao tỏ vẻ khó xử, “Sớm muộn gì anh chẳng nói, nói với ai mà chẳng thế?”
“Ha ha.” Tôi cười.
Tôi hoàn toàn không biết bí mật trong vệt trắng, thậm chí còn chẳng rõ bọn Liễu Thành Thao đã biết được bao nhiêu, nhưng tôi phải vờ như nắm rõ trong lòng bàn tay. Bất luận đối phương nói gì, tôi cũng chỉ cười khà đầy ẩn ý, khiến chúng thêm bồn chồn lo lắng.
Quả nhiên, thấy tôi cười khinh khỉnh, Liễu Thành Thao cũng chột dạ. Y ngẫm nghĩ đoạn bảo, “Anh nói phải, việc này lớn quá, không thể quyết định vội vã được. Tôi về xin ý bề trên cái đã, sau đó sẽ liên hệ với anh được không?”
“Được thôi, được thôi.”
Tôi đứng dậy, ra hiệu cho Doãn Hồng về cùng mình. Liễu Thành Thao lại nói, “Vừa rồi mới nói chuyện của anh Hư, tôi còn chưa đề cập tới chuyện của thầy Doãn.” Nhưng tôi đã xua tay, “Việc của bác ấy cũng là việc của tôi. Việc tôi đã bàn xong, việc bác ấy cũng xong rồi.”
Mấy tên đô con xung quanh bắt đầu rậm rịch, chỉ cần Liễu Thành Thao nói một tiếng, chúng sẽ xông đến khống chế chúng tôi. Liễu Thành Thao nhìn xoáy vào mắt tôi, tôi cũng nhìn thẳng vào mắt y. Đấu mắt chừng mười giây, cuối cùng Liễu Thành Thao khẽ thở dài, “Mời hai vị về, ngày mai có kết quả, tôi sẽ cho xe tới đón các vị.”
Vốn dĩ y định trói gô chúng tôi lại bắt đi, nhưng thấy thái độ vừa rồi của tôi, biết chúng tôi đã có chuẩn bị, nếu nhất quyết trở mặt thành thù, chỉ e hậu quả khó lường. May mà tôi cũng nhờ vả lại chúng nên chẳng cần lo chúng tôi nửa đêm bỏ trốn.
Thế là trước cái nhìn lom lom của một đám côn đồ, tôi dẫn Doãn Hồng xuống giả sơn, đi được nửa đường đột nhiên vòng lại.
“Ồ, anh còn việc gì ư?” Liễu Thành Thao ngẩn người.
“Tôi và thầy Doãn không ưa tay chủ Lan Kê Trai cho lắm.”
Nghe vậy Liễu Thành Thao cả cười, “Được thôi, mai tôi sẽ bảo anh ta đổi nghề khác.”
Chuyện này suy cho cùng do tay chủ Lan Kê Trai gây ra, Doãn Hồng hận hắn đến tận xương tủy. Giờ việc hợp tác đã thành công bước đầu, tiện thể mượn dao giết người, trả thù tên đó, cũng coi như trút giận hộ bác ta. Huống hồ tôi càng đưa ra nhiều yêu cầu càng chứng tỏ thành ý hợp tác, có thể đập tan những nghi ngờ của chúng. Nếu tôi vội vã bỏ đi không ngoảnh đầu lại, mới là giả dối.
Có điều tên Liễu Thành Thao này cũng tàn nhẫn thật, tay chủ Lan Kê Trai cúc cung phục vụ lại vừa lập công cho y, vậy mà quay đi quay lại đã bị bán đứng.
Chúng tôi cảm ơn Liễu Thành Thao rồi rời vườn Thẩm. Mãi tới khi bước ra khỏi cổng, tôi mới thấy sống lưng lạnh toát như ngấm mồ hôi. Những kẻ tôi phải đối mặt đều là quân liều mạng hung tàn, chơi trò tay không bắt giặc với chúng, chỉ cần sơ sẩy một ly, có thể sẽ phải trả giá đắt. Vừa rồi trò chuyện mấy câu mà tôi gần như đã phải dốc cạn tâm sức.
“Bác về đâu đây?” Tôi hỏi Doãn Hồng.
Doãn Hồng hôm nay suốt buổi chẳng hé răng nửa câu, hoàn toàn phó mặc cho người ta mổ xẻ. Nghe tôi hỏi, bác ta thở dài, “Tôi còn đi đâu được nữa? Đi đâu cũng bị theo dõi thôi.”
“Đâu khắc có đó. Chỉ cần bác yểm hộ tôi trà trộn vào nội bộ chúng suôn sẻ, tôi nhất định sẽ bảo vệ bác chu toàn.” Tôi trấn an bác ta.
Cuộc trò chuyện vừa rồi coi như đã câu được Liễu Thành Thao, ngày mai không chừng sẽ có kẻ vai vế lớn hơn xuất hiện. Chỉ cần tìm một cơ hội thích hợp, tôi sẽ đưa Doãn Hồng thoát hiểm.
Tôi bèn nói, “Giờ bác về cầu Chữ Bát không an toàn đâu, quanh đó vắng người, lỡ chúng nổi tính tàn độc bắt bác đi, có khi bác chẳng kịp báo cảnh sát, chi bằng theo tôi về khách sạn đi.”
Doãn Hồng nghĩ đi nghĩ lại đành gật đầu, rồi lại thở dài than ngắn, chừng như vẫn chưa yên tâm. Hôm qua bác ta vẫn còn là một thợ bạc nhỏ bé không tranh với đời, vậy mà hôm nay đã bị tôi kéo vào cuộc phân tranh hung hiểm này.
Có điều nếu không có tôi ở đây, e rằng bác ta đã bị bắt rồi. Người của Trại Tế Liễu đến trộm mộ còn dám, có gì không dám làm?
Chúng tôi rời khỏi ngõ Xuân Ba, cố tình tìm một nhà khách gần đồn cảnh sát, thuê hai phòng. Đây là nhà khách trực thuộc hệ thống công an, tôi dùng giấy chứng nhận Phương Chấn cho để đặt phòng, Trại Tế Liễu có gan lớn bằng trời cũng chẳng dám tới đây làm loạn.
Lúc sắp vào phòng, tôi chợt gọi Doãn Hồng lại, thì thầm dặn dò mấy câu. Thoạt nghe Doãn Hồng lộ vẻ miễn cưỡng ra mặt, nhăn nhó như khỉ ăn gừng. Tôi hừm một tiếng, đe rằng nếu bác làm không xong thì mai đừng hòng giữ mạng. Bấy giờ bác ta mới nhận lời, mở cửa bước vào phòng rồi sập lại đánh rầm.
Tôi vào phòng mình, vén rèm lên, nhìn ra ngoài qua ô cửa kính chạm sàn, thấy mấy bóng người nấp nom bên kia đường. Hẳn là người Trại Tế Liễu phái tới theo dõi chúng tôi, bọn chúng làm việc đúng là kỹ càng cẩn mật.
“Yên tâm, lần này tao không chuồn đâu, tao sẽ theo sát chúng mày, tới khi thấy rõ kết quả mới thôi.” Tôi nhủ bụng rồi kéo soạt rèm lại, nhưng vẫn để đèn sáng.
Thấy đã gần mười một giờ, tôi lẻn ra khỏi phòng, xuống quầy lễ tân dưới nhà rút chứng nhận của cục Tám ra, yêu cầu đổi phòng khác. Lễ tân nhìn tôi vẻ hơi bực, song tôi nói phòng kia có mùi thuốc lá, không ngủ được. Cô nàng “à” một tiếng, nhanh nhẹn đổi giúp.
Chuyển sang phòng mới, xác nhận xung quanh không có kẻ nào khả nghi, tôi mới cầm điện thoại trên tủ đầu giường lên, quay số.
Chuông reo năm tiếng thì có người bắt máy.
“A lô Phương Chấn à, tôi Hứa Nguyện đây.” Tôi cầm ống nghe, cố hạ giọng thật thấp.
Phương Chấn là người duy nhất biết chuyện tôi và Dược Bất Thị hợp tác, đồng thời cũng là người bạn duy nhất chúng tôi tin tưởng. Đây là số điện thoại chúng tôi đã giao hẹn từ đầu, để liên lạc một chiều khi có việc khẩn cấp. Giờ tôi sắp xâm nhập nội bộ Trại Tế Liễu, trước khi xông vào hang cọp, phải sắp xếp sẵn quân tiếp viện bên ngoài, bằng không có khi chết còn không biết tại sao mình chết nữa.
“Hứa Nguyện, cuối cùng cậu cũng gọi tới.” Giọng Phương Chấn là lạ. Xưa nay y vốn lạnh lùng điềm tĩnh, chẳng bao giờ để lộ mảy may cảm xúc. Song tôi lại cảm thấy lúc này y có phần xúc động.
“Sao thế?” Tôi tranh hỏi trước.
“Cụ Lưu mất rồi.”